PHPT2 K.V - Bài thứ 6: MƯỜI TÔN PHÁI PHẬT GIÁO Ở TRUNG HOA - LUẬT TÔN
PHẬT HỌC PHỔ THÔNG QUYỂN 2
Sa môn THÍCH THIỆN HOA
KHÓA V: LỊCH SỬ TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO,
10 TÔN PHÁI VÀ VŨ TRỤ NHƠN SINH
Bài thứ 6: MƯỜI TÔN PHÁI PHẬT GIÁO Ở TRUNG HOA
LUẬT TÔN
Không phải riêng gì đạo Phật, tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, theo với thời gian và sự phát triển, đều có chia ra nhiều tôn phái. Sự phân phái ấy là một lẽ đương nhiên phải có để cho các căn cơ và hoàn cảnh khác nhau đều có thể thích hợp được. Nếu không, thì đạo không thể phát triển được về bề sâu cũng như bề rộng. Hơn một tôn giáo nào cả, đạo Phật không có những giáo điều thần khải, không có một tinh thần rắn chắc, gò bó trong những hình thức hẹp hòi, câu nệ, mà trái lại, rất phóng khoáng, tự do, dễ khoan hòa, dung hiệp, nên Đạo Phật đi đến đâu cũng có thể phát triển đúng theo căn cơ và hoàn cảnh riêng biệt ở địa phương ấy. Do đó, mà đạo Phật có rất nhiều màu sắc riêng biệt khi lan tràn trên các nước.
Riêng ở Trung Hoa, Đạo Phật đã có chia mười tôn phái. Trong mỗi tôn phái đều có đặc điểm riêng, nhưng không bao giờ vượt ra ngoài giáo pháp của Phật cả. Những tôn phái này cũng như những con đường khác nhau,có đường thẳng đường cong, đường cao đường thấp, đường rộng đường hẹp, nhưng con đường nào cũng đưa đến một mục đích chung cả. Hành giả sẽ tùy theo trình độ trí thức, khả năng, sở thích riêng mà lựa chọn con đường nào thích hợp với mình nhất để tu tập. Có như thế thì sự tu hành mới chóng có kết quả.
Mười tôn phái ở Trung Hoa là: Luật tôn, Tịnh độ tôn, Thiền tôn, Pháp tướng tôn, Mật tôn, Thiên thai tôn, Hoa nghiêm tôn, Tam luận tôn, Câu xá tôn và Thành thật tôn.
Trong 10 tôn này, Câu xá tôn và Thành thật tôn chủ trương về Tiểu thừa; Luật tôn và Thiền tôn thông cả Ðại và Tiểu thừa, còn 6 tôn kia thuộc về Ðại thừa.
Nghĩa lý của các tôn rất mầu nhiệm, kinh điển cũng rất nhiều, muốn hiểu cho thấu đáo, cần phải chuyên môn nghiên cứu công phu trong nhiều năm. Trong phạm vi của khóa Phật học phổ thông này, chúng ta không thể đi sâu vào mỗi tôn được. Ở đây, chúng ta chỉ nên biết qua đại khái về giáo lý và làm quen với danh từ các tôn ấy, để có chỗ nhập môn mà thôi. Sau này, khi học cao hơn, chúng ta sẽ đi sâu vào từng tôn phái một và sẽ tùy theo căn cơ sở thích của mình mà lựa một trong những tôn ấy để tu hành.
LUẬT TÔN
I. DUYÊN KHỞI LẬP TÔN
Tôn này dùng Luật làm chỗ căn cứ nên gọi là Luật tôn. Ðức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà chế ra nhiều loại giới luật để răn dạy đệ tử, hóa độ chúng sanh. Sau khi Ngài nhập Niết-bàn, các đệ tử của Ngài, như Ngài Ưu-Ba-Li là vị tinh thông về giới luật đứng trên pháp tọa trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, đã tụng đọc lại những giới luận mà đức Phật đã chế ra. Lần kết tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên Ngài Ưu-Ba-Li phải đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi người trong hội đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên là “Bát thập tụng luật”. Về sau, tuần tự theo thời gian, nguyên thủy Phật giáo lần hồi chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo một bộ luật riêng. Trong số các bộ luật này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều nhất là các bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng kỳ, Ngũ phần.
Những bộ luật này được truyền sang Trung Hoa và được phiên dịch ra Hán văn. Ðến đời Ðường, Ngài Trí Thủ Luật sư chú giải các bộ ấy, và đệ tử của Ngài là Ðạo Tuyên Luật sư, nhận thấy trong các bộ ấy, bộ luật Tứ phần là thích hợp với căn cơ người Trung Hoa, nên đã căn cứ vào bộ Luật này để lập ra Luật tôn. Ngài Ðạo Tuyên là người ở Chung Nam Sơn, nên người đời cũng gọi tôn này là “Chung Nam Sơn tôn” để phân biệt với các Luật tôn khác, như của các Ngài Pháp Lệ bên phái Hữu tướng bộ, hay Ngài Hoài Tố ở Ðông pháp.
Trong các tôn này, chỉ có Luật tôn của Ngài Chung Nam Sơn là thạnh hành hơn hết và được truyền bá cho đến bây giờ, vì nó dung hòa cả Ðại thừa lẫn Tiểu thừa.
II. TÔN CHỈ VÀ ÐẶC ÐIỂM CỦA LUẬT TÔN
Phàm một tổ chức, một công việc gì đúng đắn cũng đều phải tuân theo những quy luật nhất định. Hơn tất cả, sự tu hành lại càng phải tuân theo những giới luật nghiêm minh. Như chúng ta đã biết trong phần giáo lý căn bản, nghiệp là động lực chính của vũ trụ nhân sanh. Nghiệp định đoạt tất cả đời sống của chúng ta. Nghiệp có ba loại: nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói và nghiệp của ý nghĩ. Nếu những nghiệp ấy được thanh tịnh, không tạo ra các điều ác, thì ta không thọ quả báo sanh tử luân hồi. Không có quả báo sanh tử luân hồi thì tất nhiên là được giải thoát. Muốn các nghiệp được thanh tịnh thì ta phải giữ gìn giới luật. Giữ gìn giới luật, chính là một phương pháp tu hành trong nhiều phương pháp mà Phật đã chế ra. Phương pháp này rất thiết thực và rất hiệu nghiệm đối với Phật tử chúng ta:
- Giữ giới không sát nhơn hại vật, hiện đời không làm người hung dữ, khỏi bị tù tội, về sau khỏi bị đọa trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, và khỏi bị người giết hại, đó là tu.
- Giữ giới không trộm cướp, thì hiện thời làm người lương thiện khỏi bị giam cầm xiềng xích, đời sau không mắc quả báo, bị người giựt của cướp nhà, đó là tu.
- Giữ giới không tà dâm, hiện thời thành người tốt, gia đình mình và người không bị rầy rà, đánh đập, khổ sở vì ghen tương, đó là tu.
- Giữ giới không nói dối, không nói láo xược, thèo lẻo, thêm bớt, đâm thọc, không nói hung ác và thô tục, thì không bị người khinh khi, lại được sự kính trọng, đó là tu.
- Giữ giới không cờ bạc, hút xách, rượu chè, thì khỏi mất tiền, thiếu nợ, khỏi say sưa, làm điều tội lỗi và khỏi bị người khinh bỉ, trí huệ tăng trưởng, đó là tu.
Nói một cách tổng quát, giữ một giới là ngăn ngừa được một điều tội lỗi, và thêm được một điều lành; giữ nhiều giới là ngăn ngừa được nhiều điều tội lỗi và thêm được nhiều điều lành. Bởi thế, nên giữ giới luật là phương pháp tu không xa thực tế và rất cần thiết cho các Phật tử cầu đạo giải thoát.
Nhờ giữ “giới luật” không làm các việc tội lỗi, nên tâm được “định”; do tâm định nên phát ra “trí huệ sáng suốt”. Nhờ có trí huệ sáng suốt nên phá trừ được vô minh si ám, và được minh tâm kiến tánh thành Phật.
Người tu tại gia có giữ giới, mới thành Phật tử chơn chánh. Người xuất gia thọ Sa di, có giữ giới mới phải là chơn tu. Thầy Tỳ kheo có giữ giới mới phải là Tỳ kheo thanh tịnh. Bồ tát có giữ giới mới phải là chơn Bồ tát. Bởi thế nên trong ba món vô lậu học (giới, định, huệ), “giới” đứng đầu tất cả.
Tôn này sở dĩ lập ra là nhằm vào lợi ích thiết thực và chắc chắn của giới luật, như đã trình bày ở trên.
III. CÁC LOẠI GIỚI LUẬT
Giới luật có nhiều từng bực, tùy theo căn cơ, tùy theo giới tu sĩ, tùy theo sự phát nguyện của kẻ tu hành mà áp dụng. Nhưng nói một cách tổng quát thì giới luật có thể phân chia làm hai loại lớn là: giới lụât của Tiểu thừa và giới luật của Đại thừa.
- Những giới luật nào có tánh cách tiêu cực, tự lợi, chỉ có mục đích chính là tránh tội lỗi cho riêng mình là thuộc về giới Tiểu thừa. Tất nhiên trong khi giữ giới cho riêng mình, thì người khác cũng được lợi, như giữ giới không trộm cướp, thì mình được lợi là kềm giữ lòng tham, mà người khác cũng được lợi là khỏi phải bị cái khổ vì tiếc của đã mất. Mặc dù thế, giới không trộm cướp cũng chỉ liệt vào giới Tiểu thừa, vì trong khi giữ giới, mục đích chính, trực tiếp là giữ cho mình; còn cái lợi cho người chỉ là ảnh hưởng gián tiếp của giới ấy. Những giới như: Ngũ giới (5 giới do Phật chế cho người tại-gia), Bát quan trai giới (8 giới Phật chế cho người tại gia tập sống như người xuất gia), Sa di giới và Sa di ni giới (10 giới Phật chế cho người mới xuất gia), Thức xoa (6 điều nữ học giới), Tỳ kheo giới (250 giới), và Tỳ kheo ni giới (348 giới) là những giới thuộc về Tiểu thừa.
- Những giới luật nào có tánh cách tích cực, nhắm vào mục đích lợi tha hơn tự lợi thì thuộc về Ðại thừa giới. Những giới thuộc về Ðại thừa như 10 giới trọng và 48 giới khinh của Bồ tát, Tam tụ tịnh giới (gồm có: Nhiếp luật nghi giới là giới không làm việc ác, Nhiếp thiện pháp giới là giới làm việc lành, Nhiêu ích hữu tình giới là giới làm ích lợi cho chúng sanh, như làm các việc có tánh cách từ thiện xã hội v.v...).
Nếu đứng về phương diện hành trì mà phân loại, giới luật có thể chia làm hai phần lớn: một phần thuộc về chỉ trì, nghĩa là ngăn dứt ác nghiệp, một phần thuộc về tác trì, tức hành động theo thiện nghiệp.
1. Về chỉ trì, có hai bộ giới bổn
a) Tỳ kheo giới bổn, gồm có 250 giới, chia làm 8 loại là: 1. Ba-la-di (4 giới), 2. Tăng-tàng (13 giới), 3. Bất-định (2 giới), 4. Xả-đọa (30 giới), 5. Ðơn-đọa (90 giới), 6. Ðề-xá-ni (4 giới), 7. Chúng-học (100 giới), 8. Diệt-tránh (7 giới). Hai trăm năm mươi giới này có thể chia làm tám loại như trên, nhưng cũng có thể tùy nghi chia làm năm loại (ngũ thiên), sáu loại (lục tụ) hay bảy loại (thất tụ).
b) Tỳ kheo ni giới bổn, (giới của Tỳ kheo-nhiều gồm có 348 giới, chia làm 7 loại là:
1. Ba-la-di (8 giới), 2. Tăng-tàng (17 giới), 3. Xả-đọa (30 giới), 4. Ðơn-đọa (178 giới), 5. Ðề-xà-ni (8 giới ), 6. Chúng-học (100 giới), 7. Diệt-tránh (7 giới). Ba trăm bốn mươi tám giới này, có thể chia làm bảy loại như trên, nhưng cũng có thể tùy nghi chia làm năm loại, sáu loại hay bảy loại như bên tăng (1).
Giới Tỳ kheo và Tỳ kheo ni trên này gọi là Cụ-túc giới, nghĩa là những giới đem lại cho người thọ vô lượng giới hạnh, phước đức. Nhưng 250 hay 348 giới, chưa phải là nhiều. Ðó chỉ là mới tóm thâu những giới luật chính, làm giềng mối cho sự trì phạm mà thôi. Nếu kể cho hết giới luật thì về “lượng” sánh đồng hư không, về “cảnh” lại lan khắp cả pháp-giới. Nếu kể về bậc trung, thì bên Tăng có đến 3.000 oai nghi, 80.000 tế-hạnh; bên Ni có đến 80.000 oai-nghi và 120.000 tế-hạnh.
Vì sao Phật lập ra nhiều giới luật như thế?
- Vì mỗi một giới là ngăn ngừa một điều tội lỗi, mà con người chúng ta là phàm phu, từ tâm niệm cho đến hành vi, có không biết bao nhiêu điều tội lỗi, nên phải có vô số giới luật để ngăn ngừa.
2. Về tác trì, gồm có 20 kiền-độ
Kiền độ nghĩa là phẩm loại, điều luật (Khanda).
Hai mươi kiền độ là:
1. Thọ giới Kiền độ, 2. Thuyết giới Kiền độ, 3. An cư Kiền độ, 4. Tứ tự Kiền độ v.v...
Sự chia ra chỉ trì và tác trì là cốt cho dễ phân biệt trong khi giữ giới, chứ thật ra, nói một cách rốt ráo thì trong “chỉ” có “tác”, trong “tác” có “chỉ”, không thể nói một cách dứt khoát được.
IV. CÁC DANH TỪ VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH
Như chúng ta đã thấy ở trên, giới luật của Phật chế ra rất nhiều; do đó, danh từ chuyên môn và cách thức giữ giới cũng rất phức tạp. Vậy muốn giữ giới được kết quả, trước tiên phải biết những điều sau đây:
1. Sao gọi là “danh, chủng, tánh, tướng”?
a) Danh là tên (danh từ) nghĩa là tên chỉ mỗi giới, như giới bất sát sanh, giới bất thâu đạo.v.v...
b) Chủng là chủng loại, hay nhóm; như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới của Tăng, Ni: Ba-la-di, Tăng tàng.v.v…
c) Tánh là tâm tánh, là tánh chất ở bên trong; như người giữ giới, trong tâm niệm không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng.v.v... hoặc thấy người phạm giới cũng không sanh tâm vui mừng hay liên tưởng đến. Giữ gìn tâm tánh ở bên trong được thanh tịnh như vậy, gọi là “giới tánh”.
d) Tướng là hình tướng ở bên ngoài; như bên trong đã không nghĩ đến sát sanh, trộm cướp (tánh giới) .v.v... mà bên ngoài cũng không làm những điều ác ấy, gọi là “giới tướng”.
Tóm lại, mỗi khi phạm một điều tội lỗi, người giữ giới phải biết tội ấy tên gì (danh), sát hay đạo .v.v..? Thuộc về loại nào (chủng), Ba-la-di hay Tăng tàng.v.v...? Thuộc về nội tâm (tánh) hay ngoài thân (tướng)? Và cuối cùng hành giả phải biết tội ấy, theo luật, phải trị phạt thế nào mới được thanh tịnh?
2. Sao gọi là “khai, giá, trì, phạm”?
a) Khai là mở, cho làm.
b) Giá là cấm, không cho làm.
Như khi Phật còn tái thế, Ngài cấm các vị Tỳ kheo leo lên cây, đó là “Giá”. Nhưng về sau có vị Tỳ kheo đi vào rừng, bị ác thú rượt, Ngài không dám leo lên cây để tránh, vì sợ phạm giới, và cuối cùng bị ác thú hại. Từ đó, Phật dạy: “nếu có duyên sự thì được leo cây”, như thế gọi là “Khai”.
Một thí dụ thứ hai: Người Phật tử phải giữ giới không uống rượu. Ðó là “Giá”. Nhưng khi bị bịnh nặng, nếu cần rượu để hòa với thuốc, uống mới lành bệnh, thì tạm được dùng. Ðó là “Khai”. Nhưng trước khi uống, phải bạch với chư tăng.
c) Trì là giữ gìn; như khi đã thọ giới rồi mà giữ gìn cho được thanh tịnh thì gọi là “Trì”.
d) Phạm là vi phạm; như đã thọ giới rồi mà không giữ gìn giới thì gọi là “Phạm”.
Tóm lại, trong khi tu hành giữ giới luật, hành giả luôn luôn quan sát mỗi mỗi hành vi hàng ngày của mình, xét xem một cách sáng suốt, thế nào là “Trì”, thế nào là “Phạm”; trong trường hợp nào, và giới nào được “Khai”; trong trường hợp nào, và giới nào không được “Khai”.v.v… Nói một cách tổng quát khi đã thọ giới rồi thì phải “Trì”. Nếu không “Trì” là “Phạm”. Tuy thế nếu vì lòng từ bi, vì lợi ích chung, hay vì trí huệ thúc đẩy, thì có thể “Khai” mà không phạm tội. Nhưng nếu vì tâm nhiễm ô, vì phiền não thúc đẩy mà “Khai” là “Phạm”.
3. Sao gọi là “chỉ trì, tác phạm và tác trì, chỉ phạm”?
a) Chỉ trì là nói về phương diện các điều ác, quyết giữ gìn, không gây tội lỗi.
b) Tác phạm là nói về phương diện các điều ác, đáng lẽ phải giữ gìn, mà lại không giữ được, cho nên phải phạm tội lỗi.
c) Tác trì là nói về phương diện các điều thiện, cần phải làm, mới là giữ giới.
d) Chỉ phạm là nói về phương diện các điều thiện, nếu đình chỉ không làm, là phạm giới.
Thí dụ: Về tội ăn trộm, nếu không làm là chỉ trì, nếu làm tác phạm. Trái lại, về hạnh bố thí, nếu làm là tác trì, nếu không làm là chỉ phạm.
4. Sao gọi là “tánh tội và giá tội, hay tánh giới và giá giới”?
a) Tánh tội là tội sẵn có trong bản tánh chúng sanh, như sát, đạo, dâm, vọng. Bốn tánh này có sẵn trong tâm tánh chúng sanh từ vô thỉ đến nay, hễ có chúng sanh là có chúng nó. Mỗi người, không cần ai dạy bảo, không cần học tập, mà ai cũng đều biết sát, đạo, dâm, vọng. Vì thế cho nên gọi là tánh tội.
b) Giá tội là tội không sẵn có trong bản tánh, nhưng do hoàn cảnh, do tập nhiễm mà phát sanh; như tội uống rượu chẳng hạn. Nói một cách tổng quát, ngoài bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng, còn bao nhiêu tội khác là giá tội cả.
c) Tánh giới là giới để ngăn ngừa bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng. Giới này rất quan trọng, nhưng cũng rất khó giữ. Giữ được bốn giới này thì sự tu hành tất sẽ kết quả và con đường giải thoát chắc chắn sẽ chờ đón hành giả.
d) Giá giới là giới để ngăn ngừa tội lỗi do hoàn cảnh huân tập mà phát sanh. Những giới này ít quan trọng hơn tánh giới nói trên. Nhưng muốn giữ được tánh giới một cách ít khó khăn, phải cần giữ giá giới. Như người muốn đốn cây lớn, trước tiên phải chặt dần ngành ngọn; như người dụng binh giỏi, trước khi muốn chiếm một đô thị lớn, phải ngăn chặn các con đường đi vào đô thị ấy.
V. KẾT LUẬN
Như chúng ta đã rõ, mục đích của giáo pháp mà đức Phật chỉ bày cho chúng ta là để được minh tâm, kiến tánh, và thành Phật. Tất cả các tôn phái, mặc dù có chủ trương và đặc điểm khác nhau, nhưng mục đích cuối cùng đều là một: Giác-ngộ và thành Phật.
Luật tôn cũng không đi ra ngoài mục đích trên, mặc dù phương pháp có khác. Phần nhiều các tôn khác thì phải hiểu rồi mới tu; Luật tôn trái lại chủ trương: hãy tu đi rồi sẽ hiểu, hãy giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh, thì tâm sẽ định tĩnh, thanh tịnh; tâm đã thanh tịnh thì trí huệ sẽ sáng suốt, chân tâm sẽ hiện bày, Phật tánh sẽ phát lộ.
Thật là một chủ trương rất thiết thực, mà kết quả lại chắc chắn! Những kẻ học rộng biết nhiều mà không giữ giới cũng chẳng khác gì ngọn đèn trước gió, có thể sáng lắm, nhưng không biết sẽ tắt khi nào. Trái lại kẻ học ít biết hẹp mà giữ giới một cách chân thành, thì cũng như ngọn đèn có ống khói, khi mới thắp thì còn lu, nhưng không tắt và càng cháy lâu cáng sáng tỏ.
Vì những lý lẽ trình bày ở trên, Luật tôn đều thích hợp với mọi căn cơ, nhất là với những căn cơ chậm lụt. Ở đời chúng ta thường thấy, phần nhiều những người có căn trí lanh lẹ, hiểu nhanh biết lẹ, nhưng vì hay ỷ sức mình, không chịu đặt mình vào khuôn phép kỷ luật, nên cuối cùng, chẳng thu hoạch được kết quả gì tốt đẹp cả. Trái lại, những kẻ có căn trí tầm thường, nhiều khi chậm lụt nữa, nhưng lại dễ thành công trên đường đời cũng như trên đường đạo, vì họ biết thủ phận chịu khó khép mình vào kỷ luật, không tự mãn, tự cao. Những đệ tử của Phật, có ai có một địa vị xã hội hạ tiện (đi gánh phân) và một căn trí thấp thỏi như ngài Ưu-Ba-Li! Thế mà ngài Ưu-Ba-Li lại trở thành một đại đệ tử của Phật, đã thành một bậc hiền thánh, chỉ vì đã nghiêm trì giới luật! Chúng ta đây, địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém Ưu-Ba-Li, lẽ nào chúng ta không thu hoạch được thành quả tốt đẹp như Ngài, nếu chúng ta cũng tập nghiêm trì giới luật như Ngài.
(1) Chúng tôi chỉ giới thiệu những danh từ của các giới luật tăng, ni chứ không nói rõ hơn, vì theo luật Phật, người thọ giới ở cấp bực nào thì chỉ biết giới luật của cấp ấy mà thôi.
(Xem tiếp Bài thứ 6: MƯỜI TÔN PHÁI PHẬT GIÁO Ở TRUNG HOA - TỊNH ĐỘ TÔN)
Bình luận bài viết