Học

PHPT2 K.V - Bài thứ 6: MƯỜI TÔN PHÁI PHẬT GIÁO Ở TRUNG HOA - THIỀN TÔN

PHẬT HỌC PHỔ THÔNG QUYỂN 2

Sa môn THÍCH THIỆN HOA

KHÓA V: LỊCH SỬ TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO,

10 TÔN PHÁI VÀ VŨ TRỤ NHƠN SINH

Bài thứ 6: MƯỜI TÔN PHÁI PHẬT GIÁO Ở TRUNG HOA

THIỀN TÔN

A. MỞ ÐẦU 

Thiền tôn thuộc cả Ðại thừa và Tiểu thừa. Cũng như bao nhiêu tôn phái khác trong Phật giáo, vị khai sáng đầu tiên của Thiền tôn vẫn là đức Phật. Trước Ngài, sự tham thiền nhập định của các ngoại đạo không phải là không có. Nhưng đến Ngài, phương pháp thiền định mới đạt đến chỗ rốt ráo. Như chúng ta đều biết qua lịch sử của Ngài, sau khi xuất gia, đức Phật đã trải qua nhiều năm đi tìm đạo và tu khổ hạnh, nhưng vẫn chưa đạt được đạo quả như ý muốn. Ngài tự bảo cái đạo ấy không phải đi tìm đâu xa mà chính phải tìm trong trí huệ sáng suốt của Ngài. Và từ đó, luôn trong 49 ngày đêm dưới cội Bồ đề, Ngài đã ngồi tham thiền nhập định cho đến khuya mồng 8 tháng chạp âm lịch, lúc sao mai vừa mọc thì Ngài “minh tâm kiến tánh”, chứng được đạo quả Bồ đề. Ðó là một cuộc nhập định vô tiền khoáng hậu, mở đầu cho một pháp môn vô cùng hiệu nghiệm của đạo Bồ đề. Và từ đấy về sau, một tôn phái riêng đã được thành lập. Ðó là Thiền tôn. 

Sao gọi là Thiền tôn? Thiền tôn là một tôn phái của Phật giáo lấy pháp môn tham thiền nhập định làm căn bản tu hành. 

Chữ “Thiền” là do chữ “thiền-na”, một tiếng Phạn, phiên âm theo tiếng Trung Hoa và dịch nghĩa là định lự (định các tự lự). Hiệp chung cả tiếng Phạn và tiếng Trung Hoa, thành ra chữ Thiền định. 

Có chỗ giải: Chữ “Thiền”, xưa dịch tư là “tư duy”, nay dịch là “Tịnh lự”. Tư duy có nghĩa là suy nghiệm, nghiên cứu, suy tầm những đối tượng của tâm thức (tức là quán). “Tịnh lự” có nghĩa là đế tâm vắng lặng không cho khởi các vọng tưởng tư lự (tức là chỉ) để cho tâm thể được sáng tỏ.  

Chữ “Ðịnh” nguyên tiếng Phạn là Samadhi, người Trung Hoa phiên âm là tam muội, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một cảnh duy nhất không cho tán loạn. 

Hợp hai chữ Thiền và Ðịnh, chúng ta có một nghĩa chung như sau:Tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất, không cho tán loạn, để cho tâm thể được vắng lặng, tâm dụng được sáng tỏ, mạnh mẽ, đặng quan sát và suy nghiệm chơn lý. 

Phương pháp thiền định có hai cách: 

1. Tham cứu về lý thiền, để cầu minh tâm kiến tánh, tỏ ngộ đạo quả, nên gọi là “Tham thiền”, như tham cứu câu thoại đầu (câu nói thiền) v.v…

2. Tập trung tư tưởng để quán sát cho sáng tỏ chân lý về một vấn đề gì, như quán bất tịnh, quán từ bi v.v… nên cũng gọi là “quán tưởng”. 

Có chỗ gọi là tu “chỉ quán” hay tu “định huệ”. Chỉ là đình chỉ các vọng tưởng, không cho khởi động, tức là Định. Quán là quán sát cho sáng tỏ một vấn đề gì tức là Huệ. 

“Chỉ” là nhơn, mà “Ðịnh” là quả. 

“Quán” là nhơn, mà “Huệ” là quả. 

CHỦ TRƯƠNG CỦA THIỀN TÔN 

Tất cả chúng sanh, trải qua bao đời kiếp, phải trôi lăn trong biển khổ sanh tử luân hồi vì bị vô minh mê hoặc. 

Tại sao lại có vô minh mê hoặc? Chúng ta hằng ngày bị thất-tình (1), lục-dục (2), bát phong (3), xuy động, làm cho tâm tánh chúng ta phải bị mờ ám; cũng như ngọn đèn bị gió thổi leo lét, không sáng tỏ được, để phá tan cái hắc ám ở chung quanh và soi sáng cảnh vật. Ðèn tâm của chúng ta không giờ phút nào chẳng bị gió lục trần (4) làm chao động. Vì đèn tâm chao động (không định) nên ánh sáng trí huệ không thể tỏa ra; và ánh sáng trí huệ không tỏ sáng, nên không xé tan được mây vô-minh hắc ám ở chung quanh và không chiếu soi chơn lý của vũ-trụ. 

Vậy hành giả muốn rõ chơn lý của vũ trụ, muốn được minh tâm kiến tánh thành Phật, thì phải phá trừ mây vô minh hắc ám. Muốn phá trừ vô minh hắc ám, hành giả phải làm sao cho đèn trí huệ của mình được sáng tỏ. Muốn thế hành giả phải tu thiền định. Tâm có định, mới phát sanh trí huệ. Trí huệ có phát sanh mới phá trừ được vô minh hắc ám, và mới minh tâm kiến tánh thành Phật. 

Mới nghe qua chủ trương của Thiền-tôn, chúng ta thấy không có gì là mới lạ, và tưởng là dễ dàng quá; nhưng khi thực hành thì lại không phải dễ dàng như thế. Trái lại, phép tu thiền định rất khó, phải thường có thiện hữu tri thức dắt dẫn, phải tốn rất nhiều công phu và kiên nhẫn, phải trải qua một thời gian lâu dài, mới thu được kết quả. 

B. CÁC LOẠI THIỀN ÐỊNH 

Thiền định có nhiều loại, nhiều thứ. Có thứ chánh, thứ tà, có thứ sâu, thứ cạn, có thứ thiền của ngoại đạo, có thứ thiền của phàm phu, có thứ thiền của Tiểu thừa, có thứ thiền của Ðại thừa. 

Hãy nghe Ngài Tôn Mật thiền sư dạy: “...Người muốn cầu Thánh-đạo, tất phải tu thiền”. Chơn-tánh không có dơ và sạch, thánh và phàm. Song thiền định có cạn và sâu, từng bực không đồng: 

- Người tà kiến, chấp trước sai lạc, ưa cõi trên, chán cõi dưới mà tu thiền là ngoại đạo thiền; 

- Người chánh tín nhơn quả, nhưng cũng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền, là phàm phu thiền; 

- Người biết rõ lý “ngã không” mà tu thiền là Tiểu thừa thiền; 

- Người ngộ được lý “ngã, pháp đều không” mà tu thiền, là Ðại thừa thiền; 

- Người đốn ngộ tự tâm, xưa nay vốn thanh tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí huệ vô-lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác; y theo tâm ấy mà tu thiền là Tối thượng thừa thiền, cũng gọi là “chơn như tam muội”  

Vì thiền có nhiều loại khác nhau như thế, nên trước khi muốn thực hành cho đúng đắn, chúng ta cần biết sơ lược các lối tu thiền, để khỏi lạc vào đường nguy hiểm. 

I. NGOẠI ÐẠO THIỀN 

Trong phần ngoại đạo thiền này, chúng tôi muốn nói đến các loại thiền của ngoại đạo như đạo Tiên, đạo Bà-la-môn, các lối thôi miên, và những tà thiền định với mục đích không chơn chánh. 

Sao gọi là không chơn chánh? Theo quan niệm của đạo Phật thì những hành động gì không nhắm mục đích trau giồi tâm tánh, dẹp trừ phiền não hữu lậu, để cầu giải thoát sanh tử luân hồi, đều không là chơn chánh. Dựa vào quan niệm trên mà phê phán thì những tà thiền định hay những loại thiền định của ngoại đạo đều không chơn chánh; vì những người tu theo các lối thiền định nầy chỉ nhắm mục đích cầu được sống lâu, cầu được khỏe mạnh, được thần thông biến hóa để dạo chơi các thế giới, được những phép lạ, huyền bí để cám dỗ, mê hoặc người, hay được thành tiên để hưởng lạc thú tiêu diêu nơi tiên cảnh... 

Bởi họ dụng tâm không chơn chánh, tu phương pháp không chơn chánh, nhắm mục đích thiển cận, bề ngoài, và bị các phiền não tham, sân, si, làm động cơ thúc đẩy, nên các loại thiền của họ không thể rốt ráo và toàn thiện được. Trước tiên, chúng ta hãy nói đến các tà thiền định. 

1. Tà thiền định: Ðọc những sách truyện xưa, chúng ta thường nghe nói đến các loại cầm thú như: bạch xà, chồn cáo, qui, khỉ, vượn... tu luyện lâu năm trong rừng sâu núi thẳm, cuối cùng cũng có được những phép thần thông, biến hóa. Nhưng mục đích của chúng là cầu cho được nhiều phép tắc để gần gũi phụ nữ, nhiễu hại nhơn dân, hớp hồn, hớp vía người lương thiện, để thỏa mãn thú tánh. Ðó là những loài yêu tinh quỉ quái, mà ngày nay theo con mắt nhà khoa học thì khó có thể tin được là có. Nhưng có lẽ người xưa muốn đặt ra những câu chuyện yêu tinh quỉ quái như thế, để ngụ ý các loài thú, nếu tu luyện lâu năm cũng có thể phép thuật hơn người. Nhưng bởi chúng thiếu lòng nhân, thiếu thiện tâm, cho nên phép thuật càng cao cường bao nhiêu lại càng gây tai họa lớn lao bấy nhiêu. 

Chúng ta cũng thường nghe thầy phù thủy luyện thiên linh cái (đầu lâu). Họ cũng tập trung tư tưởng, luyện phép định tâm, và khi thành công, và khi thành công, cũng sai được âm binh bộ hạ, được ma quỉ mách bảo cho các việc quá khứ, vị lai v.v... mà cũng tác oai, tác quái không ít. 

Ðó cũng là do tu định cả, nhưng bởi dụng tâm tà, nên gọi là tà thiền định, và kết quả là có hại cho mình và nhân quần xã hội. 

Chúng ta hãy lắng nghe lời Phật dạy ngài A-Nan trong kinh Lăng Nghiêm về các lối tà thiền định: 

“ …A-Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn lòng dâm, thì quyết đọa vào ma đạo, bực thượng thành ma chúa, bực trung làm ma dân, bực hạ làm ma nữ. Vì gốc của nó là dâm, thì làm sao khỏi sanh tử luân hồi được?”… 

“ ...A-Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn tâm sát hại, thì chỉ đọa vào thần đạo; bực thượng thành đại lực quỉ, bực trung làm phi hành dạ xoa và các quỉ tướng soái, bực hạ làm địa hành La sát và các quỉ thần...” 

“ ...A-Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn trừ tâm trộm cướp thì quyết đọa vào tà đạo; bực thượng thành loài yêu tinh, bực trung làm ma quỉ, bực hạ làm người tà, bị các tà ma nhập (đồng bóng)...”. 

2. Thiền định của đạo Tiên: Theo các kinh sách của đạo Tiên để lại, như kinh Huỳnh đình, hay bộ Tánh mạng khuê chỉ v.v... thì con người sở dĩ sống được và minh mẫn là nhờ có đủ ba món: tinh, khí và thần. Tinh, Khí là chủ của xác thân; Thần là chủ của mạng sống. Hể thất tình lục dục quá mạnh thì tinh khí hao mòn: tinh khí hao mòn thì thân bị che lấp tối tăm, con người mất sáng suốt. Vì thế cho nên phải trừ dục tình để dưỡng tinh, luyện khí cho thân được cởi mở và phát hiện. 

“Tiên đạo cho rằng khắp giáp thân thể con người đều có những cái huyệt, tức là những lỗ thông khí âm dương; huyệt ở chót bàn chân gọi là chi âm; huyệt ở đỉnh đầu là thiên thông. Khí đi trở lên là dương khí, đi trở xuống là âm khí. 

Người tu tiên cốt luyện cho âm khí mất đi, chỉ còn cái khí thuần dương đi lên đỉnh đầu, tức là có thần thông và đắc đạo. Vì sao phải trừ bỏ khí âm? Bởi vì âm khí là trược khí, làm cho nặng nề, tối tăm, ưa thích điều dâm dục, làm hao tổn tinh thần. Hễ tinh thần hao tổn thì cái Thần là cái linh động sáng suốt nhất, cũng là cái thông hiệp với trời đất, bị bế tắc. Vậy nên, kẻ phàm là kẻ còn nặng khí âm, còn bực tiên chỉ còn là khí thuần dương mà thôi (5)”. 

Ðể luyện khí, người tu tiên có nhiều phép tu gần giống như phép tọa thiền, nghĩa là ngồi ở một nơi thanh tịnh, rồi tập luyện các phép như: “Tọa công”, “Giao thiên trụ”, “Thiệt giải thấu yết”,v.v... 

Tóm lại những người tu theo đạo này, nếu chuyên tâm trì chí tập trung tư tưởng, luyện “tinh” hóa “khí”, luyện “khí” hóa “thần”, sau khi đã thuần thục, cũng được năm phép thần thông biến hóa. Họ trở thành tiên, có thể xuất thần bay đi dạo chơi các thế giới. Hoặc họ hứng nước mặt trăng, luyện linh đơn để trị bệnh hay để uống cho được trường sanh bất tử, thành Địa tiên. 

Những vị tiên này, rất tiếc là ngày nay, chúng ta không được thấy nên không dám chắc là có hay không. Nhưng dù có đi nữa, thì trên lý thuyết, các vị này vì chưa được lậu tận thông (phiền não hữu lậu chưa hết) nên khi phiền não nổi lên họ cũng bị đọa trở xuống, như trường hợp ông Uất-Ðầu-Lâm-Phất, hay ông Ðộc -Giác-Tiên-Nhân.v.v... Hơn nữa, dù họ có luyện cái thân mình cho được trường sanh bất tử cũng không thể toại nguyện được, vì cái thân này là tứ đại giả hiệp, tất phải bị luật vô thường chi phối, không thể sống vĩnh viễn được. Nó lại là cái đãy da chứa các vật bất tịnh, thì dù có cưng dưỡng cho mấy, rốt cuộc rồi cũng bị tan rã. Bởi lẽ đó, người tu hành phải xem nó như cái bè đưa qua sông, khi qua sông rồi, chẳng nên mến tiếc cái bè mà chẳng chịu lên bờ. 

Trong bộ Qui nguyên Trực chỉ, có kể chuyện ông tiên Lữ Ðồng Tân, học trò của Tiên Hớn Chung Ly, sau khi đấu phép với ngài Huỳnh Long Hòa thượng bị thua, ông đã bỏ đạo Tiên theo đạo Phật. Lý do sự đầu Phật này là vì ông Lữ Ðồng Tân tự nhận thấy mình đã dụng tâm sai và đã đi lầm đường tu hành. Do đó, ông đã làm bài thơ sau đây để nói lên sự sai lầm của ông: 

Nguyên văn: 

Khí khước biều nan, kích tý cầm 

Như kim bất luyến hống trung câm 

Từ tùng nhất kiến Huỳnh Long hậu 

Thì giác tùng tiên thố dụng tâm 

Dịch nghĩa:  

Bỏ lầu linh dược ném đờn cầm.  

Tôi nay chẳng tiếc nước miếng vàng (6) 

Từ khi gặp Huỳnh Long hòa thượng 

Mới biết từ trước dụng tâm sai. 

(Xem quyển Lữ Ðồng Tân đầu Phật) 

3. Luyện Du già (Yoga): Yoga là một danh từ Ấn, gốc là ở chữ Yuj; Tàu dịch là Du già, nghĩa đen là “tự đặt mình dưới một cái ách”; nghĩa bóng là “tự trói buộc cả tinh thần, thể xác vào một quy luật khắt khe” tự kiềm chế mình theo một kỷ luật đặc biệt, mà mục đích là tập trung toàn thể thân tâm làm một với bản thể của trời đất.  

Du già cũng gọi là thuật luyện khí của Ấn Độ, gần giống như thuật luyện khí của đạo Tiên. Theo thuyết Du già, trong thân thể con người có rất nhiều huyệt; trong số ấy có bảy huyệt từ hậu môn lên tới đỉnh đầu là quan trọng nhất. Bảy huyệt ấy nằm dài theo xương sống, và có một đường lên, một đường xuống thông nhau. Vì sự si mê và các thứ dục vọng che lấp cho nên bảy huyệt ấy bị chướng ngại, khiến cho cái “chơn quả” từ dưới “hỏa hậu” (chỗ hậu môn) không thể lên được. Nhất là vì thân thể không luyện tập, xương sống bị cong đi, các huyệt do đó dễ bị bế tắc. Vậy muốn cho hỏa hậu (tức là cái thần lực trong con người) được thông qua các huyệt, lên tới đỉnh đầu thì phải chú tâm luyện cho xương sống giãn ra, các khớp xương được thông và thẳng. 

Ðể đạt được mục đích nói trên, người luyện Du già phải tập nhiều tư thế, như tư thế “giãn lưng”, tư thế “lưỡi cày”, tư thế “trồng chuối” (trút đầu xuống dưới, trở chân lên trên trời), để cho hỏa hậu dễ lưu thông tới đỉnh đầu. 

Ngày nay Du già được phổ biến qua các nước Âu Mỹ, gần như một phong trào. Phần đông cho đó là một phương pháp thể dục, để luyện cho thân thể được khỏe mạnh, trí huệ được sáng suốt, để tính toán và làm việc được nhiều hiệu quả. Một số người đi xa hơn, muốn luyện Du già để được sống lâu, trẻ mãi, vượt ra khỏi những sự ràng buộc của xác thân đầy dục vọng, thoát ra ngoài những nỗi lo âu, sợ sệt hằng ngày và sống một cuộc đời an vui, tự tại. Lại có một hạng người khác mong rằng Du già sẽ làm cho họ khám phá những năng lực tiềm tàng ẩn núp trong con người và làm cho họ trở thành những nhân vật phi thường, có những thần thông biến hóa, phép mầu chước lạ. Họ cũng tập trung tư tưởng, định tâm chú ý như các lối tu thiền định; ngoài ra họ còn có tu tập một cách rất khổ sở, hành hạ thân xác, bắt nó chịu đựng những thử thách cực độ, như phơi nắng dầm sương, ngồi trên chông gai, đứng bằng hai tay, treo chân lên cổ, nhịn đói, nhịn khát,v.v... Đó là những đạo sĩ người Ấn Ðộ thường gọi là “pha-kia” (fakir). 

Những người này khi tu đến mức độ cao, cũng có được những phép lạ, như dao chém không đứt, đâm không thủng, nhai ve chai, uống axit không sao, nằm ngủ một giấc luôn trong ba tháng không ăn, không uống .v.v... 

Nhưng dù họ thành công bao nhiêu đi nữa, thì cũng không thể thoát ngoài vòng trần tục liễu xanh thoát tử và minh tâm kiến tánh được.

4. Luyện thôi miên: Đây cũng là một lối tu thiền của ngoại đạo, hiện nay rất thạnh hành trên thế giới. Nguyên tắc của phương pháp tu luyện này cũng là vận dụng, tập trung tư tưởng vào một chỗ để cho tinh thần có sức mạnh sai khiến được sự vật. Người tập thôi miên, lúc mới đầu ngồi yên một chỗ, nhìn chăm chú vào một chấm đen vẽ ở trên tường, để cả tâm trí tập trung vào đó, ngoài ra không còn để ý vào một sự vật gì ở chung quanh nữa. Họ ngồi tập hàng giờ như thế, bao giờ tinh thần không còn tán loạn nữa, và có đủ sức mạnh để sai sử kẻ khác là họ thành công. Những người thôi miên giỏi, có thể dùng thôi miên để trị lành bệnh hay sai sử những người khác làm những chuyện phi thường, như xuất thân đi đến một xứ khác để thăm bà con, kể lại việc quá khứ hay tiền thân của một người khác.v.v... 

Tóm lại, nhờ luồng điện tinh thần đã được tập trung thành sức mạnh, người thôi miên có thể bắt người khác làm những việc kỳ lạ theo ý muốn của mình. Nhưng vì lợi dụng, tâm không chơn chánh, chỉ tham cầu những điều huyền bí, mầu nhiệm bên ngoài, không lo dẹp trừ phiền não, hữu lậu, trau giồi tâm tánh bên trong, để được minh tâm kiến tánh, nên không phải là chánh đạo. Ðến khi phiền não hữu lậu nổi lên hoặc nhiễm sắc tham tài v.v... thì các thần thông, diệu dụng đều mất hết. Bởi thế nên Phật dạy các đệ tử: “Ngộ được đạo thì tự nhiên sẽ có các thần thông. Nếu được thần thông mà chưa ngộ được đạo thì thần thông ấy có khi bị mất”. 

II. PHÀM PHU THIỀN

Phàm phu thiền cũng gọi là thế gian thiền. Sở dĩ gọi là phàm phu hay thế gian thiền là vì các pháp thiền này chưa có thể đưa hành giả ra ngoài tam giới, chưa chứng được thánh quả, mà vẫn còn quanh quẩn trong vòng phàm phu hay thế gian. Các pháp như Tứ thiền, Tứ không v.v... đều thuộc về phàm phu thiền. 

1. Tứ thiền tức là 4 giai đoạn tham thiền của phàm phu, đi dần từ chỗ nhàm chán cái vui thô thiển đến cái vui vi tế thanh tịnh. Bốn giai đoạn tham thiền này tuần tự diễn tiến như sau: 

a) Sơ thiền, ly sanh hỷ lạc. Hành giả khởi đầu bằng tâm lý nhàm chán cái ô trược của cõi Dục, và mong cầu được xa lìa. Sau khi nhờ tham thiền mà xa lìa (ly) được cái ô trược của dục giới, hành giả sanh vui mừng (sanh hỷ lạc). Ðó là kết quả của giai đoạn tham thiền đầu tiên (sơ thiền). 

b) Nhị thiền, định sanh hỷ lạc. Nhưng cái vui mừng nói trên, lại làm cho tâm chao động, cần phải dứt trừ; vì thế hành giả phải vào định. Khi định có kết quả, cái vui mừng thô phù của sơ thiền chấm dứt và cái vui mừng vi tế trong định lại nảy sanh; vì thế cho nên gọi là “Ðịnh sanh hỷ lạc”. 

c) Tam thiền, ly hỷ diệu lạc. Cái vui mừng ở cõi nhị thiền mặc dù vi tế, nhưng vẫn còn làm cho tâm rung động, vì thế hành giả lại cần bỏ cái vui mừng ở cõi nhị thiền. Khi bỏ được cái vui mừng này, thì một nỗi vui mầu nhiệm khác lại phát sanh; vì thế cho nên gọi “Ly hỷ diệu lạc”. 

Trong các kinh thường chép: Cõi tam thiền là vui hơn hết (diệu lạc), vì ở các cõi dưới thì chỉ có vui thô động, còn ở các cõi trên thì chủ là tịch tịnh, không còn vui nữa. 

d) Tứ thiền, xả niệm thanh tịnh. Ở cõi tam thiền, tuy đã hết cái vui thô động của sơ thiền và nhị thiền; nhưng vẫn còn cái vui mầu nhiệm. Nhưng hễ còn niệm vui, thì tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh. Hành giả lại phải còn tiến lên một bậc nữa, đi vào cái thiền thứ tư, xả luôn cả cái niệm vui, để tâm được hoàn toàn thanh tịnh, vì thế nên gọi là “Xã niệm thanh tịnh”. 

2. Tứ không định. Sau khi đã trải qua tứ thiền và đã thành tựu viên mãn, hành giả tiếp tục tu thiền định và sẽ trải qua bốn giai đoạn gọi là Tứ không định sau đây. Sở dĩ gọi là Tứ không, vì khi vào bốn định này, thiền giả sẽ không còn thấy có cảnh và thức tâm nữa. 

a) Không vô biên xứ định. Thiền giả khi đã đạt được Tứ thiền, tâm đã được hoàn toàn thanh tịnh, nhung vẫn còn thấy có sắc giới, còn thân còn cảnh và bị hình sắc trói buộc, nên sanh tâm nhàm chán. Ðể rời bỏ các hình sắc về thân và cảnh, thiền giả vào định thứ nhất của Tứ không, thể nhập với “hư không vô biên”, tức là không thấy có ngăn cách, có biên giới của cảnh. 

b) Thức vô biên xứ định. Thiền giả khi đã được định thứ nhất của Tứ không, rời bỏ được sắc tướng của thân và cảnh, thấy được cái vô biên của hư không, nhưng vẫn còn giữ cái bản ngã hẹp hòi, vẫn còn thấy biên giới của tâm thức. Vậy thiền giả phải vào định thứ hai của Tứ không, để xóa bỏ cái biên giới  của thức, khi thành tựu, tức thể nhập được vào cõi “Thức vô biên”. 

c) Vô sở hữu xứ định. Thiền giả, mặc dù không còn thấy biên giới, ngăn cách của thức, nhưng vẫn còn thấy có ngã, có tâm thức, có năng sở; mà hễ còn thấy có năng sở, tức còn thấy mình và người, còn thấy có sở hữu. Vậy thiền giả phải vượt lên một tầng nữa, xa lìa sự chao động, năng sở, tức nhập định “Vô sở hữu xứ” (cõi không sở hữu). 

d) Phi tưởng, phi phi tưởng xứ định. Thiền giả khi đã nhập định “Vô sở hữu”, không còn thấy nhân ngã, năng sở, nhưng vẫn còn “tưởng”. Mà còn tưởng thì còn vọng động. Vậy thiền giả phải tiến lên một tầng nữa, vào cõi “Ðịnh không tưởng”. Nhưng không tưởng đây, không có nghĩa là vô tri vô giác như đất đá; không tưởng, nhưng không phải không tưởng của đất đá, không tưởng mà vẫn sáng suốt như một tấm gương, nhưng không phải là một tấm ván hay mặt đá. Ðó là ý nghĩa của cõi định “Phi tưởng, phi phi tưởng”. 

Có chỗ nói định “Tứ không” thuộc về ngoại đạo, nhưng người tu thiền, bắt đầu từ Sơ thiền đến Tam thiền, lúc bấy giờ có hai con đường tẻ: Một con đường đi về ngũ A-na-hàm (7) ở cõi Tứ thiền (8) thuộc về cảnh giới của thánh thứ ba (9); một con đường đi về Tứ không của cõi Vô sắc, thuộc về ngoại đạo. 

III. NHỊ THỪA THIỀN 

Nhị thừa thiền hay Tiểu thừa thiền, thuộc về xuất thế gian thiền, nghĩa là các người tu theo các loại thiền nầy có thể vượt ra ngoài thế gian, thoát được sanh tử luân hồi. Tuy thế, những pháp tu thiền nầy không đem lại một chứng quả mau lẹ, lớn lao toàn diện như các lối Ðại thừa thiền, mà chỉ có tánh cách chậm chạp, tuần tự, cuộc bó, tu một pháp chỉ trừ được một phiền não; nghĩa là chứng quả thấp nhỏ, có hạn lượng, nên thuộc về Nhị thừa thiền (Nhị thừa thiền là Thinh văn thừa và Duyên giác thừa). 

Nhị thừa thiền có rất nhiều phương pháp tu, như Ngũ đình tâm quán, Thập nhứt thế xứ quán, Bát bối xả, Bát thắng xứ quán, Cửu tưởng quán, Thập lục đặc thắng, Lục diệu pháp môn, Tứ vô lượng tâm, Thông minh thiền, Bát niệm, Thập tưởng, Thứ đệ định, Sư tử phấn tấn, Siêu việt tam muội, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo v.v... Tóm lại, hành giả của Nhị thừa thiền có thể đem giáo lý của một hay nhiều pháp môn của Nhị thừa để quán sát tham thiền. 

Trong phạm vi hẹp hòi của bài phổ thông nầy, chúng tôi không thể nói hết tất cả pháp môn tu thiền của Nhị thừa được, xin chỉ nói sơ lược một ít phương pháp. Nếu hành giả muốn đi sâu vào đường tu này, phải chuyên môn học tập, phải nhờ minh sư dạy bảo, phải trải qua nhiều thời gian và nhiều công phu tu tập mới thành công. 

1. Ngũ đình tâm quán: 

Quán sổ tức, trừ tâm tán loạn 

Quán bất tịnh, trừ tâm tham sắc dục 

Quán từ bi, trừ tâm sân hận 

Quán nhân duyên, trừ tâm si mê 

Quán giới phân biệt, trừ tâm chấp ngã. 

(Xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV) 

2. Cửu tưởng quán: 

a) Tưởng thây sình tướng 

b) Tưởng thây hoại diệt 

c) Tưởng máu mủ chảy 

d) Tưởng thây rục rã 

đ) Tưởng thây xanh chàm 

e) Tưởng thây bị giòi rúc rỉa 

ê) Tưởng thây tan rã 

g) Tưởng còn lại đống xương 

h) Tưởng xương bị đốt tiêu. 

3. Tứ vô lượng tâm: 

a) Tâm Từ vô lượng: Thiền giả mở rộng lòng Từ vô lượng, bao bọc chúng sanh trong tình thương rộng lớn vô biên. 

b) Tâm Bi vô lượng: Thiền giả mở rộng lòng Bi vô lượng, cứu khổ cho chúng sanh trong năm đường. 

c) Tâm Hỷ vô lượng: Thiền giã mở rộng tâm Hỷ (hoan hỷ) vô lượng, làm cho chúng sanh đều được Hỷ. 

d) Tâm Xả vô lượng: Thiền giả mở rộng lòng Xả vô lượng, không lưu luyến cố chấp một việc gì. 

Tứ vô lượng tâm là một pháp môn rất linh nghiệm: Phàm phu tu Tứ vô lượng tâm, thì sau khi mạng chung sẽ sanh làm vua ở cõi Tứ thiền; Nhị thừa tu Tứ vô lượng tâm, thì phước đức được tăng trưởng, mau đặng Niết bàn, Bồ tát tu Tứ vô lượng tâm thì lòng từ bi mở rộng vô biên và làm lợi ích cho chúng sanh không xiết kể . 

(Xem Phật học phổ thông, khóa thứ IV) 

4. Thập lục đặc thắng: 

Thập lục đặc thắng tức là mười sáu phép rất đặc biệt thù thắng, có thiền có quán, đủ các thứ thiền và có thể phát sanh ra quả vô lậu, không phải như Tứ thiền, Tứ không, không ra khỏi sanh tử. Mười sáu phép đặc biệt thù thắng này là: 

a) Biết hơi thở vào  

b) Biết hơi thở ra 

c) Biết hơi thở dài ngắn 

d) Biết hơi thở khắp thân 

đ) Trừ các thân hạnh 

e) Thọ hỷ 

ê) Thọ lạc 

g) Thọ các tâm hạnh 

h) Tâm tác hỷ 

i) Tâm tác nhiếp 

k) Tâm tác giải thoát  

l) Quán vô thường 

m) Quán xuất tán 

n) Quán ly dục 

o) Quán diệt 

p) Quán khí xả.  
5. Thông minh thiền: 

Thông minh thiền tức là tham thiền để được lục thông và tam minh. 

a) Lục thông tức là sáu phép thần thông như: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng thông, lậu tận thông. 

b) Tam minh tức là thiên nhãn minh, thiên nhĩ minh, lậu tận minh. 

6. Thập nhứt thế xứ quán: 

Thập nhứt thế xứ quán tức là phép quán mười món biến khắp các xứ sở, sau đây: 

a) Quán sắc Xanh, khắp giáp tất cả chỗ 

b) Quán sắc Vàng, khắp giáp tất cả chỗ 

c) Quán sắc Đỏ, khắp giáp tất cả chỗ 

d) Quán sắc Trắng, khắp giáp tất cả chỗ 

đ) Quán Đất, khắp giáp tất cả chỗ 

e) Quán Nước, khắp giáp tất cả chỗ 

ê) Quán Gió, khắp giáp tất cả chỗ 

g) Quán Lửa, khắp giáp tất cả chỗ 

h) Quán Hư không, khắp giáp tất cả chỗ 

i) Quán Thức tâm, khắp giáp tất cả chỗ 

7. Bát bối xả quán: 

Bát bối xả quán tức là tám phép quán có thể trái bỏ (bối xả) cảnh giới Tứ thiền, Tứ định của thế gian, để thành tựu pháp xuất thế gian. Tám phép bối xả quán là: 

a) Trong có sắc tướng, ngoài quán sắc để trái bỏ cảnh giới Sơ thiền. 

b) Trong không sắc tướng, ngoài quán sắc, để trái bỏ cảnh giới Nhị thiền. 

c) Quán thanh tịnh để trái bỏ cảnh Tam thiền và Tứ thiền. 

d) Quán trái bỏ Hư không vô biên xứ. 

đ) Quán trái bỏ Thức vô biên xứ 

e) Quán trái bỏ Vô sở hữu xứ 

ê) Quán trái bỏ Phi tưởng, phi phi tưởng xứ. 

g) Quán trái bỏ Diệt thọ tưởng. 

8. Bát thắng xứ quán: 

Thắng có nghĩa là thù thắng, là hơn. Tám phép quán nầy về cảnh sở quán, cũng như công đức thu thập được trong khi tu hành, đều thù thắng hơn tám món Bối xả trên, nên gọi là “Bát thắng xứ quán”. 

a) Trong có sắc tướng, ngoài quá ít sắc, thắng xứ. 

b) Trong có sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ  

c) Trong không sắc tướng, ngoài quán ít sắc ,thắng xứ  

d) Trong không sắc tướng, ngoài quán nhiều sắc, thắng xứ  

đ) Quán sắc xanh, thắng xứ  

e) Quán sắc vàng, thắng xứ 

ê) Quán sắc đỏ, thắng xứ 

g) Quán sắc trắng, thắng xứ 

9. Lục diệu pháp môn: 

Lục diệu pháp môn là sáu pháp môn mầu nhiệm sau đây: 

a) Số, b) Tùy, c) Chỉ, d) Quán, đ) Hoàn, e) Tịnh. 

(Xem quyển Lục Diệu pháp môn) 

10. Bát niệm xứ: 

Với phép quán tám niệm sau nầy, thiền giả sẽ trừ được sự sợ hãi khi tu Cửu tưởng và sẽ được đạo quả:  

a) Niệm Phật,

b) Niệm Pháp,

c) Niệm tăng,

d) Niệm giới,

đ) Niệm xả,

e) Niệm thiên,

f) Niệm hơi thở ra vào,

g) Niệm chết (nhớ chết). 

11. Thập quán tưởng: 

Thập quán tưởng gồm có: 

a) Tưởng vô thường,

b) Tưởng khổ,

c) Tưởng vô ngã,

d) Tưởng ăn vật bất tịnh,

đ) Tưởng thế gian không vui,

e) Tưởng chết,

f) Tưởng bất tịnh,

g) Tưởng đoạn,

h) Tưởng lìa,

i). Tưởng hết. 

12. Cửu thứ đệ định: 

Cửu thế đệ định là 9 món thiền định mà thiền giả sẽ tuần tự theo thứ lớp tu luyện: từ Sơ thiền đến Tứ thiền, rồi đến Tứ định, và cuối cùng, cộng thêm định Diệt thọ tưởng là chín món tất cả. 

13. Sư tử phấn tấn tam muội: 

Với pháp thiền này, hành giả bắt đầu tham thiền như pháp Cửu thứ đệ định nói ở trên, nghĩa là bắt đầu từ Sơ thiền đến thiền định thứ chín là Diệt thọ tưởng định, rồi đi ngược trở lại, từ thiền thứ chín đến Sơ thiền. Thiền giả tới lui trong thiền định một cách thông suốt, tự tại, đường hoàng, oai nghi như dáng đi đứng, tiến thoái của con sư tử, nên gọi là “Sư-tử phấn tấn tam muội”. Kết quả của lối thiền này, nếu được hoàn toàn siêu việt thì thiền giả sẽ là Bồ tát. Nếu không hoàn toàn tự tại và chưa siêu việt thì thành Thanh văn.  

14. Ba mươi bảy pháp trợ đạo: 

Thiền giả cũng có thể lấy một pháp môn hay nhiều pháp môn trong số 37 pháp trợ đạo để tham-thiền, tu-luyện. Ba mươi bảy pháp trợ đạo đã có nói rõ trong Phật học Phổ thông khóa ba. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nhắc qua để quý độc giả nhớ lại thôi: 

a) Ngũ căn

b) Ngũ lực 

c) Tứ chánh cần

d) Tứ như ý túc 

đ) Tứ niệm xứ

e) Thất Bồ đề phần 

ê) Bát chánh đạo phần. 

KẾT LUẬN VỀ NHỊ THỪA THIỀN 

Các pháp tu thiền của Nhị thừa hay Tiểu thừa nói trên, như quý độc giả đã thấy, nhiều không thể kể xiết. Tuy thế, hành giả muốn cho có kết quả, phải chọn lựa phương pháp nào thích hợp với trình độ của mình, chứ không phải gặp pháp môn nào tu theo pháp môn nấy được. Sự lựa chọn nầy cũng cần được các bậc thầy hướng-dẫn. Vì thế, chúng ta thường nghe ngày xưa các vị chân tu đi “cầu pháp”, hết xứ nầy đến xứ nọ, không quản công lao khó nhọc, có nhiều khi hy sanh cả đến tính mạng nữa. Cầu pháp nghĩa là tìm cầu minh sư chỉ dạy phương pháp tu hành, như ngài Thiện Tài đi tham cầu 53 vị Thiện tri thức, ngài Huyền Trang đi khắp nước Trung Hoa rồi sang Ấn Ðộ để cầu Pháp. Hành giả sau khi được vị minh sư nhận lời, còn phải theo hầu hạ một thời gian rất lâu để vị minh sư ấy quan sát căn cơ, trình độ của học trò như thế nào, rồi mới truyền cho phương pháp tu. Có như thế, sự tu hành của hành giả mới có kết quả. Trái lại, nếu vị minh sư truyền lầm pháp môn cho đệ tử, vì không quan sát, thăm dò căn cơ, trình độ một cách chu đáo, như ngài Xá-Lợi-Phất đem pháp Sổ tức dạy người giữ nghĩa địa, hay pháp quán Bất tịnh dạy người thợ rèn tu, thì chỉ hoài công vô ích, chứ không kết quả gì hết. 

Hành giả cũng nên nhớ một điều nữa, là trên bước đường tu hành chớ nên bôn chôn, nóng nảy vô ích. Sự tu hành cũng như nghề trồng cây, không thể nóng nảy được. Người trồng cây, hằng ngày lo vô phân tưới nước, làm đầy đủ bổn phận của mình, rồi kiên nhẫn chờ đợi; đến khi đủ sức đúng thời tiết, cây sẽ tự đơm bông trổ trái một cách tự nhiên. 

Người tu hành cũng vậy, cứ hằng ngày lo tu tập, tích trữ nhiều năm, đến khi công tròn quả mãn, thì được minh tâm kiến tánh. 

Hãy nhớ rằng tu hành phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp, chứ không thể mới một hai đời mà thành Phật được. 

IV. ÐẠI THỪA THIỀN 

Ðại thừa thiền là pháp tu thiền của bực Ðại thừa, cũng gọi là xuất thế gian thượng thượng thiền. Pháp thiền này chỉ dành riêng cho những người thượng căn rất thông minh và lanh lợi tu. Những bực Ðại thừa Bồ tát đã nhiều đời nhiều kiếp tu hành, phá hết các phiền não thô trược, chỉ còn vi tế vô minh, nếu kiếp này gặp được minh sư chỉ giáo cho phép tu Ðại thừa thiền nầy, thì sẽ được tỏ ngộ. Cũng như cành hoa sắp nở, chỉ thêm chút ít công phu vun tưới, thì hoa sẽ trổ ngay. Yếu tố căn bản của Ðại thừa thiền là trí huệ. Thiền giả phải lấy trí huệ để tự quan sát tâm tánh. Nếu thiếu trí huệ, thiền giả khó được kết quả khi tu theo Ðại thừa thiền. 

CÁC PHÁP THIỀN ÐỊNH CỦA ÐẠI THỪA  

Các pháp thiền định của Ðại thừa rất nhiều như: Pháp hoa tam muội, Niệm Phật tam muội, Ban châu tam muội, Giác ý tam muội, Thủ lăng nghiêm tam muội, Tự tánh thiền, Nhứt thế thiền, Nhứt thế môn thiền, Thiện nhơn thiền,, Nhứt thế hạnh thiền, Trừ phiền não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh tịnh tịnh thiền, Tự tánh thanh tịnh thiền, Như Lai tối thượng thừa thiền, Ðạt Ma tổ sư thiền v.v… 

Dưới đây chúng ta hãy nghiên cứu qua một số pháp thiền định thông thường của Ðại thừa. 

1. Sao gọi là “Pháp hoa tam muội”? 

Tam muội hay Tam ma đề là do chữ Phạn Samadhi phiên âm ra. Người Trung Hoa dịch là “Điều trực định”, nghĩa là khiến tâm điều hòa chánh trực, như như chẳng động; cũng có chỗ dịch là “chánh định” hay “chánh thọ”.

Sở dĩ gọi là “Pháp hoa tam muội”, vì phép thiền này căn cứ theo kinh Pháp Hoa mà thành lập. Kinh chép: “Người muốn đặng Pháp hoa tam muội, phải tu tập theo kinh Pháp Hoa, đọc tụng Đại thừa…”

Ngài Trí Giả đại sư trong khi chép quyển “Pháp hoa tam muội” có dạy phương pháp tu pháp tam muội, gồm có mười điều như sau:

a) Nghiêm tịnh đạo tràng,

b) Tịnh thân,

c) Tịnh nghiệp,

d) Cúng dường chư Phật,

đ) Lễ Phật,

e) Sám hối sáu căn,

f) Đi nhiểu,

g) Tụng kinh,

h) Tọa thiền,

i) Chứng tướng.

2. Sao gọi là “Niệm Phật tam muội”?

Phương pháp này can cứ theo kinh Ban châu niệm Phật. Hành giả thường niệm danh hiệu của Phật A Di Đà ở Tây Phương, ngày đêm không dứt. Khi được tam muội rồi, hành giả thấy chư Phật hiện ra trước mắt, nghe Phật thuyết pháp ở bên tai, và thọ trì được vô lượng công đức.

3. Sao gọi là “Giác ý tam muội”?

Phương pháp nay căn cứ theo kinh Ðại phẩm Bát Nhã. Hành giả tu pháp này, tâm ý giác ngộ tất cả các pháp và được vô sanh nhẫn (độc giả nào muốn rõ thêm, hãy xem lời thích luận của ngài Trí Giả đại sư). 

4. Sao gọi là “Thủ lăng nghiêm tam muội”? 

Phương pháp này căn cứ theo kinh Thủ lăng nghiêm. Hành giả phải nhận chân rằng các pháp đều từ thực thể như là Như Lai tạng tâm mà tùy duyên biến hiện, như huyễn, như hóa. Hiểu rõ các pháp đều như huyễn như hóa, rồi dựa theo lý ấy mà tham thiền nhập định, nên cũng gọi là như huyễn tam muội. 

5. Sao gọi là “Tự-tánh thiền, Nhứt thế thiền, Nan thiền v.v...”? 

Các món thiền như “Tự tánh thiền, Nhứt thế thiền, Nan thiền, Nhứt thế môn thiền, Thiện nhơn thiền, Nhứt thế hạnh thiền, Trừ phiền não thiền, Thử thế tha thế thiền, Thanh tịnh tịnh thiền”, gồm cả thảy chín món và được gọi là Ðại thừa thiền. 

Sở dĩ, gọi các món thiền này là Ðại thừa thiền, vì các vị Bồ tát nhờ y theo các món thiền này mà tấn tu làm nên được các công hạnh rộng lớn, thắm sâu không thể lường được (độc giả nào muốn hiểu rõ thêm, hãy đọc quyển “Pháp giới thứ đệ sơ môn” do ngài Trí Giả đại sư soạn). 

6. Sao gọi là “Trực chỉ thiền”? 

Trực chỉ thiền là pháp thiền chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, không dùng phương-tiện tu quán và cũng không cần kinh giáo. 

7. Sao gọi là “Như lai thanh tịnh thiền”? 

Như lai thanh tịnh thiền là pháp thiền thanh tịnh của Như lai. Như chúng ta đã biết, đức Phật Thích-Ca trước khi chưa thành đạo, đã ngồi tham thiền sáu năm dưới gốc cây Bồ đề. Sau khi phá trừ hết vô minh phiền não, tâm được thanh tịnh, Ngài chứng được đạo Bồ đề. Do đó, phép thiền này được gọi là “Như lai thanh tịnh thiền”. 

8.  Sao gọi là “Như lai Tối thượng thừa thiền”? 

Ðây là phép thiền cao siêu hơn tất cả các phép thiền mà đức Như lai đã ứng dụng. 

9. Sao gọi là “Ðạt Ma Tổ sư thiền”? 

Như chúng ta nghe, Ngài Ðạt Ma sau khi từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa truyền đạo, đã ngồi xây mặt vào tường chín năm, tại chùa Thiếu Lâm để tham thiền. Ðạt-Ma Tổ sư thiền tức là phép thiền mà Ngài đã tu luyện ở chùa Thiếu Lâm vậy. 

Các phép thiền của Ðại thừa, như quý độc giả đã thấy ở phần trên, tuy nhiều không kể xiết, tựu trung có thể chia làm hai loại lớn: 

1. Một loại thường gọi là tam muội, căn cứ theo kinh sách của Phật Tổ truyền dạy mà tu tập, có tu có quán, có phương pháp nhất định, như Pháp hoa tam muội, Niệm Phật tam muội, Ban châu tam muội, Giác ý tam muội, Thủ tăng nghiêm tam muội v.v... Các loại tam muội này vì có quy củ, có phương pháp nhất định và được phổ biến bằng văn tự, tương đối ít khó khăn và bí hiểm hơn loại thứ hai mà chúng tôi sắp nói dưới đây, nên được nhiều người tu luyện và số người thành tựu cũng nhiều. 

2. Một loại thứ hai, được truyền dạy không căn cứ theo kinh giáo, không có văn tự, tức là loại thiền “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự”, như các pháp “Trực-chỉ thiền”, “Như Lai thanh tịnh thiền”, “Tự tánh thanh tịnh thiền”, “Như Lai tối thượng thừa thiền”, “Ðạt Ma Tổ sư thiền” v.v... Với loại thiền này là người ngộ trước dùng tâm giác ngộ của mình để ấn chứng cho người sau giác ngộ. Ðó tức là loại thiền “Dĩ tâm ấn tâm, trực chỉ nhơn tâm kiến tánh thành Phật”: Vị minh sư dùng tâm mình để tiếp xúc với tâm của đệ tử, truyền thẳng sự giác ngộ của mình qua tâm của đệ tử; như dùng ngọn đèn sáng chói mà tâm mình đã bừng phát ra để chiếu vào tâm đệ tử; và tâm này cũng lại nhờ ảnh hưởng trực tiếp của sự giác ngộ của thầy mà bừng sáng lên và truyền nối từ thầy đến trò, từ đời này sang đời khác. Loại thiền này tức là loại thiền đã được truyền nối từ đức Phật Thích Ca xuống cho đến ngài Lục tổ. Ðây là một lối “truyền đạo” hay “truyền đăng” trực tiếp linh động chính thống, nhưng không phổ biến như lối trên, vì mỗi đời chỉ truyền cho một người, chứ không thể truyền cho nhiều người trong một lúc được. Và người được ấn chứng phải là một vị có trí huệ xuất chúng, siêu phàm không ai sánh kịp. 

Cách truyền dạy pháp thiền này có hai lối: 

a) Tham cứu một câu thoại đầu. Thoại đầu là một câu nói thiền hay “công án”, nghĩa là một đề án hay luận án gồm một câu rất ngắn, nhưng ý nghĩa sâu xa, đối với người thường không hiểu được. 

Khi một vị Tổ của phái Thiền tôn này nhận thấy trong hàng đệ tử của mình có một vị xuất chúng, có thể giữ giềng mối đạo, tiếp nối sự nghiệp của Thiền tôn và tỏ ngộ đạo mầu được, thì vị Tổ trao cho vị đệ tử ấy một câu thoại đầu (một luận án, như bây giờ, các vị bác sĩ hay tiến sĩ, trước khi ra trường, phải nạp cho ban giám khảo). Vị đệ tử này, đêm ngày tham cứu câu thoại đầu ấy, có nhiều khi trải qua một thời gian mười năm hoặc mười lăm năm mới tỏ ngộ được. Sau khi xét thấy đệ tử của mình đã tỏ ngộ đạo mầu rồi, vị Tổ sư mới ấn chứng cho. 

b) Nhưng nhiều khi vị Tổ sư lại không trao cho đệ tử của mình một câu thoại đầu để tham cứu, mà lại dùng những hình thức rất lạ lùng, người thường khó có thể hiểu được như: đánh, hét, ra dấu, mời ăn cơm, uống nước trà v.v... chẳng hạn; như có một vị đệ tử đến cầu đạo với một vị Tổ sư, vị này không nói gì cả, chỉ dùng thiền tượng (roi thiền) đánh đập vị đệ tử kia, để xem sự phản ứng ấy của vị đệ tử ấy như thế nào. Do sự phản ứng mà vị Tổ sư biết được vị đệ tử kia đã giác ngộ hay chưa. 

(Xem Pháp Bảo Ðàn Kinh). 

Tóm lại, pháp thiền này rất là mầu nhiệm, không thể nghĩ bàn được, cho nên người xưa có nói: “thiền cơ huyền diệu” (máy thiền mầu nhiệm). Các vị Tổ sư trong khi truyền đạo, không dựa theo một nguyên tắc, một phương pháp gì nhất định cả. Các Ngài tùy theo thời cơ mà ứng biến, nghĩa là quan sát căn cơ của người cầu đạo, xét đã đúng thời chưa, và phải dùng phương pháp gì cho vị đệ tử kia được ngộ đạo, rồi các Ngài đối cơ lập pháp. Tất nhiên phương pháp này các Ngài dùng chỉ trong nhất thời thôi. Do đó, mà không thể biết trước được các Ngài sẽ dùng phương-pháp gì để truyền thọ. 

Về sau cũng có người bắt chước những phương pháp như đánh, hét v.v... nhưng vì không biết quán thời cơ, nên chỉ làm cho người đau và sợ mà thôi, chứ không có hiệu quả gì. 

HỆ THỐNG TRUYỀN THỪA CỦA CÁC TỔ TRONG PHÁI THIỀN TÔN TẠI ẤN ÐỘ  

1. Ngài Ma-Ha Ca-Diếp, Sơ-tổ của Thiền tôn ở Ấn Ðộ 

Trong kinh Phạm thiên vấn Phật quyết nghi và trong bộ “Thích nghi kê cổ” quyển nhất, có chép đại khái như sau: Khi Phật ở hội Linh Sơn, có ông Ðại Phạm Thiên vương, đem hoa sen dâng cúng Phật. Phật cầm cành hoa sen đưa lên để khai thị cho đại chúng (thiền cơ). Toàn thể chúng hội đều yên lặng, không ai hiểu thâm ý của Phật như thế nào. Duy có Ngài Ma-Ha Ca-Diếp là tỏ ngộ được thiền cơ của Phật, nên đổi sắc mặt vui vẻ, chúm chím mỉm cười (phá nhan vi tiếu). Ðức Phật nhận thấy, liền ấn chứng (chứng nhận) cho Ngài Ca-Diếp được đắc truyền và làm Tổ thứ nhất (Sơ tổ ở Ấn Ðộ). Phật tuyên bố như sau: 

Nguyên văn:  

Ngô hữu chánh pháp nhãn tạng  

Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, 

Vi diệu pháp môn, kim phú Ma-Ha Ca-Diếp 

Dịch nghĩa: 

Ta có “Chánh pháp nhãn tạng”, cũng gọi là “Niết bàn diệu tâm”, cũng tên là “Thật tướng vô tướng” cũng gọi là “Vi diệu pháp môn”, nay ta truyền cho ông Ma-Ha Ca-Diếp. 

Sau đó, Phật truyền y bát và nói bài kệ truyền pháp như sau:  

Nguyên văn: 

Pháp pháp bổn vô pháp  

Vô pháp pháp, diệc pháp  

Kim phú vô pháp thời  

Pháp pháp hà tằng pháp. 

Dịch nghĩa: 

Các pháp vốn không pháp 

Không pháp cũng là pháp  

Nay truyền cái vô pháp (vô tướng)  

Vô pháp nào có pháp. 

Ðây là nguồn gốc phát khởi của Thiền tôn, lấy tâm truyền tâm (dĩ tâm ấn tâm) không dùng kinh giáo và phương tiện. 

2. Ngài A-Nan, Tổ thứ hai của Thiền tôn ở Ấn Ðộ

Một hôm Ngài A-Nan hỏi tổ Ca-Diếp: 

- Ngoài việc truyền y bát, đức Thích Tôn còn truyền pháp gì riêng cho Ngài nữa không? 

Tổ Ca-Diếp gọi to: 

- A-Nan! 

Ngài A-Nan: Dạ! 

Tổ dạy tiếp: 

- Cây sào phướn trước cửa chùa ngã! 

Ngài A-Nan liền tỏ ngộ thiền cơ, nên được tổ Ca-Diếp truyền y bát và ấn chứng cho làm vị Tổ thứ hai. (Xem Phật học từ điển, trang 1638 về mục “Ca-Diếp can sát”). 

Từ ngài A-Nan trở về sau, có thêm 26 vị Tổ về Thiền tôn nữa. Cộng cả ngài Ca-Diếp và ngài A-Nan, ở Ấn Ðộ có cả thảy là 28 vị Tổ, thứ lớp tuần tự như sau: 

1. Tổ Ma-Ha Ca-Diếp 

2. Tổ A-Nan 

3. Tổ Thương-Na Hòa-Tu 

4. Tổ Ưu-Ba Cúc-Ða 

5. Tổ Ðề-Ða-Ca 

6. Tổ Di-Giá-Ca 

7. Tổ Bà-Tu-Mật 

8. Tổ Phật-Ðà Nan-Ðề 

9. Tổ Phục-Ðà Mật-Ða 

10. Tổ Hiếp-Tôn-Giả 

11. Tổ Phú-Na Giạ-Xa 

12. Tổ Mã-Minh 

13. Tổ Ca-Tỳ Ma-La 

14. Tổ Long-Thọ 

15. Tổ Ca-Na Ðề-Bà 

16. Tổ La-Hầu La-Ða 

17. Tổ Tăng-Già Nan-Ðề 

18. Tổ Già-Ða Xá-Ða 

19. Tổ Cưu-Ma-La-Ða 

20. Tổ Xà-Dạ-Ða 

21. Tổ Bà-Tu Bàn-Ðầu 

22. Tổ Ma-Noa-La 

23. Tổ Hạc-Lặc-Na 

24. Tổ Sư-Tử 

25. Tổ Bà-Xá-Tư-Ða 

26. Tổ Bát-Như Mật-Ða 

27. Tổ Bát-Nhã Ða-La 

28. Tổ Bồ-Đề Ðạt-Ma. 

(Theo truyện Phú Pháp Tạng Nhơn duyên) 

Hai mươi tám vị tổ này đã làm rực rỡ cho Phật giáo ở Ấn Ðộ, chứ không riêng gì cho Thiền Tôn Phật giáo sau này được lan rộng trên toàn cầu, một phần lớn do công đức của 28 vị Tổ này. Ngày nay khi nhắc đến những tên như Ma Ha Ca Diếp, A Nan, Hiếp Tôn Giả, Mã Minh, Long Thọ, không một Phật tử nào là không biết đến. Và sự kiện này chứng tỏ rằng phần lớn các vị Tổ có tiếng tăm đều ở trong phái Thiền tôn. Sự nhận xét này không những được chứng minh ở Ấn Ðộ, mà cả đến Trung Hoa, Nhật-Bản và Việt Nam nữa. 

SỰ TRUYỀN THỪA THIỀN TÔN Ở TRUNG HOA 

1. Ngài Bồ Đề Ðạt Ma, Sơ tổ của Thiền tôn ở Trung Hoa.

Sau khi Ngài Bát Nhã Ða La, vị Tổ 27 của Thiền tôn ở Ấn Ðộ, ấn chứng cho làm Tổ thứ 28, ngài Bồ Đề Ðạt Ma ở lại Ấn Ðộ ít lâu, rồi vâng lời phú chúc của sư phụ, Ngài sang Trung Hoa truyền đạo. 

Ngài sang Trung Hoa nhằm vào đời vua Lương Võ Ðế (528 dl.) trị vì, Ngài đến yết kiến vua và hy vọng rằng vua sẽ giúp một tay đắc lực trong việc truyền bá Phật giáo ở Trung Hoa. Nhưng nhận thấy căn cơ của vua còn thấp thỏi và sự tín ngưỡng của vua chỉ có tánh cách hình thức bề ngoài, nên tổ Ðạt Ma đã từ giã  vua đến tu tại chùa Thiếu Lâm, ở Trung Sơn (đất Ngụy). Ngài ngồi xây mặt vào tường, tham thiền nhập định trong chín năm, đợi thời cơ thuận tiện để truyền đạo (xem quyển Tổ Ðạt Ma, do Hương Ðạo xuất bản). Chính lối tham thiền này mà đời sau có tên là “Ðạt Ma tổ sư thiền”. Trong thời gian chín năm, Ngài tham thiền ở Thiếu Lâm, có nhiều vị tu sĩ nghe danh Ngài, đến cầu đạo, nhưng Ngài không tiếp một ai. Ðó cũng là một phương pháp dò xét căn cơ, tâm tánh của những người đến cầu đạo có thiết tha với đạo hay không. Trong số những người đến cầu đạo này, chỉ có một vị tỏ ra vô cùng kiên nhẫn nhiệt thành, dám hy sanh tất cả vì đạo. Ðó là Ngài Thần Quang mà sau này được tổ Ðạt Ma ấn chứng cho làm Tổ thứ hai của Thiền tôn ở Trung Hoa, và đổi pháp hiệu là Huệ Khả. 

Để làm kim chỉ nam cho người tu thiền đời sau, Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma còn truyền lại bộ kinh Lăng Già gồm 4 quyển, rất có giá trị. 

2. Ngài Huệ Khả (Thần Quang) vị tổ Thiền tôn thứ hai ở Trung Hoa. 

Ngài Thần Quang, nghe danh Tổ Ðạt Ma đến cầu đạo. Nhưng Tổ không tiếp. Ngài Thần Quang quỳ đợi luôn mấy năm ở ngoài hiên chùa; nhưng Tổ cũng không đoái hoài đến. Cuối cùng, để tỏ lòng chí thành tột mức của mình, dám xả thân cầu đạo, ngài Thần Quang đã chặt đứt cánh tay của mình. Lúc bấy giờ Tổ Ðạt Ma mới xoay lại hỏi: 

- Ông đến đây cầu gì? 

Ngài đáp: 

- Con cầu pháp an tâm. 

Tổ bảo: 

- Ông đem tâm đến đây để ta an cho. 

Ngài thưa: 

- Con tìm tâm không được. 

Tổ dạy: 

- Ta đã an tâm cho ông rồi đó! 

Ngài liền ngộ đạo. Tổ Ðạt Ma nói bài kệ sau đây, trong khi truyền pháp cho ngài Huệ Khả: 

Nguyên văn: 

Ngô bổn lai tự độ 

Truyền pháp độ mê tình 

Nhất hoa khai ngũ diệp  

Kết quả tự nhiên thành. 

Dịch nghĩa: 

Ta đến nước Trung Hoa 

Truyền pháp độ kẻ mê 

Một bông trổ năm cánh 

Kết quả tự nhiên thành. 

3. Ngài Tăng Xán, vị Tổ thứ ba của Thiền tôn ở Trung Hoa. 

Ngài Huệ Khả, sau một thời gian hành đạo, lại ấn chứng cho ngài Tăng Xán làm vị Tổ thứ ba của Thiền tôn ở Trung Hoa.  

4. Ngài Ðạo Tín, vị Tổ thứ tư của Thiền tôn ở Trung Hoa. 

Tổ Tăng Xán truyền pháp cho ngài Ðạo Tín là vị Tổ thứ tư. Từ tổ Đạo Tín, sự truyền pháp lại chia ra làm hai dòng, do hai ngài sau đây cầm đầu. 

a) Ngài Hoằng Nhẫn ở núi Ðông Sơn, huyện Huỳnh Mai. 

b) Ngài Pháp Dung ở non Ngưu Ðầu, cũng gọi là “Ngưu Ðầu thiền”. 

5. Ngài Hoằng Nhẫn, vị Tổ thứ năm của Thiền tôn ở Trung Hoa.  

Chữ Hoằng Nhẫn có nghĩa là kiên nhẫn tột độ, chịu đựng lâu dài. Hai chữ này có thể tóm tắt cho cả một câu chuyện truyền pháp, bao hàm nhiều tính chất nhẫn nhục sau đây: 

Một hôm ngài Ðạo Tín, vị Tổ thứ tư Thiền tôn, thấy một ông già đến cầu đạo, căn tánh thông lợi, có thể được truyền thọ đạo pháp. Nhưng vì tuổi ông đã già, chẳng còn sống được lâu nên Tứ tổ dạy: 

- Ta đã già, ông cũng già! Nếu truyền pháp cho ông ít ngày ta chết, rồi ông cũng chết, thì ai ở lại mà truyền đạo? Vậy, nếu ông có thể đi đổi xác, ta sẽ truyền đạo cho! Ông già thưa: 

- Nếu con đi đổi xác chưa xong, mà lỡ Tổ đã tịch trước, thì làm sao truyền đạo cho con được? 

Ðức Tứ tổ dạy: 

- Ta sẽ ở nán lại cõi đời để chờ ông. 

Vâng lời Tổ dạy, ông già đi vòng theo dòng suối, thấy có một cô gái ngồi giặt bên bờ. Ông già hỏi: 

- Cô cho tôi ngủ nhờ một đêm, có được không? 

Cô gái thưa: 

- Ông hãy hỏi cha mẹ cháu. 

Ông già nói tiếp: 

- Nếu cô bằng lòng thì tôi sẽ hỏi sau. 

Cô gái trả lời: 

- Dạ bằng lòng 

Ðược lời, ông già đi khuất vào rừng rồi bỏ xác. 

Còn cô gái kia, không có chồng mà từ đó bỗng nhiên có mang. Bị cha mẹ đánh đuổi, cô phải bỏ nhà đi xin ăn vất vả, nhẫn chịu không biết bao nhiêu điều khổ nhục. Sau khi sanh được đứa bé được vài tuổi, cô bồng nó vào chùa. Ðứa bé vừa trông thấy Tứ tổ, mừng rỡ mở miệng cười. Tổ nói: 

- Ta đang trông đợi ngươi đây! 

Tổ xin đứa bé để nuôi và đặt tên là Hoằng Nhẫn. Ngài đặt tên ấy là có ý rằng: Tổ đã nhẫn đợi, chưa chết để chờ truyền đạo, và bà mẹ đã nhẫn chịu bao sự nhục nhã, oan ức, khổ sở để sanh đứa bé. 

Tổ Ðạo Tín nuôi đứa bé cho đến khi khôn lớn rồi truyền pháp cho. Ngài Hoằng Nhẫn tức là vị Tổ thứ năm của Thiền tôn. Sau khi truyền đạo xong, Tứ tổ Ðạo Tín mới viên tịch (xem Quy Nguyên Trực Chỉ âm nghĩa). 

6. Ngài Huệ Năng vị Tổ thứ sáu của Thiền tôn ở Trung Hoa. 

Ngài Huệ Năng lúc nhỏ nhà nghèo, không biết chữ, chuyên nghề đốn củi đem bán lấy tiền về nuôi mẹ già. Một hôm, gánh củi đến bán cho nhà một phú ông. Trong khi chờ đợi, Ngài lắng nghe chủ nhà tụng kinh Kim Cang. Ðến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Ngài liền ngộ đạo. 

Ðợi cho chủ nhà tụng kinh xong, Ngài trầm trồ khen ngợi và hỏi rằng: 

- Chẳng hay ông tụng kinh gì mà hay quá vậy? Tôi cũng muốn được thọ trì tụng đọc như ông. 

Phú ông mách cho Ngài: 

- Tại núi Ðông Sơn, huyện Huỳnh Mai có đức Ngũ tổ, thường truyền Pháp độ người, ông nên đến đó mà cầu đạo. 

Ngài trả lời: 

- Tôi cũng muốn như thế lắm; ngặt vì còn mẹ già không ai nuôi dưỡng nên không biết liệu làm sao! 

Phú ông bảo: 

- Nếu ông thật quyết chí xuất gia cầu đạo, thì hãy về cố gắng đốn củi cho thật nhiều, đem đến đây tôi sẽ đổi vàng cho. Ông lấy vàng ấy để lại nuôi mẹ, rồi đi xuất gia. 

Ngài Huệ Năng mừng rỡ trở về, ngày đêm cố gắng đốn thật nhiều củi, đem đến bán cho phú ông, và sau khi thu xếp việc nhà xong xuôi, Ngài đến huyện Huỳnh Mai cầu bái yết đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. 

Ngũ tổ thấy Ngài hỏi: 

- Ông ở đâu đến và đến đây để cầu việc gì? 

Ngài đáp: 

- Con từ phương Nam đến đây, để cầu làm Phật. 

Ngũ tổ thấy Ngài hình thù tuy kì dị, nhưng căn tánh lại thông lợi phi thường, có thể nối Tổ vị sau này. Ngài không muốn trong chúng biết, nên giả quở to rằng: 

- Ông là người mọi rợ ở phương Nam, mà cầu thành Phật cái gì? 

Ngài Huệ Năng trả lời: 

- Bạch Tổ sư! Thân người tuy có phân chia kẻ Nam người Bắc, chứ Phật tánh vẫn bình đẳng, không phân biệt Nam, Bắc. 

Ngũ Tổ sợ trong trong chúng để ý, lộ bí mật, nên chẳng hỏi han gì thêm nữa, mà truyền cho Ngài xuống nhà trù công quả giã gạo.

Từ đấy, Ngũ tổ không nhắc gì đến Ngài nữa, và ngài Huệ Năng, ngày ngày cũng cứ siêng năng cặm cụi giã gạo.

Trải qua một thời gian lâu, một hôm Ngũ tổ thấy mình đã già, muốn chọn người truyền Tổ vị, nên tuyên bố rằng: 

- Nếu ai làm kệ dâng lên, được tỏ ngộ thiền cơ, thì ta sẽ ấn chứng và truyền Pháp cho làm Tổ thứ sáu. 

Tin này được truyền ra rất mau chóng. 

Trong chúng, mọi người đều nô nức, xôn xao bàn tán: 

- Trong chúng chỉ có Thượng tọa Thần Tú là thông minh, học nhiều và tài giỏi hơn hết, chắc thế nào Thượng tọa cũng sẽ được truyền Tổ vị. 

Nhưng Thượng tọa Thần Tú lại không dám tin chắc mình sẽ được cái may mắn ấy, nên không dám trực tiếp đem dâng bài kệ của mình cho Ngũ tổ. Thượng tọa đợi đêm khuya thanh vắng, trong chúng đều ngủ cả, mới cầm đèn hồi hộp đến viết một bài kệ trên vách phía đông lang và không dám ký tên. Thượng tọa Thần Tú nghĩ thầm: “Nếu nhờ công phu tu hành bấy lâu mà bài kệ này được trúng ý Tổ, thì đây là một diễm phúc lớn lao vô cùng cho ta. Lúc bấy giờ ta sẽ ra bái nhận, bằng không thì ta sẽ làm thinh như không biết”. 

Nguyên văn: 

Thân thị Bồ đề thọ 

Tâm như minh cảnh đài 

Thời thời thường phất thức 

Dật sử nhá trần ai. 

Dịch nghĩa: 

Thân là cây Bồ đề  

Tâm như đài gương sáng 

Thường ngày hằng lau quét

Chớ cho dính bụi trần. 

Sáng ngày, tăng chúng qua lại thấy bài kệ xuất hiện trên vách đông lang, ai nấy đều trầm trồ kính phục: 

- Ðây rồi! Kế tổ vị đây rồi! Nếu không phải Thượng tọa Thần Tú thì còn ai nữa!

Nghe tăng chúng trầm trồ khen ngợi, nô nức kéo nhau đến xem bài kệ, ngài Huệ Năng cũng từ nhà trù theo chúng lên xem. Sau khi xem xong bài kệ, ngài Huệ Năng nói:

- Còn đứng ngoài cửa rào. 

Kẻ qua người lại nghe Ngài nói thế, bĩu môi khinh bỉ: 

- Ðã dốt nát không biết một chữ thế kia, mà dám chê là còn đứng ngoài cửa rào! 

Ngài Huệ Năng ôn tồn bảo: 

- Tôi cũng có một bài kệ, xin các ngài viết lên vách giùm tôi, vì tôi không biết chữ. 

Một người liền hoan hỉ viết hộ. Ngài Huệ Năng đọc bài kệ sau đây: 

Nguyên văn: 

Bồ đề bổn vô thọ 

Tâm phi minh cảnh đài 

Bổn lai vô nhứt vật 

Hà xứ nhá trần ai? 

Dịch nghĩa: 

Bồ đề vốn không cây 

Tâm không phải đài gương 

Xưa nay không một vật 

Chỗ nào dính bụi trần? 

Nghe xong bài kệ, mọi người đều kinh ngạc: Không ngờ một người dốt nát như thế mà lại làm được bài kệ xuất sắc thâm diệu như thế? 

Ngủ tổ thấy trong chúng xôn xao bàn tán, muốn đánh tan dư luận có thể nguy hại cho ngài Huệ Năng, nên bảo trong chúng truyền đọc bài kệ của Thượng tọa Thần Tú, mà bôi bỏ bài kệ của ngài Huệ Năng. 

Một buổi chiều, Ngủ tổ một mình đi xuống nhà trù, đến chỗ ngài Huệ Năng giã gạo và hỏi rằng: 

- Gạo đã trắng chưa? (mật ý hỏi: Ðạo đã ngộ chưa?) 

Ngài Huệ Năng đáp: 

- Bạch Tổ, gạo con giã đã trắng rồi mà còn thiếu người sàng (mật ý Ngài muốn nói: Ðạo con đã ngộ rồi mà còn thiếu người truyền). 

Ngũ tổ nghe xong, lấy cây gậy gõ lên đầu chày ba cái rồi đi lên (Ngủ tổ bảo Huệ Năng canh ba vào phòng). Đúng canh ba, ngài Huệ Năng vào phòng Ngủ tổ. Ngài được Ngủ tổ ấn chứng và truyền y bát cho Ngài làm Tổ thứ sáu, và dạy Ngài phải đi về phương Nam ngay đêm hôm ấy, để hoằng hóa đạo pháp (Xem quyển Lục Tổ Huệ Năng). 

Từ đó, ngài Lục Tổ Huệ Năng truyền pháp ở phương Nam, còn ngài Thần Tú thì truyền pháp ở phương Bắc. Phương Nam chủ trương về đốn ngộ; phương Bắc chủ trương về tiệm tu, nên gọi là “Nam đốn, Bắc tiệm” hay “Nam Năng Bắc Tú”. 

Sau đây là bản lược đồ về sáu vị Tổ Thiền tôn ở Trung Hoa: 

Sơ tổ: Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma 

Nhị tổ: Ngài Huệ Khả (Thần Quang) 

Tam tổ: Ngài Tăng Xán 

Tứ tổ: Ngài Ðạo Tín 

Ngũ tổ: Ngài Hoằng Nhẫn 

            Ngài Ngưu Ðầu Thiền sư 

Lục tổ: Ngài Huệ Năng 

            Ngài Thần Tú. 

Từ Ngài Lục Tổ Huệ Năng về sau, không còn cái lệ truyền y bát nữa, và các tổ cũng không còn ấn chứng riêng cho một vị nào. Do đó trong Thiền tôn không còn truyền thống duy nhất nữa, mà lại chia ra làm hai phái và năm dòng sau đây: 

HAI PHÁI VÀ NĂM DÒNG

Ngài Huệ Năng từ khi lên làm Lục tổ đã truyền pháp cho rất nhiều đệ tử. Trong số các đệ tử, nổi tiếng hơn hết là ngài Hoài Nhượng ở Nam Nhạc và ngài Hành Tú ở Thanh Nguyên (xem Pháp Bảo Ðàn Kinh). Hai Ngài này mở đầu cho hai phái Thiền tôn là phái Nam Nhạc và phái Thanh Nguyên. 

Phái Nam Nhạc về sau lại chia làm hai dòng là: Lâm Tế và Quy Ngưỡng. 

Phái Thanh Nguyên lại chia làm ba dòng là: Tào Ðộng, Vân Môn và Pháp Nhãn. 

Sau đây là lược đồ của hai phái và năm dòng Thiền tôn ở Trung Hoa.

 

1. Dòng Lâm Tế 

a) Sự truyền thừa của dòng Lâm Tế, tuần tự như sau: 

- Hoài Nhượng Thiền sư 

- Ðạo Nhứt Thiền sư (họ Mã, tục gọi là Mã Tổ) 

- Bách Trượng Thiền sư (Hoài Hải) 

- Huỳnh Nghiệt Thiền sư (Hy Vân) - Lâm Tế Nghĩa huyền. 

b. Sự truyền pháp (thiền cơ) của tôn Lâm Tế: 

Như chúng tôi đã nói ở phần đầu của tập sách này, sự truyền pháp của phái Thiền tôn khó mà hiểu được, đối với người thường. Chẳng hạn như trong phái Lâm Tế, sự truyền pháp chỉ dùng thiền trượng đánh và hét to lên, mà làm cho thiền giả được ngộ đạo. Cái lối khai ngộ này khởi đầu từ ngài Huỳnh Nghiệt Thiền sư. 

Để cầu giác ngộ, một hôm ngài Lâm Tế hỏi ngài Huỳnh Nghiệt: 

- Sao gọi là đại ý Phật pháp? 

Ngài Huỳnh Nghiệt liền lấy thiền trượng (gậy hoặc roi) đánh Ngài Lâm Tế một cái. Ba lần Ngài Lâm Tế hỏi, thì ba lần đều bị đánh như thế. 

Ngài Lâm Tế lấy làm bối rối, không hiểu ý nghĩa làm sao, nên đến tham học với ngài Ðại Ngu Thiền sư, nhờ thế Ngài Lâm Tế mới ngộ được tôn chỉ của ngài Huỳnh Nghiệt. 

Từ đó về sau, dòng Lâm Tế mỗi khi khai ngộ cho đệ tử, đều dùng phương pháp đánh và hét ấy. 

Ngài Lâm Tế nói:

“Có khi hét một tiếng như bửu kiếm kim cương vương, có khi hét một tiếng như sư tử giậm chân, có khi hét một tiếng như quơ cây nơi bóng cỏ, có khi hét một tiếng, không khởi cái dụng của tiếng hét”. Bởi thế nên người đời gọi là “Lâm Tế tứ yết” (bốn tiếng hét của Lâm Tế). 

Dòng Lâm Tế sau lại chia làm hai nhánh: Dương Kỵ và Huỳnh Long. Từ đời Tống về sau, dòng Lâm Tế rất thạnh hành. Cho đến ngày nay về Thiền tôn trong các Ðại tòng lâm, phần nhiều là dòng Lâm Tế. 

2. Dòng Quy Ngưỡng 

Tổ Bách Trượng Thiền sư truyền cho ngài Linh Hựu Thiền sư ở núi Quy Sơn đất Ðàm Châu. Ngài Linh Hựu truyền cho Ngài Quy Ngưỡng Huệ Tịch. 

Ngài Quy Ngưỡng là một vị thiền sư đắc đạo, sự mầu nhiệm của Ngài, không ai có thể lường được. Ảnh hưởng của Ngài rất lớn, vì thế cho nên người ta đã lấy tên Ngài để đặt tên cho cả một dòng Thiền tôn. Sự truyền đạo của Ngài cũng rất kỳ lạ. Một khi có ai đến hỏi đạo thì ngài Quy Ngưỡng chỉ vẽ tướng trâu, hoặc vẽ tướng người, tướng Phật hay chữ Vạn, mà người được ngộ đạo. 

3. Dòng Tào Ðộng 

Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau: 

a) Ngài Thanh Nguyên Thiền sư 

b) Ngài Hy Thiên Thiền sư, tức Ngài Thạch Ðầu Hòa thượng  

c) Ngài Dược Sơn Thiền sư 

d) Ngài Vân Nham Thiền sư  

đ) Ngài Lương Giới Thiền sư ở núi Ðông Sơn  

e) Ngài Bổn Tịch Thiền sư ở núi Tào Sơn  

Ngài Vân Nham Thiền Sư đã dùng pháp Bửu cảnh tam muội, truyền cho ngài Lương Giới (Ðông Sơn); Ngài Lương Giới cũng dùng pháp này để truyền cho ngài Bửu Tịch (Tào Sơn). 

4. Dòng Vân-Môn 

Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau: 

a) Ngài Thạch Ðầu Thiền sư 

b) Ngài Thiên Hoàng 

c) Ngài Long Ðàm

d) Ngài Ðức Sơn 

đ) Ngài Tuyết Phong 

e) Ngài Vân Uyển Thiền sư ở đất Thiền Châu, Vân Môn. 

Cách truyền pháp của Ngài Vân Uyển (Vân Môn) cũng rất kỳ lạ, ít ai hiểu được nghĩa lý: Ai đến hỏi đạo, thì Ngài chỉ nói một chữ “Dám”. Nếu người cầu đạo, còn ngần-ngại không hiểu, thì Ngài nói thêm chữ “Di”. Vì Ngài chỉ đáp có một chữ như thế cho người cầu đạo, nên người đời gọi pháp quán của Ngài là “Nhứt tự quán” (Quán sát cái lý trong một chữ Dám hay chữ Di). 

5. Dòng Pháp Nhãn 

Sự truyền thừa của tôn này, thứ tự như sau: 

a) Ngài Tuyết Phong Thiền sư

b) Ngài Huyền Sa Thiền sư 

c) Ngài Xa Hán Thiền sư

d) Ngài Vân Ích Thiền sư. 

Phương pháp khai thị cho người đến cầu đạo của Ngài Vân Ích Thiền sư là dùng sáu tướng trong kinh Hoa Nghiêm sau đây: 

- Tổng tướng: Tức là muốn nói đến chơn như nhứt tâm. 

- Biệt tướng: Tức là các duyên sanh khởi từ chơnnhư nhứt tâm. 

- Ðồng tướng: Các pháp đều đồng như nhau. 

- Dị tướng: Tùy theo mỗi tướng không bình đẳng. 

- Thành tướng: Dựng lập ra cảnh-giới. 

- Hoại tướng: Vị trí không đồng tức là hoại tướng.  

THIỀN TÔN Ở VIỆT NAM 

Như chúng ta đã biết, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo Trung Hoa. Cho nên, nếu ở Trung Hoa Thiền tôn được thịnh hành truyền bá, thì ở Việt Nam Thiền tôn cũng được xem như là một phái chính của đạo Phật. Đấy cũng là một lẽ dĩ nhiên, không có gì là khó hiểu. 

Phật giáo truyền vào Việt Nam từ thế kỷ thứ II Tây lịch, do các vị danh tăng người Ấn Ðộ và Trung Hoa, như các ngài Ma Ha Kỳ Vực, ngài Khương Tăng Hội (người Ấn Ðộ), ngài Mâu Bác (người Trung Hoa). Trong thời gian xa xưa này, chúng ta không thể biết được các vị này thuộc tôn phái nào, và truyền vào Việt Nam giáo lý gì. Nhưng chúng ta có thể biết chắc là không phải phái Thiền tôn. Vì Thiền tôn ở Việt Nam là do từ Trung Hoa truyền sang. Mà Thiền tôn ở Trung Hoa thì phải đợi đến đầu thế kỷ thứ VI, dưới đời Lương Võ Ðế (528), tổ Bồ Ðề  Ðạt Ma mới đưa vào. Vậy thì nhất địnhlà Thiền tôn ở Việt Nam chỉ có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ VI Tây lịch. Sự phỏng đoán này đã được lịch sử truyền giáo ở Việt Nam chứng minh. Vào năm 580 (cuối thế kỷ thứ VI), Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi, lần đầu tiên truyền Thiền tôn vào Việt Nam, và là vị sơ tổ về Thiền tôn Việt Nam. Sau Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi cũng có nhiều vị danh tăng khác đem truyền Thiền tôn vào Việt Nam, và nhờ đó, Việt Nam cũng có nhiều môn phái Thiền tôn như ở Trung Hoa. Một điều đặc biệt, đáng hãnh diện cho Phật tử Việt Nam là ngoài những phái Thiền tôn ở Trung Hoa truyền sang, ngay ở nước ta, cũng có một phái Thiền tôn do một vị vua sáng lập, đó là phái Trúc Lâm mà vị sơ tổ là vua Trần Nhân Tôn. 

Dưới đây, chúng ta tuần tự nói về các môn phái Thiền tôn ấy: 

1. Phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi 

a) Vị Sơ tổ Thiền tôn ở Việt Nam 

Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi, người Ấn Ðộ là đệ tử Ngài Tăng Xán (Tam tổ Thiền tôn). 

Lần đầu tiên gặp tổ Tăng Xán ở núi Tư Không, thấy phong mạo của Tổ khác thường, Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi sanh lòng kính phục, chắp tay đảnh lễ. Ngài đảnh lễ ba lần mà Tổ vẫn ngồi lim dim đôi mắt chứ không nói gì hết (thiền cơ). Ngài đứng yên nghĩ ngợi một hồi, bỗng thấy trong người đổi khác, như tỏ ngộ được điều gì. Ngài liền sụp xuống lạy ba lạy. Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái mà thôi (thiền cơ). Sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy, Ngài trở thành một trong những đệ tử xuất sắc nhất của tổ Tăng Xán. 

Về sau, Tổ dạy Ngài sang phương Nam để truyền đạo, Ngài vâng lịnh sang Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI, trụ trì tại chùa Pháp Vân ở tỉnh Hà Ðông. 

Khi sắp thị tịch, Ngài gọi đệ tử là ngài Pháp Hiển vào phòng phú chúc rằng: 

“Tâm ấn của Phật , không có thể mập mờ được, Tâm ấn viên mãn như thái hư không thừa, không thiếu, không đến, không đi, không được, không mất, không phải đồng nhất, cũng không phải sai biệt, không thường cũng không đoạn, không sanh cũng không diệt, không xa cách cũng không phải không xa cách. Chỉ vì đối với vọng nên giả đặt ra tên ấy (Tâm ấn) mà thôi”. 

Chư Phật trong ba đời do đó (Tâm ấn) mà được đạo. Lịch đại Tổ sư cũng do đó mà chứng ngộ. Ta đây cũng vậy, mà ông cũng thế, cho đến các loài hữu tình vô tình cũng đều như thế cả. 

Khi đệ tam Tổ Tăng Xán ấn chứng “Tâm ấn” cho ta, đã bảo ta rằng: “Ông nên sang phương Nam hoằng đạo, chớ ở đây làm gì. Do đó, ta đi trải qua bao nhiêu chỗ mới đến đây. Ta nay được gặp ông, thật đúng như lời huyền ký ấy. Vậy ông nên nhớ kỹ lời ta. Giờ đây nhằm lúc ta đi rồi !” 

Dạy xong, tổ Tỳ Ni Ða Lưu Chi chắp tay ngồi yên lặng mà tịch diệt. Ðệ tử trà tỳ (thiêu) rồi thu xá lợi, xây tháp để thờ. 

Về sau, vua Lý Thái Tôn có bài kệ truy tán Ngài như sau: 

Nguyên văn: 

Sáng tự lai Nam Quốc 

Văn quân cữu tập thiền  

Ứng khai chư Phật tín 

Viễn hợp nhất tâm nguyên 

Hạo hạo Lăng-già nguyệt 

Phân phân Bát-nhã liên 

Hà thời hạnh tương kiến 

Tương dữ thoại trùng huyền. 

Dịch nghĩa: 

Mở lối qua nước Việt 

Nghe Ngài thông đạo Thiền  

Nguồn tâm thông một mạch 

Cõi Phật rộng quanh miền 

Lăng-già ngời bóng nguyệt 

Bát-nhã nức mùi sen 

Biết bao giờ được gặp 

Ðàm đạo lẽ thâm huyền. 

b) Ngài Pháp Hiển Thiền sư, vị Tổ thứ hai của Thiền tôn Việt Nam 

Sau khi tổ Tỳ Ni Ða Lưu Chi  tịch, Ngài Pháp Hiển là vị Tổ thứ hai của phái Thiền tôn Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Ngài họ Ðỗ, quê ở Quận Chu Diên (Sơn Tây bây giờ). Khi tới chùa Pháp Vân, tổ Tỳ Ni Ða Lưu Chi  thấy Ngài, thì nhìn kỹ vào mặt mà hỏi: 

- Chú họ gì? 

Ngài Pháp Hiển hỏi lại: 

- Hòa thượng họ gì? 

Tổ lại hỏi: 

- Chú không có họ à? 

Ngài trả lời: 

- Sao lại không có! Nhưng đố Hòa thượng biết? 

Tổ quát lên: 

- Biết để làm gì? 

Ngài Pháp Hiển chợt ngộ ý tổ Tỳ Ni Ða Lưu Chi (thiền cơ) liền sụp xuống lạy, xin theo làm đệ tử và sau được truyền tâm ấn. 

Ðược ít lâu, sau khi Tổ tịch, Ngài vào núi Từ Sơn tu thiền định, những loại cầm thú thường quấn quýt chung quanh. Người đời thấy thế càng lấy làm lạ và kính mộ. Ðệ tử tìm đến học đạo rất đông. Thiền tôn ở trong thời kỳ này có thể nói là thạnh nhất. Ðó cũng nhờ công đức hoằng hóa của ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi và ngài Pháp Hiển. Về sau trong phái nầy cũng có nhiều vị thiền sư xuất sắc như ngài Pháp Thuận, Vạn Hạnh v.v... 

2. Phái Vô Ngôn Thông

a) Vị Sư tổ của phái Thiền tôn thứ hai ở Việt Nam

Ngài họ Tịnh, quê ở Quảng Châu, xuất gia ở chùa Song Lâm (Triết Giang bây giờ). Tính Ngài điềm đạm ít nói, nhưng sự lý gì cũng thông hiểu, nên người đời đặt danh hiệu cho Ngài là Vô Ngôn Thông. Ngài là đệ tử của Bách Trượng thiền sư (đệ tử của Mã Tổ). 

Khi Ngài mới đến yết kiến Bách Trượng thiền sư gặp lúc thiền sư đang dạy chúng tăng học. Một vị tăng hỏi Bách Trượng thiền sư rằng: 

Thế nào là pháp môn đốn ngộ của phái Ðại thừa? 

Bách Trượng thiền sư dạy rằng: 

- Tâm địa nhược thông, huệ nhật tự chiếu (nếu tâm địa được thông thì mặt trời huệ tự nhiên chiếu sáng). 

Nghe được câu ấy, ngài Vô Ngôn Thông tự nhiên ngộ đạo. Năm 820, Ngài qua Việt Nam tu tại chùa Kiến Sơ, làng Phù Ðổng (Bắc Ninh), Ngài ngồi xây mặt vào vách trọn ngày tham thiền nhập định. Ngài tu như thế mấy năm không ai biết, chỉ trừ vị sư ở chùa ấy là Cảm Thành thiền sư, biết Ngài là bậc cao tăng đắc đạo trong phái Thiền tôn, nên tôn thờ Ngài làm thầy. 

Trước khi tịch, Ngài gọi Cảm Thành thiền sư mà bảo: 

- Ngày xưa tổ sư Nam Nhạc, khi sắp tịch có dặn lại bài kệ rằng: 

“Nhất thế chư pháp, giai tùng tâm sanh 

Tâm vô sở sanh, pháp vô sở trú 

Nhược đạt tâm địa, sở trú vô ngại 

Phi ngộ thượng căn, thận vật khinh hứa. 

Nghĩa là:

Hết thảy các pháp, đều tự tâm sanh; tâm nếu không sanh, pháp không chổ trú. Nếu hiểu được tâm địa ấy thì làm việc gì cũng không trở ngại. Cái tâm pháp ấy, nếu không gặp được bậc thượng căn, chớ nên truyền bậy.” 

“Ðó là lời dặn của người xưa, nay ta cũng dặn lại câu ấy”. 

Nói xong Ngài chắp tay mà tịch. 

b) Vị Nhị tổ của phái Vô Ngôn Thông 

Cảm Thành thiền sư: Thiền sư quê ở huyện Tiên Du (Bắc Ninh) trụ trì tại chùa Kiến Sơn (Bắc Ninh). 

Khi ngài Vô Ngôn Thông vân du qua đấy, thấy Ngài có đủ tư cách để truyền mối đạo, nên ở lại. Và ngài Cảm Thành cũng nhận thấy ở ngài Vô Ngôn Thông một vị thiền sư đắc đạo, nên tôn làm thầy, sớm tối hầu hạ không hề trễ nải. Hai thầy trò rất mến nhau, do đó ngài Vô Ngôn Thông mới đặt cho Ngài đạo hiệu là Cảm Thành.

Ngài Cảm Thành thật xứng đáng là người nối chí của ngài Vô Ngôn Thông. Một hôm có đệ tử hỏi Ngài: 

- Thế nào là Phật? 

Ngài trả lời: 

- Chỗ nào cũng là Phật cả. 

Vị đệ tử lại hỏi: 

- Thế nào là tâm của Phật? 

Ngài trả lời: 

- Không hề che đậy chỗ nào. 

Ðây cũng là một câu chuyện nhỏ, nhưng nói lên được cái lối truyền thọ tâm pháp đặc biệt, tuy giản ước mà bao hàm nhiều ý nghĩa cao thâm vô cùng. 

Ngài Cảm Thành không bệnh mà tịch, và truyền tâm pháp cho Thiện Hội thiền sư. 

c) Vị Tam tổ của phái Vô Ngôn Thông 

Ngài Thiện Hội thiền sư: Ngài Thiện Hội quê ở Siêu Loại (Bắc Ninh). Ngài là đệ tử của Cảm Thành thiền sư, hầu thầy đã hơn 10 năm, một hôm Ngài vào phòng hỏi thầy: 

- Trong kinh Phật có dạy: “Ðức Thích Ca Như Lai từng tu hành trải vô số kiếp mới thành Phật, thế mà nay thầy cứ dạy rằng “tâm tức là Phật, Phật tức là tâm” là nghĩa làm sao? Thật đệ tử không hiểu xin thầy dạy rõ cho. 

Cảm Thành thiền sư nói: 

- Ngươi nói trong kinh Phật nói thế là ai nói đó? 

- Vậy lời ấy không phải là Phật thuyết sao? 

- Lời ấy phải đâu là Phật thuyết. Kinh Văn Thù Phật có dạy: “Ta trú ở thế gian dạy chúng sanh 49 năm, chưa từng đặt ra một câu bằng văn tự để nói với ai bao giờ!”. Vì theo chánh đạo, nếu ta lấy văn tự làm bằng chứng để cầu đạo, ấy là nệ; lấy sự khổ hạnh để cầu Phật, ấy là mê; lìa tâm ra mà cầu Phật, ấy là ngoại đạo; mà cố chấp cái tâm ấy là Phật, cũng lại là ma vậy. 

- Nếu bảo tâm ấy tức là Phật, thì trong tâm ấy, cái gì là Phật, cái gì không phải Phật? 

- Ngày xưa có người hỏi Mã Tổ rằng: “Nếu bảo tâm ấy là Phật, thì trong tâm ấy cái gì là Phật?” Mã Tổ trả lời: “Thế ông ngờ trong tâm ấy, cái gì không phải là Phật, hãy chỉ vào đấy cho ta xem!”. Người ấy không chỉ được. Mã Tổ lại tiếp: “Ðạt được thì khắp mọi nơi chỗ nào cũng là Phật, mà không đạt được, thì cứ sai lầm đi mãi mãi”. Thế là chỉ vì một lời nói nó che đi, mà thành ra sai lầm đó thôi. Người ta hiểu chưa? 

Ngài Thiện Hội trả lời: 

- Nếu như vậy đệ tử hiểu rồi. 

- Người hiểu thế nào? 

- Ðệ tử hiểu rằng khắp hết mọi nơi, chỗ nào cũng là tâm Phật cả. 

Nói xong Thiện Hội thiền sư sụp xuống lạy. Ngài Cảm Thành nói: 

- Thế là người hiểu tới nơi rồi đó. 

Do sự lãnh hội mau chóng đó mà ngài Cảm Thành mới đặt cho đệ tử mình đạo hiệu Thiện Hội, nghĩa là “khéo hiểu”. 

Trên đây là một vài câu chuyện về đốn ngộ mà chúng ta thường thấy trong các vị thuộc phái Thiền tôn. 

Sự truyền pháp từ thầy đến trò trong phái Vô Ngôn Thông diễn ra như thế được 15 đời. Ðến đời cư sĩ Ứng Thuận (1221) là cuối cùng. 

3. Phái Thảo Ðường

Năm Kỷ Dậu (1069) vua Lý Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành về, có bắt được vua nước ấy là Chế Cũ và rất nhiều thường dân và binh lính. Số binh lính và thường dân này được phân phát cho các quan trong triều đình để làm quân hầu. Trong số quan triều có một vị Tăng Lục. Một hôm vị này đi vắng về thấy bản “Ngữ lục”của mình bị một tù binh sửa chữa lại cả. Hỏi ra thì mới biết đó là một vị thiền sư người Trung Hoa, theo thầy qua Chiêm Thành, chẳng may bị bắt làm tù binh. Vị thiền sư ấy chính là ngài Thảo Ðường, đệ tử của ngài Tuyết Ðậu Minh Giác ở Trung Hoa. 

Khi biết tung tích của Thảo Ðường thiền sư, vua Thánh Tôn liền sắc phong cho Ngài làm Quốc sư. Ngài Thảo Ðường lập đàn khai giảng ở chùa Khai Quốc trong thành Thăng Long. Ðệ tử đến học rất đông. Ngài Thảo Ðường lập ra thành một phái Thiền tôn thứ ba ở Việt Nam. Phái Thảo Ðường truyền xuống được năm đời, đắc đạo cả thảy được mười chín vị.  

4. Phái Trúc Lâm 

Ðệ nhất tổ của phái Trúc Lâm tức là vua Trần Nhân Tôn (1278-1308). Ngài mộ đạo khi còn nhỏ. Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái tử, Ngài cố nhường lại cho em nhưng không được, nên trèo thành trốn đi, định vào tu ở núi Yên Tử. Nhưng Ngài mới đi nửa đường thì bại lộ tung tích, bị vua cha sai quan đi bắt về. Ngài phải miễn cưỡng trở về. Sau Ngài lên làm vua, trở thành một vị anh quân và giữ vững nền độc lập của nước nhà trước sự xâm lăng ồ ạt, nhưng vô hiệu quả của quân Nguyên. Sau khi đuổi được giặc Nguyên, Ngài truyền ngôi lại cho con là Anh Tôn, và vào tu ở núi Yên Tử, thực hiện chí nguyện thuở thiếu thời của mình. Ngài lấy hiệu là “Hương Vân Ðại Ðầu Ðà” lập trường giảng pháp, môn đồ tìm đến tu học kể có hàng vạn người. Ngài thường đi khắp nơi để giảng đạo và phát thuốc. Ngài tịch một cách rất bình tĩnh vào lúc 51 tuổi. 

Trong các phái Thiền tôn ở Việt Nam, chỉ có phái Trúc Lâm là phát tích tại đất nước Việt. Trong phái này, cũng có nhiều vị thiền sư có tiếng tăm như ngài Pháp Loa tôn sư, ngài Huyền Quang tôn sư v.v... 

5. Phái Lâm Tế 

Phái Lâm Tế do ngài Nguyên Thiều khai sáng tại Trung Việt. Ngài họ Tạ, quê ở Quảng Châu (Trung Hoa). Ngài đi theo tàu buôn qua An Nam, trú ở phủ Qui Ninh (Bình Ðịnh) lập chùa Thập Tháp Di Ðà, mở trường dạy học. Sau Ngài ra Thuận Hóa lập chùa Hà Trung, rồi lên Xuân Kinh (Huế) lập chùa Quốc Ân và dựng tháp Phổ Ðồng. 

Sau một thời gian truyền đạo ở Việt Nam, Ngài phụng mệnh Anh Tôn Hiếu  nghĩa Hoàng đế, đương thời gọi là chúa Nghĩa (Nguyễn Phúc Trăn 1687-1691) trở về Trung Quốc, tìm mời danh tăng và cung thỉnh pháp tượng, pháp khí. Ngài thỉnh được Hòa thượng Thạch Liêm và các danh tăng khác trở về Việt Nam mở đàn truyền giới rất long trọng tại chùa Thiên Mụ. Sau đó, chúa Nguyễn sắc ban Ngài chức Trụ trì chùa Hà Trung. 

Năm Bảo Thái thứ 10 nhà Lê, Ngài tịch tại chùa Hà Trung, sau khi dặn dò đệ tử và truyền lại bài kệ sau đây: 

Tịch tịch, kính vô ảnh 

Minh minh, châu bất dung 

Đường đường, vật phi vật 

Liễu liễu, không vật không 

Ðại ý: Thể pháp thân thanh tịnh sáng suốt như bức gương sáng không bụi, như hạt minh châu, trong sáng bóng ngời. Tuy hiện tiền các sự vật sai khác, nhưng đều là thể pháp thân hiển hiện. Thể pháp thân thường vắng lặng, mà không phải là không, tức là lý “chân không diệu hữu”. 

Xét trong “Lịch truyền tổ đồ” thì Ngài đứng về đời 69, xét về chánh thống phái Lâm Tế thì Ngài đứng về đời 33, còn xét riêng về phái Lâm Tế ở Trung Việt, thì Ngài là Sơ tổ. 

6. Phái Liễu Quán 

Phái Liễu Quán xuất phát từ Liễu Quán Hòa thượng. Ngài Liễu Quán quê ở Phú Yên (Sông Cầu). Ngài ra Thuận Hóa thọ giới Sa di với ngài Thạch Liêm Hòa thượng. Năm 1702, Ngài đến Long Sơn cầu học pháp tham thiền với ngài Tử Dung Hòa thượng (Tổ khai sơn chùa Từ Ðàm Huế, người Trung Hoa). 

Tổ Tử-Dung dạy Ngài tham cứu câu: “Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ”, (muôn pháp về một, một về đâu?). Ngài tham cứu mấy năm, đến khi xem bộ Truyền Ðăng Lục, thấy có câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhơn bất hội xứ”, Ngài liền tỏ ngộ. Năm 1742, cuối mùa thu, Ngài thọ bịnh. Trước khi lâm chung, Ngài gọi môn đồ đến dạy rằng: “Nhơn duyên đã hết, ta sắp chết đây”. 

Thấy môn đệ khóc, Ngài dạy rằng: “Các người khóc làm gì? Các đức Phật ra đời còn nhập Niết bàn. Ta nay đi đến rõ ràng, về có chỗ. Các người không nên khóc và đừng buồn thảm”.  

Rồi Ngài viết bài kệ từ biệt sau đây: 

Nguyên văn: 

Thất thập dư niên thế giới trung 

Không không, sắc sắc diệu dung thông 

Kim triêu nguyệt mãn, hoàn gia lý 

Hà tất bôn ba vấn tổ tông. 

Dịch nghĩa: 

Ngoài bảy mươi năm trong thế giới 

Không không, sắc sắc thảy dung thông 

Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ  

Hà phải ân cần hỏi tổ tông. 

Viết xong, Ngài bảo môn đồ: 

- Sau khi ta đi, các người phải nghĩ cơn vô thường nhanh chóng, cần phải siêng năng tu học. Các người hãy cố gắng tới chớ bỏ qua lời ta. 

Ngài tịch vào ngày 22 tháng 11 năm Nhâm Tuất (1742) vào giờ Mùi, sau khi dùng nước trà xong và vui vẻ từ biệt môn đồ. 

Ðến đây chúng ta cũng nên nhận định cho rõ ràng điểm này: Như tôi nói ở đoạn trước, Thiền tôn do người Việt sáng lập chỉ có một phái độc nhất do vua Trần Nhân Tôn làm Sơ tổ là phái Trúc Lâm Yên Tử. Nhưng đến đây, chúng ta lại thấy xuất phát một phái nữa là phái Liễu Quán, do ngài Liễu Quán một danh tăng Việt Nam chủ xướng. Như vậy có mâu thuẫn với sự nhận xét ở trên không? Thật ra, so với các phái Thiền tôn khác ở Việt Nam, thì phái Liễu Quán chỉ là một phái nhỏ, chỉ nằm trong phạm vi mấy tỉnh ở miền Trung-Việt. 

Vả lại, ngài Liễu Quán cũng là đệ tử của ngài Tử Dung, một vị sư Trung Hoa thuộc phái Lâm Tế. Do đó, phái Liễu Quán, nếu chúng ta đi tìm nguồn gốc xa hơn một chút nữa, thì cũng chỉ là một chi nhánh của phái Lâm Tế mà thôi. 

CÁC KINH SÁCH NÓI VỀ THIỀN 

Kinh sách nói về Thiền không thể kể xiết được. Tuy thế, để quý độc giả khỏi bỡ ngỡ trong khi nghiên cứu, học hỏi, chúng tôi xin dẫn một số kinh sách thiết yếu sau đây: 

1. Kinh Lăng Già 

2. Kinh Lăng Nghiêm 

3. Kinh Viên Giác 

4. Kinh Pháp Bảo Ðàn 

5. Ðại thừa Chỉ quán 

6. Tiểu Chỉ quán 

7. Ðồng môn Chỉ quán 

8. Lục Diệu Pháp môn

9. Kinh Kim Cang

10. Truyền đăng lục 

11. Thiền gia ngữ lục 

12. Tọa thiền chỉ nam 

13. Tông cảnh lục (của ngài Tống Diên Thọ thiền sư) 

14. Luận Ðại thừa khởi tín (của Bồ tát Mã Minh) 

15. Vô môn quán (của Tổng Tôn Thiện thiền sư) 

16. Bích Nham Lục (của Phật quả Viên Ngộ) 

17. Thung dung lục (của Vạn tùng Lão nhơn) 

18. Thiền Lâm Vĩnh gia tập (của Huyền Giác) 

19. Thiền tôn chỉ nam (của vua Trần Thái Tôn) v.v... 

C. TỔNG KẾT CÁC LOẠI THIỀN ĐỊNH 

Thiền định có nhiều loại, nhưng tóm lại có thể chia làm hai loại lớn: Chánh định và Tà định, hay Phàm phu thiền và Thánh nhơn thiền hoặc ngoại đạo thiền và Phật giáo thiền. 

THIỀN ĐỊNH CỦA NGOẠI ÐẠO 

Những người theo lối thiền định này do tâm niệm không chơn chánh (phiền não, tham, sân, si v.v...) làm động cơ thúc đẩy. Họ không nhắm ngay mục đích dẹp trừ vô minh phiền não, cầu được minh tâm kiến-tánh, hay giác-ngộ, giải thoát, mà chỉ nhắm mục đích nhỏ hẹp, thiển cận, như cầu được thấy những điều huyền diệu, cầu được thần thông biến hóa để đi dạo chơi ở các thế giới khác, cầu thành tiên để hưởng lạc-thú tiêu dao ở cảnh tiên, cầu cho thân thể không bịnh hoạn, được trường sanh bất tử, cầu cho được phép lạ để trị bệnh, để thiên hạ sùng bái, kính phục, hoặc để gần gũi nữ sắc, hay cầu tài lợi v.v… 

Hãy lắng nghe lời tổ Tôn Mật dạy: “Người tà kiến chấp trước sai lầm, ưa cõi trên, chán cõi dưới mà tu thiền, đó là ngoại đạo thiền”. 

THIỀN ĐỊNH CỦA PHÀM PHU 

Những người tu theo loại thiền này không có tâm niệm cao thượng, chỉ vì chán ngán cõi Dục là  ô trược mà cầu sanh về cõi Sắc và Vô sắc để hưởng thú vui thanh thoát.  

Hãy lắng nghe tổ Tôn Mật phê phán hạng người tu về loại thiền này: “Người chánh tin nhơn quả, nhưng dùng sự ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu thiền là phàm phu thiền”. 

THIỀN ĐỊNH CỦA PHẬT GIÁO 

Thiền định của Phật giáo có hai loại: Tiểu thừa thiền và Ðại thừa thiền. 

- Tiểu thừa thiền: là những pháp thiền dành cho người có căn tánh Tiểu thừa. Người tu phép Thiền định này chỉ có công-dụng hạn cục, vì tu pháp nào thì chỉ trừ được phiền não của pháp ấy. Và sự tu luyện ở đây cũng chỉ tuần tự mà tiến, chứ không thể đốn-ngộ ngay được. 

Hơn nữa, người tu Tiểu thừa thiền, tuy đã phá ngã chấp, nhưng còn bị pháp chấp. Họ không ngộ được rằng: Những phương-pháp tu hành đều là phương tiện để giúp cho họ dẹp trừ vô minh phiền não, tiến lên chỗ giác ngộ, chớ không nên cố chấp có thật tu, thật chứng.

Ngài Tôn Mật định nghĩa về Tiểu thừa như sau: “Người biết rõ lý ngã không (nhưng còn chấp pháp) mà tu thiền là Tiểu thừa thiền”.

- Ðại thừa thiền: Ðây là phương pháp tu thiền của các vị Bồ tát, căn tánh mau lẹ vượt bực. Với hạng này, các vị chỉ nghe một câu nói hay tu một pháp, cũng có thể liền tỏ ngộ; như ngài Huệ Năng, chỉ nghe câu “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, hay ngài Ca Diếp, chỉ thấy Phật đưa cành hoa sen mà liền tỏ ngộ.

Sở dĩ các vị này được mau tỏ ngộ như thế là vì họ đã trải qua nhiều kiếp tu hành rồi, sắp được giác ngộ, nay gặp thời cơ, nhân duyên thì liền phát chiếu, như cành hoa đã được vun tưới đủ sức rồi, chỉ chờ thời tiết là trổ bông. 

Hãy nghe tổ Tôn Mật nói về các vị này: “Người ngộ được lý ngã, pháp đều không mà tu thiền là Ðại thừa thiền. Người đốn ngộ tự tâm xưa nay vốn thanh tịnh, không có phiền não, đầy đủ trí huệ vô lậu, tâm ấy tức là Phật, rốt ráo không khác. Y theo tâm này mà tu thiền là Tối thượng thừa thiền, cũng gọi là Chơn như tam muội”. 

Về phương pháp tu chứng và truyền thọ của Ðại thừa thiền có ba cách: 

- Cách thứ nhất: Ðây là các loại tam muội mà hành giả căn cứ theo các kinh sách Ðại thừa tu luyện, như Pháp Hoa tam muội, Niệm Phật tam muội, Giác ý tam muội, Thủ Lăng Nghiêm tam muội v.v...

- Cách thứ hai: Lối thiền này không căn cứ theo kinh điển, văn tự, mà chỉ dùng một câu nói ngắn ngủi, để chỉ giáo. Trong Phật giáo gọi lối thiền này là: “Bất luận văn tự, giáo ngoại biệt truyền” (không dùng văn tự, truyền ngoài kinh giáo). Thiền giả chỉ căn cứ theo một câu nói ấy mà nghiên cứu mãi cho đến khi tỏ ngộ. Công việc tham-cứu này, thiền giả có nhiều khi kéo dài hàng chục năm. 

- Cách thứ ba: Với cách này, chúng ta khó có thể suy nghĩ luận bàn gì được. Trong cách này, khi có người đến cầu pháp, các tổ sư không dùng lời nói mà chỉ dùng một cử chỉ gì đó, hay một tiếng la hét mà thôi. 

Như dòng Lâm Tế, khi có người đến cầu đạo, thiền sư chỉ dùng gậy đánh và tiếng hét. 

Như dòng Quy Ngưỡng, các vị tổ sư chỉ vẽ hình thú, hình người, hình chữ Vạn mà khai ngộ cho đệ tử. 

Như dòng Vân Môn, có vị tổ chỉ nói một chữ, mà làm cho người cầu đạo tỏ ngộ. 

Như có ngài chỉ đãi nước trà (ngài Triệu Châu) hay mời ăn cơm, mà người đến cầu đạo được tỏ ngộ. 

Có ngài lại ngắm bóng mình dưới nước và cười, khi đi ngang qua cầu, liền ngộ đạo (hổ khê tam tiếu chí kim truyền), hay nghe chim oanh hót trên cành liễu, hay lấy gậy đập cục đất cho bể tan mà liền tỏ ngộ. 

Thật là thiền-cơ nhiệm mầu, người ngoài không thể suy nghĩ, luận bàn được. 

Muốn cho người cầu đạo được kết quả, các vị truyền pháp phải hội đủ ba điều kiện sau đây: 

- Biết căn cơ người cầu đạo. 

- Biết thời tiết đúng lúc truyền đạo. 

- Biết phương pháp nào thích hợp, trong ba phương pháp nói trên. Nếu truyền pháp không hợp cơ, hợp thời, hợp pháp thì người tu thiền không có kết quả. 

Trước khi dừng bút, chúng tôi có một nhận xét sau đây mà chắc quý độc giả cũng đồng ý là: Nước ta ngày xưa là một nước chịu ảnh hưởng lớn của Thiền tôn, và Thiền tôn là môn phái rất thịnh hành nhất trong nước. Thế mà ngày nay, vì bao cuộc biến thiên của lịch sử, Thiền tôn không còn được truyền thọ trong các chùa cũng như trong dân chúng một cách sung mậu như xưa nữa. 

Vậy chúng tôi hy vọng rằng, từ đây về sau, nhờ sự giao thông tiện lợi từ nước này sang nước khác, nhờ sự trao đổi văn hóa, và nhờ sự gia tâm tu học của các Phật tử Việt Nam, Thiền tôn sẽ lấy lại sắc thái sung mậu ở Việt Nam như các thời Lý, Trần.


 (1) Thất tình: Mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn. 

(2) Lục dục: Những sự tình dục do lục căn sanh ra. 

(3) Bát phong: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. 

(4) Lục-trần: Sáu trần cảnh là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

(5) “Yoga và tọa thuyền” trong Đại Chúng tuần san, số 219.

(6) Nước miếng vàng: Ðối với người tu tiên, thì nước miếng rất quý, họ không bao giờ nhổ vì sợ tổn khí, và dùng nước miếng của mình để luyện thành linh dược.

(7) Ngũ A-na-hàm là năm cõi A-na-hàm:a) Vô phiền, b) Vô nhiệt, c) Thiện kiến, d) Thiện hiện, đ) Sắc cứu cánh. 

(8) Tứ thiền có chín cõi ngoài năm cõi A-na-hàm, còn có bốn cõi: Vô vân, Phước sanh, Quảng quả, Vô tưởng. 

(9) Tiểu thừa thanh văn có bốn quả thánh, A-na-hàm thuộc quả thánh thứ ba.

(Xem tiếp Bài thứ 7: MƯỜI TÔN PHÁI PHẬT GIÁO Ở TRUNG HOA TT - DUY THỨC TÔN)

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 31
    • Số lượt truy cập : 6717184