PHPT2 K.V - Bài thứ 7: MƯỜI TÔN PHÁI PHẬT GIÁO Ở TRUNG HOA (TT) - MẬT TÔN
PHẬT HỌC PHỔ THÔNG QUYỂN 2
Sa môn THÍCH THIỆN HOA
KHÓA V: LỊCH SỬ TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO,
10 TÔN PHÁI VÀ VŨ TRỤ NHƠN SINH
Bài thứ 7: MƯỜI TÔN PHÁI PHẬT GIÁO Ở TRUNG HOA (TIẾP THEO)
MẬT TÔN
I. DUYÊN KHỞI LẬP TÔN
Tôn này thuộc về Ðại thừa, thờ đức Ðại Nhựt Như Lai (Tỳ Lô Giá Na) làm giáo chủ. Ngài Kim Cang Bồ tát đích thân chịu làm lễ Quán đảnh, kế thừa pháp mầu nhiệm của đức Ðại Nhựt Như Lai, vì thế cho nên tôn này gọi là Mật tôn hay Chơn ngôn tôn (lời dạy chơn thật mầu nhiệm, bí mật).
Ngài Kim Cang Bồ tát truyền cho ngài Long Thọ; ngài Long Thọ truyền lại cho ngài Long Trí; ngài Long Trí truyền cho ngài Thiện Vô Úy Tam tạng và ngài Kim Cang Trí Tam tạng.
Vào đầu đời Ðường, hai ngài Vô Úy và Kim Cang sang Trung Hoa, rộng truyền bí pháp Mật tôn.
Ngài Vô Úy truyền cho ngài Nhất Hạnh Thiền sư. Ngài Nhất Hạnh Thiền sư sớ thích kinh Ðại Nhật, làm cho giáo nghĩa của Mật tôn được rõ rệt ở Trung Hoa. Còn Ngài Kim Cang Trí thì truyền giáo pháp cho ngài Bất Không Tam tạng. Ngài sau này truyền cho ngài Huệ Quả Hòa thượng. Ngài Huệ Quả truyền cho ngài Không Hải là một đại sư người Nhật. Ngài Không Hải về sau trở thành vị tổ Mật tôn ở Nhật.
Mật tôn có nhiều phái: a) Mật tôn ở Trung Hoa; b) Mật tôn ở Nhật thường gọi là Ðông mật; c) Mật tôn ở Tây tạng tức là Lạt ma giáo, hay là Tạng mật.
Kinh điển của Mật tôn
Tôn này nương vào hai bộ kinh lớn làm cội gốc là bộ kinh Đại Nhật và kinh Kim Cang Ðảnh. Nếu kể thêm ba bộ kinh: Tô Tất Địa, Du Ký và Yếu lược niêm tụng, thì thành ra năm bộ kinh về Mật tôn.
Ðức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào? Như chúng ta đã thấy ở đoạn đầu, tôn này thờ đức Ðại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) làm giáo chủ và ngài Kim Cang Bồ Tát (tức Ngài Kim Cang Tát Ðỏa) bằng phương pháp quán đảnh, đã nhận lãnh pháp mầu nhiệm của đức Ðại Nhựt Như Lai để truyền thừa tôn này.
Nhưng Ðức Ðại Nhựt Như Lai, hay Tỳ Lô Giá Na là thế nào?
- Như chúng ta thường nghe nói Phật có 3 thân là: Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.
1. Pháp thân, hay Tự tánh thân, là pháp giới chơn tịnh của các đức Như Lai, làm sở y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân; Pháp thân cũng tức là thể tánh thanh tịnh có đầy đủ công đức, thật tánh bình đẳng của hết thảy các pháp.
2. Báo thân, hay Thọ dụng thân, là thân của các Như Lai do thành tựu công đức tu hành trải qua ba đại kiếp mà được.
3. Ứng thân, hay Biến hóa thân, là thân chư Phật do trí thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ của chúng sanh mà hóa độ. Như đức Phật Thích Ca là ứng thân của Phật trong cõi Ta-bà này. Vậy Đại Nhựt Như Lai hay Tỳ Lô Giá Na, không phải là đức Phật Thích Ca như một số người lầm tưởng, mà chính là Pháp thân Phật.
Theo các tôn phái khác thì Pháp thân không có hình tướng, không thuyết pháp, chỉ Báo thân và Ứng thân, như đức Phật Thích Ca mới có hình tướng và nói pháp.
Theo Mật tôn thì có chia ra làm hai loại giáo pháp: Hiển giáo và Mật giáo.
Những lời dạy của Ứng thân Phật, như đức Phật Thích Ca thì tủy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà chỉ dạy, tức là những pháp môn quyền thiệt hay là Hiển giáo.
Còn Mật giáo là những pháp môn mầu nhiệm, bí mật mà chỉ những vị Đại Bồ tát, nhờ trí huệ sáng suốt, mới cảm thông, thọ lãnh được của Pháp thân Phật, như ngài Bồ tát Kim Cang Tát Đỏa, nhờ quán đảnh mà thừa tiếp pháp mầu nhiệm của đức Ðại Nhựt Như Lai, hay Tỳ Lô Giá Na.
Tóm lại, Mật tôn thuộc về Mật giáo. Vị giáo chủ bí mật là đức Ðại Nhựt Như Lai, hay Pháp thân Phật. Còn vị Sơ tổ của tôn này chính là ngài Bồ tát Kim Cang Tát Đỏa, là vị Bồ tát đã chép lại kinh Ðại Nhựt và kinh Kim Cang Ðảnh.
II. TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN
1. Lục đại: Mật tôn chủ trương Lục đại là chơn thật thể của vũ trụ. Lục đại là: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại và thức đại. Lục đại là bản nguyên của các tánh năng sanh (sanh ra), năng lưu (lưu xuất ra).
Trong lục đại thì năm đại trước thuộc về vật, đại cuối cùng (thức đại) thuộc về tâm. Sáu đại này mỗi mỗi đều dung thông, không ngăn ngại, thâu nhiếp lẫn nhau, làm nhân làm duyên cho nhau mà sanh ra các pháp.
Lục đại bao hàm 3 phương diện:
- Thể đại, tức là bản thể chung cùng của vũ trụ;
- Tướng đại, tức là hình tướng của sự vật và chúng sanh;
- Dụng đại, tức là ngôn ngữ, động tác, công dụng của mỗi sự vật.
Vũ trụ vạn hữu không có cái gì ra ngoài Thể đại, Tướng đại, Dụng đại.
Thể, Tướng, Dụng là chúng ta dùng trí lực chia chẻ ra như thế để dễ quán sát; chứ thực ra ba phương diện ấy không thể rời nhau, không thể tồn tại riêng rẽ được. Ngoài Thể đại, thì Tướng đại và Dụng đại cũng không thể có được; ngoài Tướng đại thì Thể đại và Dụng đại cũng không thể có được. Vì vậy xét một phương diện thì rõ được cả ba.
Như chúng ta đã thấy ở đoạn trên: Sáu đại dung thông, thâu nhiếp lẫn nhau, và ba phương diện: Thể, Tướng, Dụng cũng không thể rời nhau, nên vũ trụ vạn hữu, mặc dù muôn hình vạn trạng, rộng lớn vô biên, vẫn có cái lý dung thông vô ngại, châu biến khắp tất cả. Cái đó gọi là lý tánh hay chơn như. Lý tánh hay chơn như là nồng cốt của sự tướng, nhưng nếu không có sự tướng, thì chơn như hay lý tánh cũng không thể biểu dương được. Lý tánh và sự tướng là hai khía cạnh tịnh và động của nhất như. Nói tóm lại, có lý tức có sự, có sự tức có lý.
Lý tánh của vũ trụ vạn hữu cũng tức là Phật tánh. Như vậy, Phật tánh đều sẵn có trong mọi chúng sanh, trong mọi hình thức.
Muốn chứng ngộ Phật tánh, muốn thể nhập chơn như, trước tiên phải quán sát sự tướng. Sự tướng có thể gồm trong bốn loại sau đây, tức là bốn Mạn trà la.
2. Bốn Mạn trà la: Mạn trà la nghĩa là tròn trịa đầy đủ, rộng lớn không lường. Bốn pháp Mạn trà la, hay gọi tứ Mạn tưởng đại, là bốn tướng rộng lớn, đầy đủ của bản thể do sáu đại mà biến hiện ra. Bốn pháp Mạn trà la là:
a) Đại Mạn trà la: Nghĩa rộng là thân của các loài hữu tình trong mười pháp giới, là sắc tướng của muôn pháp trong vũ trụ, y theo lục đại mà hiện. Nghĩa hẹp là chỉ cái sắc tướng trang nghiêm của Phật, Bồ tát được thể hiện trong các pho tượng chạm trổ, tô vẽ, v.v...
b) Tam muội gia Mạn trà la: Nghĩa rộng là hết thảy các cơ khí trong vũ trụ, những vật dụng thường ngày của chúng sanh, hay rộng hơn nữa là cái đặc tánh riêng biệt của mỗi pháp, núi, sông, cây cỏ, v.v... Nghĩa hẹp là chỉ những vật mà Phật và Bồ tát thường cầm như hoa sen, ngọc bửu châu, cành dương liễu, v.v… để tiêu biểu cho lời thề nguyện hay cái đặc tánh thù thắng riêng của quý Ngài trong việc cứu độ chúng sanh.
c) Pháp Mạn trà la: Nghĩa rộng là hết thảy âm thanh, lời nói, hình ảnh, tên gọi, ký hiệu trong vũ trụ. Nghĩa hẹp là chỉ cho những chủng tử hay chơn ngôn của các đức Phật hay Bồ tát. Chủng tử ở đây tức là chữ Cái, chữ tiêu biểu cho bản thể của Phật và Bồ tát, như chủng tử của đức Ðại Nhựt Như Lai là chữ __ (đọc là A), chủng tử của Ngài Kim Cang Tát Đỏa là chữ __ (đọc là Hùm). Còn chơn ngôn tức là Mật chú, và danh hiệu của Phật, Bồ tát cùng tất cả văn nghĩa trong các kinh điển.
d) Yết ma Mạn trà la: Yết ma là cử động làm các sự nghiệp. Vậy nghĩa rộng của Yết ma Mạn trà la là chỉ cho hết thảy động tác của chúng sanh và muôn vật. Nghĩa hẹp là chỉ cho hết thảy oai nghi động tác của chư Phật và Bồ tát để làm các sự nghiệp độ sanh.
Bốn Mạn trà la này đồng thời tồn tại, đã có một Mạn trà la, tức phải có ba Mạn trà la kia. Bốn mạn này Phật, Bồ tát và chúng sanh đều có. Bốn mạn của Phật không lìa bốn mạn của chúng sanh; bốn mạn của chúng sanh không lìa bốn mạn của Phật. Vì thế, kinh thường gọi là bốn mạn không lìa nhau.
III. PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH
Cũng như các tôn phái khác trong Phật giáo, sự tu hành của Mật tôn gồm có hai phương diện: Sự và Lý, hay nói theo danh từ của Mật tôn là Giáo tướng và Sự tướng.
“Sự tướng” là tất cả những thực hành như tụng chú, kết ấn, cúng dường, lập đàn, v.v... Tất cả những thực hành ấy phải theo đúng khuôn phép nhất định, chứ không thể dùng ý riêng mà làm càn được.
“Giáo tướng” là tất cả những nghĩa lý sâu xa mầu nhiệm mà chư Phật và Bồ tát đã rút ra trong sự tướng để chỉ dạy chúng ta.
Người tu hành phải học tập và thực hành cả hai phương diện ấy, không được thiên bỏ bên nào. Không học giáo tướng thời không lãnh hội được ý nghĩa của sự tướng để làm cho đúng. Không học sự tướng thì hết thảy đều là nói suông. Giáo tướng thì có thể nương theo kinh điển mà học hỏi; còn sự tướng thì phải có các bậc A xà lê, tức các vị truyền đạo của Mật tôn, truyền cho mới biết được.
Ngoài sự tu hành thường ngày, phương pháp tu hành trọng yếu của Mật tôn là Tam mật.
Tam mật là phương pháp tu hành mầu nhiệm dựa trên thân, ngữ, ý. Tam mật gồm có: Thân mật, ngữ mật (khẩu mật) và ý mật.
Như trên đã nói , chúng sanh và đức Như Lai đều do sáu đại làm thể, bốn pháp Mạn trà la làm tướng, không sai khác. Vậy Như Lai và chúng sanh thì thể tướng mật. Như đức Ðại Nhựt Như Lai đều có Tam pháp giới là thân mật, hết thảy tiếng tăm là ngữ mật, cái thức lớn bao khắp tất cả là ý mật. Còn chúng sanh, thì tay bắt ấn là thân mật, miệng niệm chơn ngôn là ngữ mật, tâm chuyên vào tam ma địa (thiền định) là ý mật.
Nhưng Phật và chúng sanh khác nhau ở tịnh và nhiễm, ngộ và mê, giải thoát và ràng buộc. Vậy chúng sanh muốn được như Phật, phải tu hành theo phép Tam mật. Nhờ tay bắt ấn mà tịnh được thân nghiệp, miệng niệm chơn ngôn mà tịnh được khẩu nghiệp, trí quán tưởng đức Ðại Nhựt Như Lai mà dẹp được vọng tưởng, ý nghiệp được thanh tịnh. Sự tu hành Tam mật có thể chia làm hai giai đoạn lớn.
Giai đoạn đầu gọi là Tam mật gia trì. Trong giai đoạn này, sau khi hành giả đã làm chủ được thân, ngữ, ý rồi thì tâm thủy (tâm vắng lặng như nước đứng yên) của mình được ánh sáng mầu nhiệm của Ðại Nhựt Như Lai chói rọi vào, tức là “Gia”; và tâm thủy mình cùng cảm chịu, thu nhận được ánh sáng mầu nhiệm ấy tức là “Trì”. Một bên thì “Gia”, một bên thì ‟Trì”, hai bên thừa tiếp nhau nên gọi là Tam mật gia trì.
Giai đoạn thứ hai gọi là Tam mật du già. Khi giai đoạn Tam mật gia trì đã thuần thục, thì ánh sáng của đức Ðại Nhựt Như Lai là ánh sáng trong tâm thủy của hành giả hiệp nhau (du già) không sai không khác, thì gọi là “Tam mậu du già”. Ðến đây tức là công phu tu hành hữu tướng Tam mật đã thành tựu.
IV. QUẢ VỊ TU CHỨNG
Hành giả sáu khi đã thành tựu Tam mật hữu tướng, thông suốt được ý nghĩa mầu nhiệm của bốn Mạn trà la, thì nhất cử, nhất động đều khuôn rập đúng theo oai nghi của Phật, làm lợi lạc cho chúng sanh một cách tự nhiên, có làm tất cả mọi việc lợi ích mà như không làm. Ðó tức là vô tướng tam mật.
Ðến độ vô tướng tam mật thì mọi hành vi cử động đều toàn là ấn cả, hết thảy lời nói đều là chú và chơn ngôn, hết thảy ý nghĩ đều là diệu quán cả. Do đó mà trong kinh có câu nói sau đây để hình dung hạng người đã chứng được vô tướng tam mật: “mở miệng ra tiếng, chơn ngôn diệt tội; giơ tay động chân, đều thành mật ấn; theo việc khởi niệm, diệu quán tự thành”.
Ðó cũng là ý nghĩa của bốn chữ ‟tức thân thành Phật”; nghĩa là hiện đời thành Phật.
V. KẾT LUẬN
Sự lợi ích tu về Mật tôn, đến khi kết quả cùng tột cũng đồng một mục đích như các pháp môn khác; nghĩa là ba nghiệp thanh tịnh. Thân ngồi trì chú, tay bắt ấn, nên thân không làm các điều tội ác, vì thế mà thân nghiềp được thanh tịnh (thân mật). Miệng đọc thần chú, nên miệng không nói những điều tội lỗi, vì thế mà khẩu nghiệp được thanh tịnh (ngữ mật). Tâm tưởng chú hoặc quán tưởng những chữ thần chú, nên tâm không nghĩ tưởng các điều tội lỗi, vì thế nên ý nghiệp được thanh tịnh (ý mật) Kinh chép: “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”. Nghĩa là: Nếu ai ba nghiệp thường thanh tịnh thì được về Tây phương đồng ở với Phật.
Trì chú có rất nhiều lợi ích, như trì chú Vãng Sanh sẽ được nhổ sạch hết gốc rễ của nghiệp chướng và được sanh về Tịnh độ (bạt nhứt thế nghiệp chướng căn bản, đắc sanh Tịnh độ đà la ni); trì chú Lăng Nghiêm sẽ được tiêu trừ các oan gia nghiệp chướng và tình ái dục nặng nề từ nhiều kiếp trước, như ông A-Nan và bà Ma-Ðăng-Già (xin quý vị xem quyển Ðại cương Lăng Nghiêm về đoạn nói lợi ích trì chú Lăng Nghiêm); trì chú Phổ Am sẽ tiêu trừ được phục thi cốt khí các yêu tinh quỷ quái trong gia trạch; trì Ngũ Bộ chú hay Ðại Bi Thập chú sẽ được phước huệ tăng long, tùy tâm hành giả cầu như thế nào, sẽ được mãn nguyện như thế ấy.
(Xem tiếp Bài thứ 7: MƯỜI TÔN PHÁI PHẬT GIÁO Ở TRUNG HOA TT - PHÁP HOA TÔN)
Bình luận bài viết