Học

PHPT2 K.VIII - Bài thứ 1: CHƯƠNG VĂN THÙ

PHẬT HỌC PHỔ THÔNG QUYỂN 2

Khóa VIII: KINH VIÊN GIÁC

(PHIÊN DỊCH VÀ LƯỢC GIẢI)

* Ngài PHẬT ĐÀ ĐA LA dịch chữ Phạn ra chữ Hán

* Tu sĩ THÍCH THIỆN HOA dịch chữ Hán ra chữ Việt

A. PHẦN TỰ

Chính tôi được nghe như vầy: Một hôm, Phật nhập Chánh định (Chơn tâm) là nơi an trụ của chư Phật, cũng là chỗ thanh tịnh sáng suốt của chúng sanh.

Phật tùy thuận cảnh giới bất nhị (không hai) là chỗ thể tánh bình đẳng của chúng sanh và chư Phật. Thể tánh này thanh tịnh viên mãn khắp giáp cả

mười phương, tâm và cảnh đều vắng lặng (ngã pháp đều không).

Từ cảnh giới “bất nhị” này mà hiện ra có các cõi Tịnh độ và mười vạn vị Đại Bồ tát, như ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, ngài Phổ Hiền Bồ tát, ngài Di Lặc Bồ tát, ngài Phổ Nhãn Bồ tát, ngài Kim Cang Tạng Bồ tát, ngài Di Lặc Bồ tát, ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát, ngài Uy Đức Tự Tại Bồ tát, ngài Diệu Âm Bồ tát, ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ tát, ngài Phổ Giác Bồ tát, ngài Viên Giác Bồ tát, ngài Hiền Thiện Thủ Bồ tát v.v... Những vị Bồ tát này, đều được bực Thượng thủ trong chúng hội, cùng với quyến thuộc đều nhập chánh định, dồng ở trong Pháp hội thanh tịnh bình đẳng của Như Lai (ở trong Viên giác).

LƯỢC GIẢI

“Viên giác” tức là chỉ cho “Bản tâm thanh tịnh”. Vậy muốn nói và nghe cảnh giới thanh tịnh, cố nhiên không thể ở nơi cảnh vọng tâm mà nói và nghe được, nên Phật nhập Chánh định để nói kinh Viên Giác, thì các Bồ tát cũng nhập Chánh định, mới nghe và hiểu được Kinh Viên Giác. Các Phật tử đọc Kinh này, trước phải định tâm chuyên chú mới hiểu được.

Đại ý đoạn này là Phật và Bồ tát nhập Chánh định để nói và nghe kinh Viên Giác.

***

B. PHẦN CHÁNH TÔN

Bài thứ 1: CHƯƠNG VĂN THÙ

1. NGÀI VĂN THÙ HỎI PHẬT

Khi ấy Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi chắp tay đảnh lễ và quỳ thẳng bạch rằng:

- Bạch đức Ðại bi Thế Tôn, xin Ngài vì thính chúng trong pháp-hội hiện tại nầy và các chúng sanh cầu Ðại thừa đời sau, từ bi chỉ dạy:

1. Nói lại nhơn địa tu hành thanh tịnh của Như Lai;

2. Các vị Bồ tát đối với Ðại thừa, đã phát tâm thanh tịnh (Bồ đề) rồi, làm sao xa lìa được các bịnh (trừ vọng); khiến cho các chúng sanh khỏi đọa vào đường tà (tà kiến).

Ngài Văn Thù Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính lạy rồi trở lui, cùng với đại chúng ngồi yên lặng, để chờ nghe lời Phật chỉ giáo.

LƯỢC GIẢI 
Ðại ý đoạn nầy là ngài Văn Thù hỏi Phật hai điều:

1. Phật đã tu hành như thế nào mà được thành Phật?

2. Các vị Bồ tát, khi đã phát tâm Bồ đề rồi, làm sao cho các vọng đừng sanh?

Câu hỏi thứ nhất giống như câu hỏi trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan hỏi Phật: “... Xin Phật chỉ dạy cho con phương pháp nào mà tất cả các đức Phật tu hành đều được thành đạo chứng quả ...”.

Câu hỏi thứ hai, giống như câu hỏi trong kinh Kim-Cang, ngài Tu Bồ Ðề hỏi Phật: “... Làm sao an trụ Chơn tâm và làm sao hàng phục được Vọng tâm...” (Vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm).

2. PHẬT KHEN NGÀI VĂN THÙ

Khi ấy đức Thế Tôn kêu ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát mà dạy rằng:

- Nầy Thiện nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và tất cả chúng sanh đời sau cầu pháp Ðại thừa mà thưa hỏi:

1. Nhơn địa tu hành của Như Lai;

2. Khi đã phát tâm thanh tịnh rồi, làm sao xa lìa các bịnh, để khỏi đọa vào tà kiến. Vậy ông hãy chăm chú nghe, tôi sẽ vì các ông chỉ giáo.

Khi đó Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát và đại chúng đều hoan hỷ, vừa kính cẩn và vừa chăm chú chờ nghe lời Phật dạy bảo. 

LƯỢC GIẢI

Phật trước khen ngợi, rồi sau dặn dò phải chăm chú nghe, là vì “Viên Giác” là cảnh giới thanh tịnh, phải định tâm chú thần mà nghe, không thể dùng tâm sanh diệt, ý nghĩ xằng xiêng mà nghe hiểu được.

3. PHẬT TRẢ LỜI CHO NGÀI VĂN THÙ

- Này Thiện nam, Như Lai có pháp “Ðại Ðà-la-ni” (1) tên là “Viên Giác”. Từ tánh “Viên Giác” nầy mà sanh ra tất cả các pháp thanh tịnh: Chơn như, Bồ đề (Trí giác)  Niết bàn (Viên tịch)  và Ba la mật (Ðáo bỉ ngạn), nay ta sẽ dạy trao cho các ông.

Nầy Văn Thù, nhơn địa tu hành của các đức Phật, đều y “Viên Giác” nầy mà vĩnh viễn đoạn trừ vô minh, được sáng suốt thanh tịnh viên mãn, nên mới được thành Phật. Vậy “Vô minh” là gì?

LƯỢC GIẢI

Ngài Văn Thù hỏi nguyên nhơn tu hành của các đức Phật thế nào? Ðến đây Phật mới trả lời: Tất cả chư Phật đều y “Viên Giác” để chiếu phá vô minh mà được thành Phật. Nào là: Chơn như, Bồ đề, Niết bàn và Bát nhã Ba la mật đa v.v... cũng đều từ “Viên Giác” nầy mà lưu xuất.

Vậy muốn ngộ được “Viên Giác” trước phải hiểu rõ Vô minh và diệt trừ Vô minh là điều cần nhứt.

4. PHẬT CHỈ “VÔ MINH”

- Nầy Thiện nam, tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, bị nhiều món điên đảo làm mê mờ tánh “Viên Giác”, như người lạc đường, lầm lộn bốn phương. Ðiên đảo vọng hiện ra thân và tâm, rồi lầm nhận thân tứ đại giả hợp nầy làm thân mình, chấp cái vọng niệm sanh diệt duyên theo bóng dáng của sáu trần cho là thật tâm mình. Như người nhặm con mắt, thấy trong hư không có các hoa đốm, hoặc mặt trăng thứ hai. Thật ra trong hư không chẳng có hoa đốm hay mặt trăng thứ hai, nhưng vì người nhặm con mắt vọng chấp. Bởi vọng chấp, nên chẳng những không biết được hư không, mà lại thêm mê lầm: chấp thật có hoa đốm sanh. Vì mê lầm mà có sanh tử luân hồi, nên gọi là “Vô minh”.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn nầy Phật chỉ rõ cái “Vô minh”. Vô minh là những cái vọng tưởng điên đảo che mờ tánh “Viên Giác” (bản tâm thanh tịnh).

Bởi Vô minh vọng hiện ra có thân có cảnh rồi chúng sanh trở lại chấp thật ngã thật pháp, tạo ra vô số nghiệp, mê mờ chồng chập, che đậy tánh Viên Giác! Vì thế mà nhiều kiếp sanh tử luân hồi, trầm luân trong biển khổ. 

Cũng như người bị buồn ngủ (dụ cho Vô minh) nổi lên, làm cho mê mờ tánh tỉnh táo (dụ cho Viên Giác); nhơn đó hiện ra cảnh chiêm bao đủ cả người và vật (hiện thế giới và chúng sanh), rồi cũng khóc cũng cười, cũng mừng cũng giận, mỗi mỗi đều cho là thiệt cả, nên luyến ái triền miên, từ giấc chiêm bao nầy tiếp tục qua giấc chiêm bao khác, không biết chừng nào thức tỉnh.

Ðây là dụ cho Vô minh chồng chập che mờ tánh “Viên Giác” (Chơn tâm).

5. PHẬT DẠY “VÔ MINH” KHÔNG CÓ THẬT THỂ

- Nầy Thiện nam! Cái “Vô minh” này không có thật thể (thật vật). Như người ngủ chiêm bao, thấy các cảnh vật, đến khi thức rồi, thì cảnh vật kia không còn; và như người hết nhặm, thì các hoa đốm trong hư không tự tiêu-diệt. Lúc bấy giờ không thể nói “thật có chỗ hoa diệt”, vì không thật có chỗ hoa sanh vậy.

Tất cả chúng sanh ở trong cái “không sanh diệt” (tánh Viên Giác) mà vọng thấy có sanh diệt, cho nên mới bị trầm luân trong biển sanh tử luân hồi.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này Phật dạy: Tất cả chúng sanh vẫn ở trong bản tánh Viên Giác thanh tịnh không sanh không diệt, mà tự mình mê mờ (Vô minh) vọng thấy có sanh diệt, nên vĩnh kiếp triền miên, luống chịu trôi lăn trong biển sanh tử luân hồi, thật đáng buồn thương!

Nhưng “Vô minh” là hư-vọng, không có thật thể, cho nên khi giác ngộ rồi, thì nó tự hết. Cũng như cái “Tối”, vì nó không có thật thể, nên khi “Sáng” đến, thì “Tối” tự mất. Nếu Vô minh là vật có thật, như núi, như sông v.v... thì không dễ gì làm tiêu nó được.

Phật lại tỷ-dụ: Vô minh như chiêm bao, không phải thật vật, nên khi thức rồi thì cảnh chiêm bao tự mất. Vô minh như mắt người bị nhặm, thấy hoa đốm lăng xăng giữa hư không, khi hết nhặm rồi, thì hoa đốm liền tiêu.

6. PHẬT DẠY TU THEO “VIÊN GIÁC”

- Nầy Thiện nam, nhơn địa tu hành của Như Lai là tu theo Viên Giác. Nghĩa là: biết các pháp đều hư huyễn, như hoa đốm giữa hư không, thì không còn sanh tử luân hồi và cũng không có người chịu sanh tử luân hồi. 

Không phải phá hoại, làm cho các pháp mất đi mà kêu là không, chính bản tính của các pháp nó tự không. Cái “biết (năng biết) các pháp không” đó, cũng như hư không. “Cái biết như hư không”, cũng không luôn. Nhưng không thể nói: “không có cái biết”. Phải dứt trừ hết cả “có” và “không”, như thế mới gọi là “tùy thuận tánh Viên Giác” (tu Viên Giác). 

LƯỢC GIẢI

Ðoạn nầy Phật dạy tu theo “Viên Giác”, có 5 từng bực: 

1. Từng bực thứ nhất, là quán các pháp đều hư huyễn, như hoa đốm giữa hư không, nên không sanh tâm tham, sân, si. Ba độc không sanh, thì ba nghiệp thân, khẩu, ý chẳng tạo nghiệp. Vì không tạo nghiệp, nên không có cảnh luân hồi và người bị luân hồi.

2. Trên nói “cảnh bị biết” không, nói đến từng thứ hai là “cái tâm hay biết” cũng như hư không.

3. Ðến từng thứ ba, là cái biết “cái tâm hay biết cũng như hư không” cũng không luôn.

4. Sợ người lầm chấp cảnh giới nầy không có cái biết, nên đến từng thứ tư, Phật dạy tiếp: “không phải là không có cái biết”.

5. Ðến từng thứ năm, Phật dạy phải rời các vọng chấp “có” và “không”, mới nhập được tánh Viên Giác.

7. PHẬT VÀ BỒ TÁT ĐỀU TU THEO “VIÊN GIÁC”

Tại sao thế? Vì trong Như Lai Tạng (Viên Giác) không có sanh diệt, không có thấy biết, như hư không thường còn, chẳng lay động, như tánh của pháp giới viên mãn khắp giáp cả mười phương.

Ðây gọi là chỗ nhơn địa tu hành của Như Lai, các vị Bồ tát cũng nhơn nơi đây mà phát tâm thanh tịnh tu theo Ðại thừa. Chúng sanh đời sau cũng phải y theo đây tu hành, mới khỏi đọa vào tà kiến. 

LƯỢC GIẢI

Như Lai Tạng là tánh Như Lai hàm chứa tất cả các pháp; cũng gọi là “Viên Giác”, cũng kêu là “Pháp giới tánh” (bản tánh của các pháp). Nó viên mãn khắp giáp cả mười phương, không có sanh diệt và cũng không tri kiến, như hư không thường còn chẳng lay động.

Phật dạy: Ðây là chỗ tu hành của Như Lai. Các vị Bồ tát cũng nhơn nơi đây phát tâm thanh tịnh tu Ðại thừa. Chúng sanh đời sau cũng phải y nơi đây tu hành mới khỏi lạc vào tà-đạo.

Ngài Văn Thù hỏi 2 câu:

1. Nhơn địa tu hành của Như Lai.

2. Các vị Bồ tát phát tâm Bồ đề tu theo Ðại thừa, làm sao phá trừ được các vọng? Ðến đây Phật đã dạy xong.

8. PHẬT NÓI BÀI KỆ TÓM LẠI CÁC NGHĨA TRÊN

Khi đó Ðức Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng:

Văn Thù! Ông phải biết:

Chỗ chơn địa tu hành

Của các đức Như Lai

Là dùng trí Viên Giác

Phá trừ hết Vô minh:

Biết các pháp hư huyễn

Thì khỏi bị luân hồi.

Cũng như người chiêm bao,

Thức rồi cảnh mộng hết.

Cái biết cũng không còn

Sáng suốt khắp mười phương (Viên Giác),

Bình đẳng không chuyển động,

Tức thì thành Phật đạo.

Các huyễn diệt hết rồi, 

Thành đạo cũng không thành:

Xưa nay tánh viên mãn.

Bồ tát y nơi đây, 

Phát tâm đại Bồ đề,

Các chúng sanh đời sau,

Tu đây mới khỏi đọa. 

LƯỢC GIẢI

Ðại ý bài kệ nầy: Các Ðức Phật dùng trí Viên Giác phá trừ Vô minh. Nghĩa là: biết muôn vật đều hư huyễn, như hoa đốm giữa hư không, không sanh tâm nhiễm trước, nên khỏi bị luân hồi.

Người được giác ngộ rồi cũng như người thức giấc chiêm bao: các cảnh vật đều không còn - Cảnh “bị biết” đã không, nên “cái biết” (năng biết) cũng không. Vì năng và sở đều không nên tánh Viên Giác mới hiện ra sáng suốt chiếu khắp cả mười phương, bình đẳng không chuyển động, như thế là “thành Phật”.

Nói “thành Phật” là tạm nói mà thôi, thật ra cũng không “thành”. Vì tánh “Viên Giác” của mỗi người đều sẵn có, chỉ trừ hết “Vô minh” rồi thì “Viên Giác” tự hiện ra, chớ có gì đâu mà gọi là “thành”.

Cũng như người có sẵn hòn ngọc trong túi, chẳng qua vì quên, nên in như mất. Ðếu khi nhớ lại thì ngọc vẫn ở sẵn trong túi áo, chớ đâu phải mới “đặng”. Bởi thế nên nói “thành đạo cũng không thành”.

Phật y theo Viên Giác nầy mà tu, Bồ tát cũng y theo Viên Giác nầy mà phát tâm Bồ đề, cho đến chúng sanh đời sau cũng phải y theo Viên Giác nầy tu hành mới khỏi lạc vào tà-đạo.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 36
    • Số lượt truy cập : 6717215