ẢNH HƯỞNG CỦA PHONG TRÀO PHẬT GIÁO
ĐẾN CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ MIỀN NAM (1963)
NGUYỄN VĂN BẮC
Trường Đại học KHXH&NV HN – ĐHQG HN
Lấy học thuyết nhân vị làm nền tảng tư tưởng, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thành lập Đảng Cần lao Nhân vị rồi đổi tên thành Đảng “Cần lao Thiên Chúa giáo” (1957). Công giáo là nòng cốt đào đạo hệ tư tưởng cho cán bộ, chuẩn mực để định vị chính sách nhân sự. “Cần lao là con đường duy nhất đưa người Công giáo, và chỉ người Công giáo mà thôi vào chính quyền”(1). Do đó, chính quyền Ngô Đình Diệm đã có những chính sách ưu ái đối với Công giáo và ngược lại, cũng có những chính sách bài trừ, bôi nhọ tôn giáo khác (Phật giáo), lôi kéo, ép buộc những tín đồ ngoài Công giáo cải đạo sang Công giáo. Chính điều này đã dấy lên tinh thần đấu tranh Phật giáo đòi tự do tôn giáo, đòi những yêu sách chính đáng.
Phong trào Phật giáo miền Nam (1963) đã để lại một dấu ấn đậm nét trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc cả nhân dân miền Nam. Đây là sự kiện lịch sử quan trọng góp phần vào thay đổi cục diện chính trị ở miền Nam, đánh đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm vào ngày 1/11/1963.
Bài viết sẽ cố gắng trình bày vài ảnh hưởng phong trào Phật giáo đến cục diện chính trị miền Nam (1963) dưới nhãn quan chính trị học.
1. VÀI NÉT VỀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO VÀ THÁI ĐỘ CỦA CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO
Chính quyền Ngô Đình Diệm dựa trên hệ tư tưởng chủ nghĩa nhân vị (Personalism) mà Ngô Đình Nhu là người chủ xướng. Ngô Đình Nhu cho rằng: “Trong xã hội hậu tiến như Việt Nam nhiều cơ cấu nội bộ không thích hợp với chế độ kinh tế lấy nhân vị làm căn bản. Người ta sẽ phí công nếu chỉ bằng lòng tô sửa lại những đường nứt nẻ ở một tòa nhà lung lay sắp đổ nát. Nếu là cần, chúng ta phải mạnh dạn đập tan nhưng cơ cấu lỗi thời ấy đi để đặt nền tảng cho những công cuộc xây dựng mới lấy sự giải phóng nhân vị làm tiêu chuẩn. Làm như thế chúng ta sẽ tránh khỏi sự cám dỗ của chủ nghĩa Mác – xít là thuyết chủ trương quyền tối thượng của kinh tế trên nhân vị”(2).
Một chính quyền dựa trên lý thuyết là chủ nghĩa dân vị và nó được cụ thể hóa trong những chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật cao nhất của nhà nước. Điều đó được khẳng định rõ nét trong Hiến pháp của nền đệ nhất Cộng hòa Việt Nam (1956): “Xây dựng dân chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cho toàn dân trong sự tôn trọng nhân vị”(3). Đây được xem là kim chỉ nam cho mọi chủ trương, chính sách, hoạt động trong tất cả các lĩnh vực quốc gia của chính quyền Ngô Đình Diệm. Hầu hết các chương trình giảng dạy, tuyên truyền, huấn luyện được các Linh mục hoặc tín đồ công giáo trực tiếp đảm nhiệm dưới sự quản lý của Ngô Đình Nhu. Đến đây, chúng ta đã thấy hiện ra một mô hình gia đình trị đặc biệt ở miền Nam, hay nói cách khác là gia đình họ Ngô. Ngô Đình Nhu trực tiếp đề ra thuyết “Chủ nghĩa nhân vị”, Ngô Đình Thục quản lý các lĩnh vực Công giáo, tham gia giảng dạy, tuyên truyền. Ngô Đình Diệm đưa ra chủ nghĩa nhân vị vào trong đời sống.
Điều quan trọng trong gia đình trị này là gia đình theo Công giáo, việc giảng dạy của các lĩnh vực chủ yếu tập trung vào giáo lý Công giáo, lôi kéo người theo Công giáo, thậm chí là ép buộc, đồng thời chỉ trích Phật giáo, chia rẽ trong nội bộ Phật giáo. Theo tài liệu của Trung tâm Huấn luyện Nhân vị Vĩnh Long (1960): “Theo Phật giáo nguyên thủy, thì Đức Phật không bàn đến nguồn gốc vô trị. Ngài cho rằng vô trị là Brahmam (Phạm Thiên) cũng bị lôi cuối trong vòng biến chuyển ấy. Tư tưởng này là Đức Thích Ca, được phái Tiểu Hòa nhất luật tuân theo… Nhưng vì thấy quan điểm này quá hẹp hòi, phi tiến hóa, nên Đạo sĩ Ashivagosha mới lập ra phái Đại thừa”(4). Người tham gia các khóa học, các khóa tập huấn về chủ nghĩa nhân vị, chủ yếu là mong có được một tấm bằng “nhân vị” vì nhu cầu thăng tiến. Chính vì lý do đó, mà hàng ngày cán bộ của chính quyền Ngô Đình Diệm được qua “lò” đào tạo về chủ nghĩa nhân vị, cái gọi là “cán bộ nhân vị”. Bên cạnh đó, chính quyền Ngô Đình Diệm cần có chính sách triển khai, tuyên truyền chủ nghĩa nhân vị xuống tận nông thôn, gây khó khăn cho Phật giáo, cho nhân dân đặc biệt là các tỉnh miền Trung. Tại đây nhân dân bị ép buộc tham gia lớp học của chính quyền Ngô Đình Diệm và buộc người ngoài Công giáo (chủ yếu là Phật giáo) phải cải đạo sang Công giáo. Nhiều tín đồ Phật giáo bị bắt bớ, giam cầm, đánh đập dã man, thậm chí bị thủ tiêu bằng cách chôn sống.
Sau một thời gian củng cố nhân sự, năm 1957 gia đình họ Ngô đổi tên Đảng Cần lao Nhân vị thành Đảng Cần lao Công giáo, lấy tôn giáo làm nền tảng tư tưởng (cụ thể là Công giáo). Chủ trương lấy tín đồ Công giáo làm nòng cốt, tuy nhiên Đảng Cần lao Công giáo vẫn kết nạp đảng viên từ các tôn giáo khác. Chính sách nhân sự của Đảng chủ yếu là đảng viên là tín đồ Công giáo. Theo tài liệu nghiên cứu của Lê Cung, kẻ vào Đảng phải tuyên thệ có sự chứng giám của một vị Linh mục, thề chiến đấu vì Chúa, “đem hết thể xác và tinh thần cho đến hơi thở cuối cùng để chống Cộng sản Vô thần, chống Phật giáo ma quỷ, chống các đảng phái quốc gia”(5). Để thể hiện sự trung thành với chế độ, bắt buộc mọi người phải là đảng viên của Đảng Cần lao, và dĩ nhiên cũng phải là tín đồ Công giáo, được chế độ tin tưởng, cân nhắc. “Cần lao là con đường duy nhất đẻ đưa người Công giáo và chỉ người Công giáo mà thôi vào chính quyền”(6). Tính chất gia đình trị, giáo trị của Ngô Đình Diệm đã thể hiện rất rõ nét, sâu sắc và hầu hết các cán bộ cốt cán từ trung ương đến địa phương đều là đảng viên Đảng Cần lao.
Bằng những biện pháp trên, chính quyền Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng củng cố, phát triển bộ máy hành chính “nhuốm màu Công giáo”, một chế độ “sặc mùi Công giáo”. Với một chế độ dựa trên nền tảng của một tôn giáo khiến cho đời sống của các tôn giáo có những bước phát triển khó khăn, thậm chí bị “kìm kẹp đến ngạt thở”, đời sống của nhân dân dưới một chế độ độc tài Công giáo rít lên những tiếng thở dài.
Chính quyền Ngô Đình Diệm công khai tỏ rõ thái độ kỳ thị với Phật giáo. Điều đó dễ dàng nhận thấy. Nếu như sự ưu ái của chính quyền đối với Công giáo, đưa quyền lực của hàng giáo phẩm Công giáo lên thế quyền (thần quyền đứng trên thế quyền), với sự tồn tại của “linh mục chế” – một thế lực chính trị rất lớn. “Hầu như mỗi tỉnh của miền Nam nhất là tại miền Trung, cứ mỗi tỉnh có một Linh mục có quyền sinh sát trong tay mà chả ai dám đả động đến, vì đằng sau Linh mục là sức mạnh của chính quyền. Họ còn lộng hành hơn là nhận đơn kiện cáo của con chiên, rồi phê vào đơn, đưa đến Quận trưởng, Tỉnh trưởng, bảo phải xử theo ý Linh mục, không thì mất chức”(7); “ở đâu cũng thấy bóng dáng áo đen chen lẫn vào”(8); sự kỳ thị đối với các tôn giáo ngoài Công giáo đặc biệt là Phật giáo, được thể hiện rõ nét trong chính sách, trong đường hướng phát triển của quốc gia. Đây là một chính sách thực chất mà nói, Ngô Đình Diệm muốn thực hiện chính sách “Công giáo hóa” miền Nam. Theo như Lê Cung có đề cập, trong quân đội cũng có những binh lính là Phật giáo, cũng có những người đại diện Phật giáo chăm lo tinh thần cho chiến sĩ là Phật tử, tín đồ, tuy nhiên, Phật giáo không có được vị trí cần có cho mỗi tín đồ.
Trong Công điện số 9159 (6-5-1963) chính quyền Ngô Đình Diệm ra lệnh cấm treo cờ tôn giáo quốc tế, thực chất là cấm treo cờ Phật giáo thế giới trong dịp lễ Phật đản (8-5-1963). Điều này thực sự khó có thể chấp nhận đối với Phật giáo. Lịch sử phát triển của Phật giáo Việt Nam có lúc hưng thịnh, lúc nhạt nhòa, song Công điện 9159 như một luồng gió thổi vào đống than hồng làm bùng lên ngọn lửa đấu tranh của Phật giáo cũng như các tầng lớp nhân dân.
Mọi cố gắng của chính quyền Ngô Đình Diệm nhằm xây dựng một quốc gia, “một gia đình trị” với những “chính sách giáo trị”, nhằm thâu tóm quyền lực trong tay, chia rẽ khối đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết trong nhân dân, khoét sâu mâu thuẫn vốn đã tồn tại từ lâu. Chính sách “giáo trị” mà Ngô Đình Diệm thực hiện là chính sách một chiều, áp đặt lên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Điều đặc biệt cần nhấn mạnh mà tác giả đề cập đến ở tham luận này là chính sách kỳ thị tôn giáo nhất là Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Những chính sách của Ngô Đình Diệm đã đi ngược lại lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân, đụng chạm đến nhiều vấn đề của Phật giáo, và đây chính là một trong những nguyên nhân căn cốt dẫn đến cuộc “nhập thế” của Phật giáo 1963, góp phần vào sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm (1-11-1963).
2. KHUYNH HƯỚNG NHẬP THẾ VÀ PHẢN ỨNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM
Như trên dã trình bày, ngày 6-5-1963 chính quyền Ngô Đình Diệm ra Công điện 9159 lệnh cho tất cả các tỉnh thành cấm treo cờ tôn giáo thế giới, mà cụ thể là cờ Phật giáo(9) trong dịp lễ Phật đản (8-5-1963). Công điện không những ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề tâm linh của Phật giáo, mà nó trở thành quả bom nổ chậm đối với chính quyền Ngô Đình Diệm trên bình diện trong nước và quốc tế.
Ngay buổi tối ngày 6-5-1963, lãnh đạo Tổng hội Phật giáo miền Trung đã họp tại chùa Từ Đàm – Huế nhằm phản ứng lại với chính sách của Ngô Đình Diệm. Ngày 7-5-1963, tại Huế, mọi công tác chuẩn bị đón Phật đản đã hoàn tất, đến chiều chính quyền cảnh sát đến từng nhà buộc mọi người phải hạ cờ Phật giáo, Phật giáo đồ đã cương quyết không thực hiện theo. Đồng thời, quần chúng tụ tập, kéo đến trước tòa Tỉnh trưởng, giương cao biểu ngữ phản đối chính quyền họ Ngô.
Ngày 8-5 đại lễ Phật đản diễn ra trước sự có mặt của đông đảo tín đồ Phật giáo và cảnh sát của chế độ, nhưng họ không ngăn cản hay đàn áp. Buổi tối cùng ngày, tín đồ Phật tử đã tập trung tại Đài phát thanh Huế và chính quyền Ngô Đình Diệm đã gây ra vụ thảm sát, làm 8 người chết và nhiều người khác bị thương. Tin chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp nhanh chóng lan rộng vào Sài Gòn, gây bất bình trong nhân dân, trực tiếp là giới Phật giáo đồ, làm dấy lên một phong trào đấu tranh.
Trước những biểu hiện của chính quyền, Thượng tọa Thích Tâm Châu, Phó Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam gửi toàn thể Tăng Ni, tín đồ, giới lãnh đạo Sài Gòn một “lá tâm thư”, vạch trần tội ác của chính quyền Ngô Đình Diệm: “Phật tử chúng ta (cả xuất gia và tại gia) có nơi bị chôn sống, bị vu khống, bị tù đày, bị thiên cư, bị nhục mạ, ngày nay lại thêm một cái tát đau đớn nữa là lá cờ PG quốc tế - linh hồn của PG - bị hủy bỏ ngay ngày kỷ niệm đấng Giáo chủ của chúng ta, đến nỗi cuộc hy sinh vì đạo đã phải diễn ra tại Huế”, đồng thời kêu gọi “toàn thể Phật giáo đồ, không phân biệt xuất gia hay tại gia, người Việt hay ngoại kiều, hễ ai còn nhiệt tâm vì đạo, chúng ta hãy tự bình tĩnh, luôn luôn muôn người như một, sẵn sàng bảo vệ đạo, chết vì đạo”(10).
Ngày 10-5-1963 giới lãnh đạo Phật giáo họp tại chùa Từ Đàm và vạch ra đường hướng đấu tranh đòi công bằng xã hội(11). Trước tình hình đó, ngày 15/5/1963 phái đoàn Tổng hội Phật giáo Việt Nam phối hợp với các tổ chức Phật giáo khác đã có buổi tiếp xúc với Tổng thống Ngô Đình Diệm, trình bày bản Tuyên ngôn (10-5). Thêm vào đó, phái đoàn Phật giáo Sài Gòn còn đưa ra 2 nguyện vọng: “1. Chính phủ đảm bảo an ninh cho một phái đoàn ra thăm Phật giáo đồ tại Huế và an ủi các gia đình nạn nhân. 2. Ra lệnh cho các cấp quân dân chính đừng làm điều gì trở ngại đến buổi lễ cầu siêu cho vong linh nạn nhân ở khắp các chùa toàn quốc theo chỉ thị của Tổng hội Phật giáo”(12). Sau 3 giờ thảo luận, Tổng thống Ngô Đình Diệm không chỉ hứa hẹn mơ hồ mà không một nguyện vọng nào của Phật giáo được giải quyết, bên cạnh đó, còn quy trách nhiệm cho những người Cộng sản gây ra vụ thảm sát tại Đài phát thanh Huế.
Từ ngày 16 đến ngày 21 tháng 5, Phật giáo đã mở cuộc họp báo tại chùa Từ Đàm, cho trưng bày hình ảnh vụ thảm sát tại Đài phát thanh Huế ở chùa Ấn Quang – Sài Gòn để phản ứng, vạch tội, lên án chính quyền Ngô Đình Diệm, và gửi chính quyền một tài liệu 45 trang liệt kê những vụ đàn áp, bắt bớ và thủ tiêu tín đồ Phật giáo(13).
Ngày 21-5, khắp nơi trên toàn quốc tổ chức cầu siêu cho các nạn nhân tại Huế. Tại chùa Ấn Quang sau lễ cầu siêu, gần 100 Tăng Ni đã tổ chức một cuộc biểu tình đòi hòa bình từ chùa Ấn Quang về chùa Xá Lợi (Sài Gòn).
Ngày 23-5 tại chùa Từ Đàm, một bản phụ đính của Tuyên ngôn 10/5 được công bố, giải thích rõ ràng năm nguyện vọng nói trên. Và ngày 25-5 bản phụ đính được công bố với mục đích nhắc lại vai trò lập quốc và xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc của Phật giáo và nói rõ lập trường đấu tranh của mình vì mục tiêu tự do tôn giáo và công bằng xã hội. Cùng ngày, Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo được thành lập để chỉ đạo cuộc đấu tranh. Đây là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng, nó thể hiện sự đoàn kết đấu tranh và cho một mục đích cao cả, trong sáng của Phật giáo đồ. Phương thức đấu tranh mà Phật giáo chọn là bất bạo động và hợp pháp.
Ngày hôm sau, đoàn đại biểu Phật giáo gửi Ngô Đình Diệm bản phụ đính của Tuyên ngôn 10-5, Hòa thượng Thích Tịnh Khiết viết: “Để cho những nguyện vọng tối thiểu và hoàn toàn thuộc phạm vi tín ngưỡng ghi trong bản Tuyên ngôn và bản Phụ đính của chúng tôi được thấu hiểu và chấp thuận, tôi thiết nghĩ Phật giáo đồ - mà Tăng sĩ Phật giáo là phần chính - phải có một cách nào hơn những việc đã làm. Do đó, tôi đã chỉ thị cho các vị lãnh đạo thuộc sáu tập đoàn Phật giáo Việt Nam sẽ tuyệt thực 48 giờ đồng hồ, có bác sĩ giám hộ, kể từ 14 giờ 30 ngày 30-5-1963”(14). Đến đây phong trào Phật giáo thực sự có quy mô rộng lớn được sự hưởng ứng của đông đảo Phật giáo đồ và nhân dân, đặc biệt là tầng lớp trí thức.
Như kế hoạch đã định sẵn, ngày 30-5, từ 14 giờ 30 giới lãnh đạo Phật giáo tiến hành tuyệt thực trên toàn miền Nam. Cùng ngày, gần 400 Tăng Ni đã ngồi biểu tình trước trụ sở Quốc hội Diệm. Trước giờ tuyệt thực, Đoàn Sinh viên Phật tử Huế đã ra thư kêu gọi sinh viên, học sinh ủng hộ phong trào đấu tranh của Phật giáo. Ngày 1-6 một cuộc biểu tình và tuyệt thực lớn cũng đã diễn ra tại Huế. Bên cạnh đó, tại Huế chính quyền Ngô Đình Diệm còn cho phong tỏa các chùa Từ Đàm, Báo Quốc, Linh Quang… Trước diễn biến phức tạp của phong trào Phật giáo, dư luận quốc tế hết sức quan tâm, ủng hộ và càng làm tăng tinh thần đấu tranh của Phật giáo đồ.
Hình thức đấu tranh bất bạo động đã đem lại hiệu quả to lớn đối với phong trào Phật giáo. Trước sức mạnh tinh thần của Phật giáo đồ, chính quyền bạo lực Ngô Đình Diệm phải khoanh tay và bỏ lệnh phong tỏa các chùa ở Huế, và được xem như một bước nhượng bộ đối với Phật giáo. Tuy nhiên, chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn ngấm ngầm gây ra những tội ác như bắt cóc, thủ tiêu Tăng Ni, Phật tử, đồng thời thanh trừng nhân viên ủng hộ Phật giáo(15). Tại Sài Gòn, Diệm cũng cho mật vụ giả danh Phật tử, Tăng Ni vào các chùa để do thám và xúi giục nhằm chia rẽ hàng ngũ Phật giáo, đặc biệt là tìm cách làm mất uy tín của Tổng hội Phật giáo Việt Nam.
Ngày 11-6, Hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu mình để phản đối lại chính sách đàn áp của Ngô Đình Diệm trước sự chứng kiến của đông đảo Tăng Ni, Phật tử, nhân dân, cảnh sát của chính quyền cùng những phóng viên, quan sát viên nước ngoài. Sáng ngày 11/6/1963, trước khi tự thiêu, ông đã viết lại một bức thư Lời nguyện tâm huyết(16), nói rõ chủ định và nguyện vọng của mình.(17) Hành động này như một chất đề kháng để kháng lại những chính sách bất công, thiếu công bằng, tàn bạo của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với Phật giáo nói riêng và đối với nhân dân miền Nam nói chung. Hành động của Hòa thượng Thích Quảng Đức đã làm rung động những trái tim nhân ái và nhận được sự ủng hộ của giới Phật giáo đồ trong, ngoài nước cũng như nhân dân tiến bộ trên thế giới. Nó thực sự là một cú đấm tinh thần giáng mạnh vào chế độc độc tài, đi ngược lại lợi ích dân tộc, đi ngược lại nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Để gây áp lực về mặt chính trị đối với chính quyền Ngô Đình Diệm, cũng như tranh thủ sự ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật giáo, Phật giáo đã sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng cả trong và ngoài nước như một nguồn sức mạnh. Báo Washington Post ngày 19/6/1963 viết: “Cuộc tranh chấp không còn là một biến động mang tính địa phương nữa. Vì chế độ Ngô Đình Diệm liên hệ mật thiết với Hoa Kỳ nên có nguy cơ tín đồ Phật giáo khắp châu Á sẽ có cảm tưởng rằng Hoa Kỳ cũng dung túng sự kỳ thị tôn giáo. Tuy đó là một ý nghĩ sai lầm nhưng vì là đồng minh của một chế độ độc tài và áp bức cho nên Hoa Kỳ cũng bị ảnh hưởng”. Và khi một số nhà báo, phóng viên tác nghiệp tại miền Nam Việt Nam đã bị cảnh sát của chính quyền Ngô Đình Diệm hành hung(18).
Tiếp theo hành động của Hòa thượng Thích Quảng Đức là hàng loạt các cuộc biểu tình, các vụ tự thiêu, tự chặt tay của giới Phật giáo đồ. Bên cạnh đó cũng thu hút sự tham gia của đông đảo tầng lớp nhân dân, trong đó quan trọng không kém là sự hưởng ứng của giới tri thức. Ngày 15-8-1963, khoảng 1.000 sinh viên - học sinh biểu tình tại Huế để phản đối vụ đàn áp trước chùa Phước Duyên. Cũng trong ngày hôm đó, Ni sư Diệu Quang 27 tuổi đã tự thiêu tại quận Ninh Hòa, Khánh Hòa và bị cảnh sát mang thi hài đi. Trước sự phẫn nộ đó, dân chúng đã biểu tình tại thị xã Nha Trang để phản đối và đòi lại người. Hay ngày 16-8-1963, tại Huế, thiền sư Tiêu Diêu tự thiêu tại chùa Từ Đàm, thu hút hơn 5.000 người đến chùa Từ Đàm để bảo vệ thi hài thiền sư Tiêu Diêu.(19)
Cũng trong ngày 16-8-1963, Ủy ban Liên phái gửi Tổng Thư ký Liên Hiệp quốc và cho tổ chức Phật giáo các nước như Thái Lan, Nhật Bản, Singapore, Miến Điện, Đài Loan, Ấn Độ về những diễn biến phức tạp của Phật giáo Việt Nam và kêu gọi giúp đỡ: “Chúng tôi gửi đến Thế Giới Tự Do, các tổ chức Phật giáo ngoại quốc lời kêu cứu thiết tha này và thành thật tri ân mọi sự can thiệp, nhân danh nhân quyền, để chấm dứt một sự ngược đãi đã trở thành dã man”(20).
Hưởng ứng phong trào đấu tranh của Phật giáo, các thành phần xã hội đã có những động thái chung tay chống lại chế độ Ngô Đình Diệm. Các cuộc biểu tình của học sinh sinh viên, các cuộc phát động rộng rãi trong các trường đại học (Y khoa Sài Gòn, Luật khoa Sài Gòn…) đã diễn ra và lan rộng tới tận cấp trung học. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã dùng sức mạnh cảnh sát tiến hành bắt bớ, đàn áp. Khoảng 2.000 học sinh Trung học Sài Gòn bị bắt (24-8), đàn áp và làm chết một nữ sinh và bắt khoảng 200 người (25-8) tại Công trường Diên Hồng,…(21)
Ngày 5-10-1963, Đại đức Thích Quảng Hương thuộc Tỉnh hội Phật giáo Ban Mê Thuột châm lửa tự thiêu trước tại chợ Bến Thành, đã cho dư luận quốc tế thấy được sự nghiêm trọng của Phật giáo ở Việt Nam dưới chế độ Ngô Đình Diệm. Ngày 27-10-1963, Đại đức Thích Thiện Mỹ 23 tuổi tại chùa Vạn Thọ châm lửa tự thiêu trước nhà thờ Đức Bà tại Sài Gòn. Trong lúc này phái đoàn điều tra của Liên Hợp Quốc đang hoạt động ở Sài Gòn, và đây thực sự là tiếng vang vọng lên lời kêu cứu, tố cáo tội ác của chính quyền Ngô Đình Diệm tới Liên Hợp Quốc cũng như các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ tự do tôn giáo, bảo vệ công bằng xã hội. Đồng thời cũng là lời cảnh tỉnh đối với Mỹ trong việc ủng hộ chính quyền Diệm – Nhu.
Trở lại cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, dễ dàng nhận thấy sau những thắng lợi của cách mạng miền Nam, chế độ Ngô Đình Diệm chịu hết thất bại này đến thất bại khác, các chủ thuyết “Nhân vị”, “Công giáo trị”, “Gia đình trị” lần lượt mờ nhạt và tỏ rõ yếu kém đến các hoạt động “Ấp chiến lược”. Về phía Mỹ, cùng với phong trào đô thị miền Nam, nhất là sau thắng lợi của trận Ấp Bắc (3/11/1963), phong trào Phật giáo đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia và cuộc đấu tranh đã nhanh chóng làm suy yếu chính quyền Ngô Đình Diệm, hình ảnh của Diệm đã mờ nhạt dần trong chính sách của Mỹ, mâu thuẫn Mỹ - Diệm ngày càng gay gắt hơn. Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ đứng trước nguy cơ phá sản và dễ dàng nhận thấy chính quyền Ngô Đình Diệm không còn là công cụ để vận hành bộ máy chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam.
Ngày 22-8-1963, Bộ Ngoại giao Mỹ đã tuyên bố không tán thành chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Diệm. Cùng ngày, Cabot Lodge đến Sài Gòn nhận chức Đại sứ, và sang ngày 24-8, sau khi đến Sài Gòn nhận chức, Đại sứ Cabot Lodge nhận được tin từ Nhà Trắng:
“Cố vấn Ngô Đình Nhu chịu trách nhiệm về sự tấn công đàn áp chùa chiền. Đại sứ Hoa Kỳ phải minh danh: Chính lực lượng đặc biệt của ông Nhu, chứ không phải quân đội tham dự... Hoa Kỳ không thể tha thứ tình trạng quyền hành nằm trong tay Ngô Đình Nhu. Tổng thống NĐD được dành một cơ hội để loại trừ Ngô Đình Nhu và tay chân, phải thay thế họ bằng những nhân vật quân sự và chính trị có khả năng nhất... Nếu Tổng thống Diệm vẫn còn ngoan cố, thì chúng ta (người Mỹ) sẽ đi tới chỗ không thể tiếp tục ủng hộ ông nữa. Ông Đại sứ có thể loan báo cùng các vị tư lệnh quân sự liên hệ rằng: “Chúng ta sẽ trực tiếp yểm trợ cho họ trong mọi trường hợp tạm thời gián đoạn của một chính quyền trung ương”(22).
Ngày 1-11-1963, được sự ủng hộ của Mỹ, nhóm lính do Dương Văn Minh cầm đầu đã tiến hành cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, kết thúc chế độ “gia đình trị”.
3. NHÌN NHẬN VAI TRÒ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA PHẬT GIÁO TRONG SỰ SỤP ĐỔ CỦA CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM
Trong suốt chiều dài lịch sử, “lịch sử đạo Phật cũng như lịch sử dân tộc Việt Nam có những bước thăng trầm, thịnh suy, nhưng dù ở trong hoàn cảnh nào đạo Phật cũng hòa nhập với đời sống dân tộc, cùng chung vận mệnh với dân tộc và có nhiều cống hiến đối với dân tộc”(23). Xét về vai trò của Phật giáo đối với xã hội, với dân tộc, dễ nhận thấy Phật giáo lúc nào cũng hòa nhập với đời sống xã hội, dân tộc, mặc dù biểu hiện của nó khác nhau trong từng giai đoạn cụ thể. Phật giáo không chỉ chú trọng đến việc giữ yên kỷ cương đạo pháp, mà còn luôn gắn liền với vận mệnh dân tộc, với quốc gia, nó như hai con thuyền trên một dòng sông.
Trước những chính sách của Ngô Đình Diệm đàn áp, kỳ thị Phật giáo, hàng loạt các phong trào đấu tranh diễn ra dưới hình thức bất bạo động, khẳng định: “Là công dân của nước, cá nhân Phật tử có bổn phận góp phần vào cuộc đấu tranh chính trị, ủng hộ chính quyền của dân, nhằm giải thoát cho Tổ quốc, đồng bào ra khỏi lầm than”(24).
Đây là cuộc đấu tranh, cuộc nhập thế(25) của phong trào Phật giáo gây tiếng vang lớn, cổ vũ cuộc đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo, công bằng xã hội, chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo của một chế độ độc tài.
Trên trường quốc tế, ngay khi cuộc đấu tranh của Phật giáo chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng lan truyền trên các báo đài và nhận được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới. Trên tờ Sunday Times của Anh số ra ngày 2-6-1963 có nhận xét: “Việc cấm treo cờ Phật giáo là một biện pháp điên rồ đã gây ra sự công phẫn và nổi dậy của người Phật tử Việt Nam”(26). Ngày 29-8-1963, Chủ tịch Mao Trạch Đông tuyên bố: “Gần đây, tập đoàn phản động Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam ráo riết tiến hành sự đàn áp đẫm máu đối với tín đồ Phật giáo, học sinh các trường đại học và trung học, các nhà trí thức và đông đảo nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân Trung Quốc tỏ ý hết sức căm phẫn và kịch liệt lên án tội ác tày trời của tập đoàn Ngô Đình Diệm”; đồng thời yêu cầu “giai cấp công nhân, nhân dân cách mạng và nhân sĩ tiến bộ trên toàn thế giới đều đứng về phía nhân dân miền Nam Việt Nam anh dũng chống sự xâm lược và áp bức của bè lũ nước lớn và Diệm phản cách mạng, làm cho nhân dân miền Nam Việt Nam khỏi bị tàn sát và giành được giải phóng triệt để”(27).
Và như vậy, việc phong trào Phật giáo 1963 nổ ra không hề bị cô lập với bất cứ thực thể xã hội tiến bộ nào. Từ các cơ quan báo chí cho đến các đoàn thể tôn giáo (cả Phật giáo lẫn các tôn giáo khác), đến các tổ chức chính trị xã hội, họ đã lên tiếng bảo vệ Phật giáo, bảo vệ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta, vạch trần những tội ác mà chính quyền Ngô Đình Diệm đã gây ra. “Cái chất Công giáo của Diệm, không hề mở mắt hắn đến với những ý tưởng mới, mà chỉ thuyết phục hắn là cai trị bằng nghi lễ và huấn thị đạo đức là có thể thành công, mà nó có vẻ như vậy trong các làng mạc ở miền Bắc và Trung sống trong cái vỏ bằng sắt và điều khiển bởi các linh mục… Trong tất cả những năm cầm quyền, Ngô Đình Diệm chỉ có đồng minh ở thôn quê, đó là những người Công giáo, đặc biệt nhất là những người di cư từ ngoài Bắc vào. Ngay từ đầu, Diệm dùng trong bộ máy hành chính phần lớn là những người Công giáo, và thiên vị các làng Công giáo”(28).
Khi nói về ảnh hưởng của phong trào Phật giáo đến cục diện chính trị miền Nam (1963) vẫn còn có những ý kiến khác nhau. Mặc dù, cả nước đang cùng chung lưng dấu cật trong khi cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, trong đó có phong trào Phật giáo, thì vẫn còn có những bộ phận có thái độ định kiến, nghi ngờ sự nghiệp kháng chiến bảo vệ độc lập của dân tộc ta. Một số Tăng Ni, lại tuyệt đối hóa vai trò của Phật giáo miền Nam (1963) và ngộ nhận rằng đó là yếu tố duy nhất quyết định sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm(29).
Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến cho rằng, phong trào như một chất xúc tác dẫn đến cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, cũng có ý kiến cho rằng, phong trào chỉ là một bộ phận trong chuỗi những mắt xích quan trọng dẫn đến cuộc đảo chính đó cùng với phong trào đấu tranh của sinh viên Huế và các tầng lớp nhân dân khác. Dĩ nhiên, cũng dễ nhận rõ rằng, phong trào không chỉ đấu tranh vì Phật giáo mà còn góp phần quan trọng trong tiến trình lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
Phong trào Phật giáo 1963, cũng như các giai đoạn trước trong lịch sử luôn khẳng định vai trò của mình đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong cuộc đấu tranh của dân tộc, Phật giáo tỏ ra là một tôn giáo nhập thế sâu rộng. Cuộc đấu tranh bảo vệ đạo pháp, bảo vệ Phật giáo đồ (1963) trở thành một thực thể hăng hái tham gia cách mạng tích cực. Nó thể hiện tính năng động, sáng tạo, quyết đoán của phong trào đã góp phần đoàn kết các lực lượng yêu hòa bình, yêu tự do, từ giới tu sĩ áo lam, Phật tử tại gia đến các sinh viên Phật tử, các tầng lớp nhân dân cùng đồng lòng đấu tranh.
Lẽ dĩ nhiên, không thể phủ định được ảnh hưởng to lớn của phong trào Phật giáo đến cục diện chính trị miền Nam (1963). Đây chính là phong trào nhập thế của Phật giáo đồng hành cùng dân tộc, vì mục tiêu chung của nhân dân mọi thời đại là tự do, công bằng xã hội, góp phần tạo thuận lợi cho phong trào giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Phong trào Phật giáo đã thể hiện sự gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, đúng như lời bài thơ Tình Sông Nghĩa Biển của Trụ Vũ:
Việt Nam và Phật giáo
Phật giáo và Việt Nam
Ngàn năm xương thịt kết liền
Tình sông nghĩa biển mối duyên mặn nồng(30).
1. Chu Bằng Lĩnh, Đảng Cần lao, Nxb Mẹ Việt Nam, San Diego, Ca. USA, 1993, tr. 196.
2. Bùi Tuân, “Xây dựng trên nhân vị”, Nxb. Nhận Thức, Huế, 1956, tr.59.
3. Dương Thành Mậu, Đường về nhân vị, Trung tâm Huấn luyện Nhân vị Vĩnh Long, Sài Gòn, 1960.
4. Xem Dương Thành Mậu, bài đã dẫn, tr. 77.
5. Xem Chu Bằng Lĩnh, bài đã dẫn, tr. 165.
6. Xem Chu Bằng Lĩnh, bài đã dẫn, tr. 196.
7. Nguyễn Chánh Thi, “Việt Nam một trời tâm sự”, Nxb Anh Thư, Los Alamitos, Ca., 1987, tr. 80.
8. Xem Chu Bằng Lĩnh, bài đã dẫn, tr. 128.
9. Lá cờ ngũ sắc của Phật giáo tượng trưng cho sức mạnh gọi là ngũ lực (tín, tấn, niệm, định, tuệ). Đó là lá cờ nhiều màu sắc rực rỡ, tươi vui, là biểu tượng cho niềm tin nơi từ bi, khoan dung và ước vọng hòa bình.
10. Trích theo Lê Cung, Về phong trào Phật giáo Sài Gòn 1963 (http://www.quangduc.com). Tài liệu gốc: Lá tâm thư ngày 9-5-1963 của TT Thích Tâm Châu, Phó Hội chủ Tổng hội PG Việt Nam gởi quý HT, TT, ĐĐ Tăng Ni cùng toàn thể Phật tử Việt Nam. Hồ sơ lưu tại chùa Từ Đàm - Huế.
11. Năm nội dung cơ bản trong Tuyên ngôn (10-5-1963):
1. Yêu cầu Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thu hồi vĩnh viễn Công điện triệt giáo kỳ của Phật giáo.
2. Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng quy chế đặc biệt như các Hội truyền giáo Thiên Chúa đã được ghi trong Dụ số 10.
3. Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo.
4. Yêu cầu cho Tăng, tín đồ Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo.
5. Yêu cầu Chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ bị giết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bồi đúng mức.
(Bản Tuyên ngôn của Tăng, tín đồ Phật giáo Việt Nam (10-5-1963). Trung tâm lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu: SC.04-HS.8352).
12. Trích theo Lê Cung, bài đã dẫn. Tài liệu gốc: Quốc Tuệ, Công cuộc đấu tranh của PG Việt Nam, Tác giả xuất bản, Sài Gòn, 1964, tr. 66.
13. Pháp nạn Huế trong lễ Phật đản 1963, tại vncphathoc.net.
14. Trích theo Lê Cung, bài đã dẫn. Tài liêu gốc: Quốc Tuệ, Công cuộc đấu tranh của PG Việt Nam, Tác giả xuất bản, Sài Gòn, 1964, tr. 78.
15. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Chương 38, Cuộc vận động chống chế độ Ngô Đình Diệm, Nxb Văn học, 2010, tr. 1055 – 1056.
16. Xin trích lại lá thư của Hòa thượng Thích Quảng Đức:
“Tôi, pháp danh Thích Quảng Đức, Trụ trì chùa Quan Âm Phú Nhuận, Gia Định. Nhận thấy Phật giáo nước nhà đang lúc nghiêng ngửa, tôi là một tu sĩ mệnh danh là trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật giáo tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyên thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo. Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại Đức Tăng Ni chứng minh cho tôi đạt thành ý nguyện sau đây:
1. Mong ơn Phật tổ gia hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản tuyên ngôn.
2. Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường tồn bất diệt.
3. Mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Đại đức, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi nạn khủng bố bắt bớ giam cầm của kẻ ác gian.
4. Cầu nguyện cho đất nước thanh bình quốc dân an lạc.
Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thủa. Tôi tha thiết kêu gọi chư Đại đức Tăng Ni Phật tử nên đoàn kết nhất trí để bảo toàn Phật pháp. Thích Quảng Đức”.
(Xem Nguyễn Lang, tlđd, tr. 1059 – 1060.
17. Xem Nguyễn Lang, tlđd, tr. 1060 – 1062.
18. Xem Nguyễn Lang, tlđd, tr. 1085.
19. Xem Nguyễn Lang, tlđd, tr. 1096-1097.
20. Xem Nguyễn Lang, tlđd, tr. 1098.
21. Xem Nguyễn Lang, tlđd, tr. 1106-1108.
22. Trích theo Lê Cung, bài đã dẫn. Tài liệu gốc: Kiêm Đạt, Chiến tranh Việt Nam, Nxb Đại Nam, Chicago, Illinois, USA, 1992, tr. 227 – 228.
23. Phan Huy Lê, Hồ Chủ tịch với dòng văn hóa Phật giáo Việt Nam trong “Nội san nghiên cứu Phật học” (số đặc biệt kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Hồ Chí Minh) tháng 1-1991, tr. 9.
24. Lữ Hồ, Sức mạnh gia đình Phật tử, Người Áo Lam, Sài Gòn, 1964, tr. 218 – 219.
25. Nhập thế, theo cách định nghĩa của “Đại từ điển Tiếng Việt” thì đó là vào gánh vác việc đời, không xa lánh đời (Nguyễn Như Ý, Đại từ điển Tiếng Việt, NXB: Văn Hóa Thông Tin, 1998, tr. 132).
26. Tuệ Giác, Việt Nam Phật giáo tranh đấu sử, Nxb. Hoa Nghiêm, Sài Gòn, 1964, tr. 195.
27. Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng, tập II, Nxb. Khoa học, Hà Nội, 1966, tr. 355.
28. “Fire In The Lake” by Frances Fitgerald (Winner of the Pulitzer Prize, Winner of the National Book Award, Winner of the Bancroft Prize For History), Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139.
29. Lê Cung, Phong trào Phật giáo Việt Nam 1963, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 294.
30. Xem Nguyễn Lang, tlđd, tr. 1121.
Bình luận bài viết