Thông tin

BA ĐỨC CỐT LÕI TRONG CHỐN THIỀN GIA

VŨ ĐÌNH MAI*
TT. THÍCH THANH GIÁC**

 

Phật giáo được nhân dân ta đón nhận hàng ngàn năm nay. Tuy có lúc thăng lúc trầm, nhưng với tinh thần nhân hậu, khai mở cho chúng sinh con đường thoát khổ thoát nạn nên được nhân dân ta thấm nhuần một cách dễ dàng. Không như đạo Lão, đạo Khổng, hầu như chỉ được tiếp thu bởi tầng lớp quan lại, Phật giáo đã ăn sâu bắt rễ vào tâm trí hầu khắp người dân Việt. Cho nên, dẫu trải qua những bước thăng trầm, vẫn tự mình trỗi dậy. Mỗi lần trỗi dậy lại mang theo một sức mạnh mới. Đôi khi, chỉ do cố gắng của một người, như tàn lửa nhỏ, lại thổi bùng lên một trào lưu mới không gì ngăn cản nổi. Đó là trường hợp liều mình dâng biểu của thiền sư Tông Diễn thuộc Thiền phái Tào Động.

Nửa đầu thế kỷ 15, quân Minh xâm chiếm nước ta. Ngoài việc ra sức vơ vét của cải, chúng còn tàn phá đất nước ta bằng cách đốt hết kinh sách, phá hết chùa chiền, bia ký; cướp tượng, đập chuông để đúc vũ khí, đàn áp các cuộc nổi dậy. Mặt khác, chúng thành lập chính quyền các cấp theo mô hình tôn ti trật tự của Nho giáo, quyết xóa sạch ký ức tôn giáo và tín ngưỡng của dân ta. Phật giáo Việt Nam suy tàn cùng đất nước.

Kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Lê Thái Tổ ra sức thi hành chính sự, ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu thập sách vở, mở mang trường học…theo mô hình phong kiến phương Bắc.  Nho giáo càng thâm nhập sâu vào đất nước ta. Phật giáo có nguy cơ tàn lụi nếu không có những cải cách, ứng biến cơ bản. Trước yêu cầu sống còn này, Thiền sư Thủy Nguyệt đã quyết chí ra đi tìm đường cứu Đạo.

Thiền sư Thủy Nguyệt sinh năm Bính Tuất (1637) tại Thanh Triều, đạo Sơn Nam, phủ Tiên Hưng, nay là huyện Hưng Nhân, Thái Bình. Năm 20 tuổi, Ngài chán cảnh đời bon chen, bỏ học hành thi cử theo lối Nho gia, vào chùa Hồi Đội, huyện Thụy Anh, xuống tóc đi tu. Suốt sáu năm dùi mài kinh sử, ngài vẫn chưa thấy mình được giác ngộ như mong muốn. Ngài xin phép thầy được đi thăm thú, học hỏi thêm từ các tông môn khác. Học thêm đây đó khắp nơi, tuy đã 28 tuổi vẫn chưa thấy mình được kiến tính. Điều Ngài trăn trở nhất vẫn là chưa tìm ra đường lối nào, phương sách nào để chấn hưng Phật giáo lúc bấy giờ.                

Với sự trăn trở, đau đáu khôn nguôi ấy, tháng Năm năm Giáp Thân (1664) Ngài cùng hai đệ tử khăn gói lên đường tìm thầy học đạo, quyết chí trở thành người nắm vững học thuyết của Phật Tổ, phục hồi Phật pháp, phổ độ chúng sinh.

Chuyến “Bắc du” đường xa dặm dài, vực thẳm sông sâu, đèo cao vách đứng, rừng thiêng nước độc, đêm phơi sương ngày dãi nắng, bão núi mưa ngàn trăm đường vất vả. Gần sang đến đất Trung Hoa thì một đệ tử của Ngài bị trọng bệnh, không qua khỏi. Phải nằm lại trên đất Cao Bằng.

Dù chỉ còn một thầy một trò, với quyết tâm sắt đá, Ngài vẫn tiến lên phía trước. Sau một năm lội suối trèo đèo, cuối cùng hai thầy trò cũng đến được đất nước Trung Hoa. Nhưng, tiếc thay, đi đến đâu cũng chưa được tiếp nhận. Hàng tháng trời lầm lũi tìm chốn nương thân.

Dựa theo ý bài thơ được Tiên ông mách bảo lúc nằm mơ, hai thầy trò tìm đến núi Phượng Hoàng. Mừng vì thấy thiền viện nguy nga, phong cảnh đúng như lời chỉ dẫn của Tiên ông, lo vì ngôn ngữ bất đồng, làm sao có thể vào tu tập.

Sau nhiều ngày ở nhờ nơi cửa Tam quan, học ngôn ngữ cùng phong tục tập quán địa phương, viết biểu dâng lên Thượng Đức bày tỏ ý nguyện chân thành của mình.

Bài biểu viết: “Con tên là…quê ở xã Thanh Triều, huyện Ân Thiên, phủ Tiên Hưng, đạo Sơn Nam thuộc nước Nam, cúi đầu trăm lạy, kính cẩn dâng lên Phương trượng Đại Hòa thượng, mong được rủ lòng soi xét, muốn tìm phương giải thoát khỏi bể khổ, nên theo vào con đường của cửa từ bi. Trước đã theo thầy thụ nghiệp ở nước nhà, song chưa rõ tôn chỉ tinh vi huyền ảo, cho nên không ngại trèo đèo lội suối trải qua nghìn dặm xa tìm, hầu mong gặp được nhân duyên, một đời chứng tới…Cúi xin rộng mở lòng nhân như bể lớn sông sâu, thấm nhuần nuôi cho khắp chốn, như trời xuân nuôi cho muôn vật, thể tâm từ bi, giúp đỡ cho được lên nhà. Cho theo năm tháng, hầu hạ sớm chiều. Nghe lời chỉ dạy cho rõ tôn chỉ để tỏ tấm lòng, cất gậy quay đầu mà thấy tính, chứng được quả của Bồ Đề, cho phu công xuất thế. Đây là điều mong ước lớn của đời con. Nguyện cúi dập đầu, xin được thương tình giúp đỡ”.
Thượng Đức Hòa thượng thấy lời khẩn khoản chân thành, hiểu thấu lòng thiết tha cầu đạo, cho dẫn người dâng biểu lên nhà.

Từ đấy, Ngài ngày ngày làm việc tùng lâm, đêm đêm miệt mài kinh luật.

Ngày qua tháng lại, tính ra đã được ba năm. Một hôm Thượng Đức Hòa thượng gọi Ngài vào hỏi xem đã thấy được Tính chưa? Ngài dâng bài kệ:                          

Viên minh thường lại thái hư trung

Cương bị mê vân vọng khỏi lung

Nhất đắc phong suy vân tứ tán

Hằng sa khắp giới chiếu quang thông

Tạm dịch:

Sáng tròn thường giữa thái hư không

Bị đám mây mờ bọc kín trong

Nhờ được gió xua, mây sạch hết

Hằng sa pháp giới được soi chung.

Nghe xong, Thượng Đức Hòa thượng xoa đầu thụ ký cho Ngài, ban  hiệu là Thông Giác, Đạo Nam Thiền sư, cùng mấy chữ: Tịnh trí, thông tông, từ tính hải khoan. Giác đạo sinh quang, chính tâm mật hạnh, nhân đức di lương, tuệ đăng phả chiếu, hoằng pháp vĩnh trường,  cho đem về  để truyền tông Tào Động. Thượng đức Hòa thượng dặn thêm rằng:  Từ chỗ thành tâm đi từ muôn dặm tới đây, nay cho bài kệ này làm lời khuyên gắng sức:

Quế nham suy phúc tục truyền đăng

Thu nhập trường không quế bích đằng

Trì nhĩ viên lai khai bảo kính

Tích dư qui khứ tự kim thăng

Tạm dịch:

Rừng quế hương đưa đèn nối sáng

Thu về đâu đấy ngát mùi thơm

Vì người xa tới treo gương báu

Từ biệt ta về chỉ sợi vàng.

Khi ấy, thiền viện cùng toàn thể môn sinh liên hoan ba ngày ba đêm để tiễn đưa một thiền sinh đắc đạo, đem đạo pháp truyền bá xứ Nam. Trong khi tạ từ, người đọc thơ, kẻ trao kỷ vật, không muốn rời nhau. Trước khung cảnh tràn đầy đạo vị, Ngài cảm động đọc bài kệ rằng:

Bắc lai trình dĩ hựu Nam lai

Nam Bắc song thanh sáng ngã hoài

Cước để yên hà tùy tiếu ngạo

Mã hoàn trại thượng, xuất thiên nhai

Tạm dịch:

Kể từ sang Bắc về Nam

Cả hai đều được hoàn toàn thảnh thơi

Cốt yên hà thỏa chí cười

Ngựa về vượt khỏi chân trời xa xăm.

Giã từ Thầy Tổ và Pháp lữ, trở về Việt Nam. Sau gần nửa năm mới về tới đất Cao Bằng. Tìm lại mộ của đệ tử, Ngài bèn dựng lều cỏ, lập ban thờ, làm lễ siêu độ. Được ba ngày thì hoa sen mọc trên mộ. Dân quanh vùng thấy phép mầu của Phật, từ đấy cùng nhau hướng về Phật Tổ, vui vẻ theo đạo.

Hơn một tháng sau, thầy trò về tới Côn Sơn - Yên Tử.  Sau khi thăm thú các địa danh, Ngài quyết định ở lại trụ trì chùa Hạ Long, xiển dương hệ phái Tào Động. Nhân dân khắp chốn bốn phương đều hướng về giáo hóa. Đất nước bình yên, người người vui vẻ, như cỏ hoa gặp được mùa xuân.

Ngày giờ thấm thoắt thoi đưa. Gần ba mươi năm đã trôi qua. Thấy mình đã già yếu, một ngày nọ, Ngài gọi đệ tử Tông Diễn cùng các đệ tử khác, dặn rằng: Nay ta lên chơi trên núi Nhẫm. Nếu hết 7 ngày không thấy ta về thì các người hãy vào núi tìm ta.

Hết 7 ngày, không thấy tôn dung Tổ về, mọi người cùng nhau lên núi tìm. Càng vào sâu trong núi, càng thấy gió thổi hương bay. Càng đi tới, mùi thơm càng nồng nàn. Cả đoàn người cứ theo mùi hương đi mãi. Vào tới một hang, mới thấy Tổ ngồi kiết già trên một tảng đá lớn.

Đó là ngày mồng Sáu, tháng Ba, năm Giáp Thân (1704). Ngài thọ dương 68 năm. Ngài là Thủy tổ của Thiền phái Tào Động miền Bắc Việt Nam và là Tổ thứ 36 của Thiền phái Tào động Trung Hoa. (Theo tư liệu của Hòa thượng Thích Trí Hải).

Đệ tử xuất sắc của Thủy tổ Thông Giác là ngài Thiền sư Tông Diễn, đạo hiệu Chân Dung.

Cuối thế kỷ 17, Vua Lê Hy Tông (1675 – 1705) ra lệnh đuổi hết sư sãi ra khỏi chùa chiền, đưa đi các nơi núi cao rừng thẳm.

Trước tình cảnh bi đát này, Thiền sư Tông Diễn đã quyết tâm dời chốn tu hành nơi sơn dã, liều mình về kinh đô tìm cách can gián nhà vua, cứu lấy đạo Phật, cứu lấy chúng sinh, cứu cả vận mệnh dân tộc.

Thiền sư Tông Diễn viết bài biểu, đặt trong một hộp, nhờ quan Đầu lĩnh tâu lên vua rằng có kẻ dâng ngọc quí.

Khi mở hộp, trong hộp không có ngọc ngà gì, chỉ có một tờ biểu. Vua thấy tờ biểu viết những lời chân thành, tâm huyết, lý lẽ rõ ràng, lời văn sáng sủa đầy sức thuyết phục, xin nhà vua xem xét lại việc làm đối với các tăng ni phật tử nói riêng, với Phật giáo nói chung trên đất nước của Ngài. Vua lệnh cho quan Đầu lĩnh dẫn người dâng biểu vào triều.

Vốn có lòng quí trọng người tài, vua cho Thiền sư Tông Diễn ngồi đối thoại với mình. Qua đàm đạo, vua nhận ra rằng: “Đạo Phật là viên ngọc quí, chẳng lẽ trong nước chúng ta không dùng. Tăng ni chỉ khuyên người làm việc thiện, tại sao lại đuổi họ đi. Người đem Phật pháp khai hóa dân chúng cũng là phương pháp tốt giúp triều đình an dân trị quốc”. Nhà vua cho thu hồi lệnh trước. Cửa mọi ngôi chùa lại rộng mở, sư sãi ở đâu về đấy, con nhang đệ tử ra vào tấp nập. Chúng sinh trăm họ trở về với cuộc sống an lành.

Thấy Thiền sư có tư chất hơn người, hiểu biết hơn người, nhà vua mời ngài ở lại chủa Bảo Thiên để luôn được gặp mặt, luận bàn quốc sự.

Thượng hoàng được tin lành, sai sứ sang thỉnh sư vào cung diễn giảng kinh pháp. Những buổi diễn giảng kinh pháp, không chỉ có Thượng hoàng mà cả nhà vua cũng đến nghe. Khi đã thấu hiểu đạo lý trong kinh Phật, Vua ban cho nhà sư được quyền ra vào nội cung để tuyên dương chính pháp.

Thông qua bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến một khía cạnh. Đó là Tam đức bí yếu của ngôi trụ trì “Trụ pháp Vương gia, Trì Như Lại tạng”. Đó là Bi, Trí, Dũng. Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật Thích Ca dạy:

“Ta thường nghĩ thế này:

Lấy gì cho chúng sinh

Được vào tuệ vô thượng

Mau thành tựu Phật thân

Giống như ta, không khác”

Nếu không có tình thương yêu đối với chúng sinh, với đồng bào, đồng loại, không có trí tuệ sáng suốt, không có lòng dũng cảm tuyệt vời, liệu có sức mạnh nào nâng bước Thiền sư Thủy Nguyệt của chúng ta vượt qua muôn ghềnh nghìn thác, ngàn núi vạn đèo, trèo non vượt bể… để tầm sư học đạo thành công trên núi Phượng Hoàng, Hồ Nam, Trung Quốc?

Ngay cả khi được nhận vào Thiền viện, việc sinh hoạt, học hành, ngày trồng cây, đốn củi, đêm nghiền kinh đọc kệ…với những con người như chúng ta ngày nay, liệu có ai chịu đựng, vượt qua được không? Nhất là sau khi “tốt nghiệp” lại không được thăng quan tiến chức, vinh thân phì gia?

Càng tưởng tượng những gian nan vất vả mà Tổ Thủy Nguyệt đã vượt qua, ta càng cảm phục Ngài. Ta càng thấy sức mạnh của chân lý Phật giáo. Chân lý này, sức mạnh này chỉ được thể hiện trọn vẹn ở những con người thành tâm, nguyện hiến cả đời mình để hướng tới giác ngộ, đặng giúp đỡ chúng sinh thấm nhuần Phật pháp, bỏ ác làm thiện, bỏ xấu làm tốt, trăm họ muôn dân sống cuộc sống vui vẻ, an lành.

Tâm từ bi đã sớm thấm đẫm trong trái tim của Đệ nhị tổ Tông Diễn ngay từ khi còn nhỏ. Ngài sinh ra ở làng Phú Quân, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Năm 12 tuổi, được mẹ dặn ở nhà giã cua nấu canh. Nhìn những con cua nhỏ sắp bị giã nát, Ngài động lòng thương, đem đi thả hết. Sợ mẹ đánh đòn, Ngài trốn đi, đợi mẹ nguôi giận, sẽ quay về nhận tội. Trời xui đất khiến, Ngài gặp ngôi chùa, liền ngộ ra rằng đây mới chính là nơi ta cần đến.

Sau ba mươi năm miệt mài kinh luật, Thiền sư Tông Diễn về quê tìm mẹ, rước về sống trong một am cỏ gần chùa. Ngày ngày chăm nom báo hiếu.

Qua việc dâng biểu can gián nhà vua, cứu nhân độ thế, ta đã thấy hàm đủ đức Bi, Trí,  Dũng của Ngài.

Thường thì triều đình nào cũng có một Gián quan, góp ý, can gián vua những việc hàng ngày. Không phải viên Gián quan nào cũng làm tròn vai trò và trách nhiệm của mình. Gặp phải kẻ nịnh thần, nhà vua sẽ mắc nhiều sai trái, dân tình trăm họ sẽ oan khuất lầm than. Những điều tốt đẹp bị dập vùi, những cái xấu xa sẽ ngoi lên ngự trị.

Trước nguy cơ suy mạt của đạo Phật, nguy cơ lầm than của dân chúng, một tăng sĩ ẩn thân nơi núi cao rừng thẳm, ngày ngày làm bạn với hàng thông, khe suối, làm bạn với chim muông, hoa cỏ, không màng gì đến chính sự nơi triều đình, đã vận dụng hết trí tuệ và sự dũng cảm của mình, rời chốn trụ trì, quyết tìm cách can ngăn những sai lầm của nhà vua, đặng cứu Đạo Pháp và muôn dân trăm họ.

Đức Trí của Thiền sư Tông Diễn thể hiện ở chỗ bài biểu phải viết thế nào, hành văn phải uyển chuyển thế nào, lời lẽ phải nghiêm cẩn thế nào để không tỏ ra bất kính, không bị buộc vào tội khi quân. Lập luận thế nào để phân rõ trắng đen, phải trái để không những nhà vua mà tất cả các quan cận thần không bắt bẻ được. Đến nay, trải bao vật đổi sao dời, nhân loại ngày một tiến bộ mà tính bảo thủ trong mỗi con người chúng ta vẫn rất nặng nề. Huống hồ những năm tháng xa xưa ấy, những con người đầy uy quyền, tưởng mình biết tất cả ấy, đâu có dễ để người khác  thuyết phục.

Phải với trí tuệ siêu việt như thế nào, chỉ qua một tờ biểu ngắn, Thiền sư Tông Diễn đã ngay lập tức thuyết phục được nhà vua và cả triều đình. Đấy là cái Đại Trí của một bậc chân tu, bậc đại sĩ.

Tiếp xúc với vua như tiếp xúc với mặt trời. Chỉ một sơ xuất nhỏ, không chỉ bản thân bị buộc tội, chịu những hình phạt nặng nề mà cha mẹ, gia đình, dòng họ cũng chịu tội lây.

Biết là nguy hiểm khôn lường, tai họa khôn lường, không chỉ cho mình mà còn giáng xuống đầu các dòng họ nội ngoại. Không chỉ mình bị hình phạt nặng nề mà đạo Phật với biết bao nhiêu chùa chiền, sư sãi trên đất nước này sẽ bị giáng tội, thậm chí xóa sổ.

Vậy mà, vượt qua những đe dọa khủng khiếp ấy, Thiền sư Tông Diễn đã đem hết tài năng, trí tuệ của mình quyết chí can gián nhà vua bỏ điều sai, làm điều đúng.

Chỉ riêng việc cho biểu vào hộp rồi báo rằng có kẻ dâng ngọc quí cũng đủ chết oan mấy đời chứ chưa nói gì đến nội dung tờ biểu. Thật xứng danh Bồ tát Vô sở úy, vì an lành, lợi lạc chúng sinh.

Ở đây ta thấy như có nhân duyên, trời xui đất khiến, Thiền sư Tông Diễn đã gặp được một đấng minh quân, một đấng vua hiền.      

Chính vua Lê Hy Tông cũng là một tấm gương sáng của sự chuyển mê khai ngộ. Có được sự thức tỉnh ấy, chắc rằng nhà vua đã gieo duyên lành nhiều kiếp, Phật pháp thấm nhuần.

Chỉ khi hội đủ ba đức lớn Bi, Trí, Dũng, một vị hoàng đế mới có thể thành tâm sám hối tới mức cho tạc tượng mình quì mọp, đội tượng Phật trên lưng!

Bức tượng này hiện còn trên khám thờ tại chùa Hòe Nhai, tức chùa Hồng Phúc ngày nay, số 19 phố Hàng Than, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình Hà Nội.

Mới đây, chùa Thánh Quang Nhẫm Dương cũng đúc biểu tượng này thờ tại Tổ đình.

Xưa nay, ông vua nào cũng coi mình là con Trời, thay trời chăn dắt muôn dân. Đình chùa miếu mạo nào nếu không có sắc phong, công nhận của nhà vua thì coi như vô thừa nhận, như những công trình tự phát của dân chúng mà thôi.

Trong dân gian còn lưu truyền câu chuyện về một chàng trai có chân mệnh đế vương. Khi còn nương náu trong một ngôi chùa, lúc lau chùi các bức tượng, chàng thanh niên bảo tượng rằng: Đứng lên cho tôi lau. Bức tượng đứng lên ngay, đã nói nên uy quyền của nhà vua như thế nào.

Qua đó ta càng thấy vua Lê Hy Tông đã giác ngộ đến mức độ nào, đã hội đủ Tam yếu đức của nhà Phật như thế nào.

Công lao giáo hóa này không phải của ai khác, chính là của hai vị Đại sĩ Bồ tát Thiền phái Tào Động Việt Nam nói chung, xứ Đông nói riêng: Hai Đại thiền sư Thủy Nguyệt và Tông Diễn. Chính hai Ngài đã có công chấn hưng Phật giáo thời hậu Lê phát triển không kém gì thời Lý, thời Trần.

Nhờ có Tam yếu đức của hai vị Thủy tổ của Thiền phái Tào Động, đạo Phật trên đất nước ta lại được phục hồi, mở mang rộng khắp, ngày một hoằng dương cho đến tận ngày nay và mãi mãi mai sau.

Chúng ta kính cẩn nghiêng mình tri ân công đức các tiền nhân, các Thủy tổ của Thiền phái Tào Động và Chư Tổ, nguyện góp phần hoằng dương đạo pháp đến mọi chúng sinh, để muôn nhà đều thấm nhuần lời dạy của Phật Tổ, làm lành, tránh ác, trăm họ yên vui, đất nước thanh bình.

Lâu nay, chúng ta trăn trở về việc giữ gìn, tôn tạo các di sản văn hóa-lịch sử nói chung, di sản Phật giáo nói riêng. Đây là công việc không phải của riêng dân tộc nào, đất nước nào, tôn giáo nào. Đã là con người đều phải bảo vệ những tinh hoa văn hóa của cha ông để lại.

Có điều, việc bảo vệ, tôn tạo các di sản của cha ông cũng vẫn phải hội đủ ba đức tính: Bi, Trí và Dũng.

Nếu giao công việc này vào tay những kẻ bất tài, tham lam, vô trí, vô dũng thì chúng ta sẽ gánh chịu những hậu quả không lường hết được.

Ở khu di tích Nhẫm Dương này, hang Ma, hang Bà Điền đã không còn dấu tích. Hang Dơi bị phá sập. Hang Thảo mất 2/3. Động Tổ, động Tĩnh Niệm cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Liệu chúng ta có tìm ra kẻ chỉ vì lợi ích vị  kỷ, trước mắt, đã đang tâm phá hoại biết bao di tích lịch sử, bao nhiêu danh lam thắng cảnh, bao nơi thờ tự tôn nghiêm, buộc chúng phải chịu trách nhiệm về tội ác này?

Nếu những người, những cơ quan có trách nhiệm không hội đủ ba đức Bi, Trí, Dũng thì tội ác có chịu dừng lại ở đây không? Hay ở một Hội thảo sắp tới, chúng ta lại phải đau đớn thông báo cho nhau rằng động này, hang kia, chùa nọ đã bị đánh sập tiếp rồi?

Ngoài ra, việc dâng biểu của Thiền sư Tông Diễn, còn cho ta thấy một khía cạnh vô cùng quan trọng mà rất dễ bị bỏ qua, đó là công cuộc nhập thế của đạo Phật không phải để đi theo, phụ thuộc vào cuộc sống xã hội mà phải  uốn nắn, hướng dẫn cuộc sống xã hội ấy vào con đường Chân, Thiện, Mỹ.

Chỉ có trên cơ sở Bi, Trí, Dũng và Chân, Thiện, Mỹ dân tộc ta mới có thể cất cánh bay lên cùng nhân loại tiến bộ trong nửa đầu thế kỷ 21 này.

Từ năm 1981, Phật giáo chúng ta đã có ngôi nhà chung suốt từ Bắc chí Nam. Đó là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Đây là cơ sở để chúng ta hoằng dương Phật pháp tới mọi chúng sinh mãi mãi trên đất nước thân yêu của chúng ta.

HP, tháng 11-2015



* Câu lạc bộ Hải Phòng học.

** Ủy viên Hội đồng Trị sự kiêm Phó trưởng ban thường Ban Hoằng pháp Trung ương giáo hội Phật giáo Việt Nam – Phó trưởng ban thường trực Ban Trị sự giáo hội Phật giáo Hải Phòng.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 18)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 17)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 16)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 80
    • Số lượt truy cập : 7268679