Thông tin

CHÙA HỘI KHÁNH Ở THỦ DẦU MỘT

CHÙA HỘI KHÁNH Ở THỦ DẦU MỘT

 

HỮU CHÍ

 


Mặt tiền chùa Hội Khánh

 

Chùa Hội Khánh là một ngôi chùa cổ Phật giáo được Đại Ngạn Thiền sư (thuộc dòng Lâm Tế) khai sơn năm Cảnh Hưng thứ 2, đời Lê Hiển Tông, tức năm Tân Dậu (1741) ở Thủ Dầu Một. Chùa hiện tại ở số 29 đường Chùa Hội Khánh, phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Chùa cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 25 km về phía Nam. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Lúc đầu, chùa được xây trên một ngọn đồi cao. Năm 1868, đời Tự Đức, do chùa bị hư hỏng nặng, Hòa thượng Chánh Đắc cho xây dựng chùa mới dưới chân đồi, cách vị trí cũ khoảng 100m. Chùa tọa lạc trên một vùng đất yên tĩnh với nhiều cây cối, đặc biệt có bốn cây dầu được trồng hơn một thế kỷ. Tuy đã được sửa chữa, trùng tu nhiều lần nhưng về cơ bản đây là ngôi chùa vẫn còn giữ được phần lớn kiến trúc ban đầu, không chỉ nổi tiếng về niên đại thành lập, giá trị kiến trúc nghệ thuật. Đến nay, chùa còn lưu giữ được nhiều cổ vật có giá trị cao về lịch sử văn hoá, tôn giáo, mỹ thuật, kể cả nhiều tự khí mộc bản, kinh sách, liễn đối, tài liệu, văn thơ, địa lý, y học cổ. Chùa Hội Khánh còn là một công trình điêu khắc chạm trổ tinh vi, khéo léo từng bộ phận, chi tiết trong nội thất như cột kèo, đầu dư, cửu võng, câu đối... Di tích trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1891, 1906, 1917, 1991,1999, năm 2004 trùng tu cổng chính. Vườn chùa có 9 ngôi bảo tháp, có giá trị mỹ thuật cao được trùng tu, tôn tạo vào năm 2006. Năm 2007, chùa xây dựng thêm ngôi tháp 7 tầng cao 27 mét và tái tạo lại Phật tích “Tứ động tâm”, gồm có: Vườn Lâm Tì Ni, Bồ Đề Đạo Tràng, Vườn Lộc Uyển, Ta La Song Thọ.

Nét nổi bật của ngôi cổ tự là giá trị phong phú về mặt lịch sử văn hoá, nghệ thuật kiến trúc, đặc biệt phần lớn những di tích, cổ vật hàng mấy trăm năm được bảo tồn lưu giữ cho đến nay. Chùa Hội Khánh còn được xem là ngôi chùa tiêu biểu cho đặc điểm chung của các ngôi chùa cổ ở Bình Dương: “Trong tỉnh có nhiều chùa cổ, đặc biệt ở đây là xứ sở của nghệ thuật, nên các chùa đều xây dựng theo quy mô đẹp, trong chùa có nhiều tác phẩm trang trí, nhất là hệ thống tượng thờ đạt tiêu chuẩn, không nơi nào có được”.

 

Cổng chùa Hội Khánh

Về cấu trúc, chùa gồm có: Tiền điện - Chánh điện - Giảng đường. Kiến trúc này có 92 cột gỗ quý, Đông lang và Tây lang bố trí theo kiểu “sắp đôi” nối liền nhau với kiến trúc “trùng thềm, trùng lương”. Đây là biến tấu đặc biệt trong kiến trúc theo truyền thống chùa cổ xứ Nam Kỳ. Chánh điện với kèo cột, vách gỗ và ba bộ cửa bức màn, còn có gần 100 tượng gỗ, các vị La Hán và thập điện Minh Vương dáng vẻ khác nhau được tạo bằng gỗ mít sơn son thép vàng. Đặc biệt, có hai bức phù điêu chạm hình 18 vị La Hán và các vị Bồ tát, tạo nên một công trình điêu khắc tuyệt mỹ, có giá trị nghệ thuật cao, mang đặc trưng của phong cách điêu khắc gỗ Bình Dương xưa. Đây là công trình mang dấu ấn những bàn tay tài nghệ độc đáo của lớp thợ xứ Thủ ở cuối thế kỷ XIX (trong đó phải kể đến các thợ có tay nghề giỏi như Trương Văn Cang, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Văn Xù, Sáu Nhồng, Chính Trí…). Đại hồng chung của chùa được đúc vào năm Quý Mùi (1883) do Bổn đạo Dương Văn Lúa hiến cúng.

Phần liễn đối, thơ văn còn lưu giữ phong phú, giá trị khó có ngôi chùa nào sánh kịp. Nơi chánh điện có những câu liễn đối tiêu biểu cho đạo vị thiền học được nhiều người nhắc đến:

Nhược thực nhược hư trúc ảnh tảo giai trần bất động

Thị không thị sắc nguyệt xuyên hải để thủy vô ngân

Dịch nghĩa:

Như thực như hư, bóng trúc quét thềm, bụi trần chẳng động;

Là không là sắc, ánh trăng xoáy biển, nước biển không nhồi.

Nói riêng về cảnh chùa ở đây cũng như nói chung về bốn thiền môn, ở ngoài tiền điện còn có ba bài thơ cảm tác “Hội Khánh tự hữu cảm thi” không chỉ có giá trị cao nói về sự tĩnh tâm, thanh tịnh của nhà Phật mà còn mang đậm phong cách tao nhã trong văn chương. Dưới đây xin trích lại phần diễn ý ra quốc ngữ đoạn cuối bài thơ:… “Giữa đám cỏ xanh dựng lên chùa như tại một cảnh tiên. Lòng vui rảo bước qua khu rừng khoe màu sắc. Đêm ở lại chùa cùng các tăng đàm đạo. Nơi Phật đường yên vắng ngồi tĩnh dưỡng. Im lặng tịnh tâm quay lại với chính mình. Bỗng hương huệ khó đưa nhiều nhà sư đến”.

Trong những năm 1923 - 1926, chùa Hội Khánh (Thủ Dầu Một) còn là nơi ẩn náu, quy tụ các nhân sĩ, nhà nho, nhà sư yêu nước cùng lập ra “Hội danh dự” với sự tham gia của chính Hoà thượng Từ Văn, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, cụ Tú Cúc… Mục đích của Hội là cổ vũ cho lối sống đề cao đạo đức, coi trọng danh dự và lòng yêu quý đồng bào đất nước.

 


Tháp Tổ Từ Vân

 

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chùa Hội Khánh là trụ sở Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Thủ Dầu Một, đã góp nhiều công sức tâm huyết kể cả xương máu của các nhà tu, Phật tử bổn chùa. Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân địa phương từ 1953, chùa là trụ sở Phật giáo yêu nước tỉnh Bình Dương và đến 1983, chùa Hội Khánh là trụ sở của Tỉnh Hội Phật giáo Bình Dương. Năm 1995, nơi đây Tỉnh hội xây dựng Trường cơ bản Phật học tỉnh Sông Bé (Bình Dương).

Hơn 250 năm qua, chùa được tiếp nối qua các đời trụ trì: Đại Ngạn - Từ Tấn, đời 37 dòng Liễu Quán (1741-1812), Minh Huệ - Chân Kính (1812-1839), Toàn Tánh - Chánh Đắc, đời 37 dòng Chúc Thánh (1839-1869), Chương Đắc - Trí Tập (1869-1884), Ấn Long - Thiện Quới (1884-1906), Chơn Thinh - Từ Văn (1906-1931), Ấn Bửu - Thiện Quới (1931-1941), Thị Huê - Thiện Hương (1941-1971), Đồng Bửu - Quảng Viên (1971-1988) và Nhựt Minh - Huệ Thông, đời 41 dòng Lâm Tế Gia Phổ. Đương nhiệm trụ trì là Hòa thượng Thích Huệ Thông - Nhật Minh (từ 1988 đến nay). Ngài cũng là Phó Tổng Thư ký kiêm Chánh Văn phòng 2 TW GHPGVN, Trưởng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Bình Dương. Ngoài Đại Ngạn Thiền sư, người khai sơn sáng lập chùa, có công hoằng pháp khá sớm ở địa phương này, còn phải kể đến Hòa thượng Từ Văn (1877 -1931) - Ngài đã đào tạo nhiều đệ tử tài đức có công đức với đạo pháp cũng như với dân tộc. Đặc biệt, không thể không nhắc đến nhà sư yêu nước là Hòa thượng Từ Tâm đã bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo năm 1940. Hoà thượng Từ Văn có nhiều công đức và uy tín xếp hàng đầu các danh tăng ở Nam Bộ. Năm 1920, người Pháp đã mời Ngài qua Pháp làm chủ lễ cầu siêu cho binh sĩ người Việt chết trận cho nước họ trong Thế chiến thứ nhất (1914 -1918). Cũng có tư liệu cho rằng Ngài được mời tham dự cuộc đấu xảo của các xứ thuộc địa Pháp tại Marseille cùng với một số mô hình kiến trúc phiên bản đình chùa.         

Ngày 12-8-2008 (nhằm 12 tháng Bảy năm Mậu Tý), chùa Hội Khánh đã tổ chức xây dựng một Phật đài quy mô lớn, đồng thời cũng là Trung tâm Văn hóa Phật giáo tỉnh Bình Dương, gồm một dãy nhà có chiều dài 64m, ngang 23m, cao 22m, dùng làm Trường Phật học, Thư viện… Tầng trên tôn trí một đại tượng Đức Bổn sư Thích Ca nhập Niết Bàn, cao 12m, dài 52m. Đây là một công trình mỹ thuật đáng tự hào của Phật giáo Bình Dương, được khánh thành trọng thể vào ngày Rằm tháng Hai năm Canh Dần (30-3-2010), mừng 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.

Công trình được bố trí trên diện tích 3.200m2 đất nằm trong khuôn viên rộng 13.000m2 của khu đất tổ chùa, do hai kiến trúc sư Phạm Văn Thịnh và Trần Văn Pháp vẽ bản thiết kế, điêu khắc gia Trần Quang Thái thực hiện. Điểm nhấn là tượng Đức Bổn sư Thích Ca nhập Niết Bàn, dài 52m, cao 12m được an vị trên độ cao cách mặt đất 24m giữa khu rừng dầu, sao gợi liên tưởng đến hình ảnh Phật Thích Ca nhập diệt trong rừng Tala Song Thọ cách đây trên 2.500 năm. Dưới chân bệ nằm của Đức Phật là 20 bức phù điêu thể hiện cuộc đời của Đức Phật từ lúc đản sinh đến lúc nhập Niết Bàn, quanh tượng Phật còn được trang trí bằng 840 cánh hoa sen đắp bằng xi-măng.

 


Tượng Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni cao 12m, dài 52m

 

Đây là một công trình tôn giáo mang tính chất lịch sử và mỹ thuật cao, được Tổ chức Kỷ lục châu Á tại Ấn Độ công nhận là tượng Phật nằm dài nhất châu Á, và là một công trình mỹ thuật đáng tự hào của Phật giáo Bình Dương. 

Nét nổi bật của ngôi cổ tự này là giá trị phong phú về mặt lịch sử văn hoá, nghệ thuật kiến trúc, đặc biệt phần lớn những di tích, cổ vật hàng mấy trăm năm được bảo tồn lưu giữ cho đến nay. Chùa Hội Khánh còn được xem là ngôi chùa tiêu biểu cho đặc điểm chung của các ngôi chùa cổ ở Bình Dương

Với bề dày về lịch sử, tôn giáo, kiến trúc mỹ thuật và truyền thống yêu nước gắn bó giữa đạo pháp và dân tộc, chùa được công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia ngày 07/01/1993.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 75
    • Số lượt truy cập : 6797714