Thông tin

CHÚA NGUYỄN PHÚC CHU VỚI PHẬT GIÁO ĐÀNG TRONG

 

ĐINH KHẮC THUÂN*

 

Nguyễn Phúc Chu sinh năm Ất Mão (1675), lên ngôi Chúa năm 17 tuổi, ở ngôi 34 năm, mất vào tháng 4 năm Ất Tỵ (1725), hưởng dương 51 tuổi. Chúa là con trưởng của chúa Nguyễn Phúc Thái và mẹ họ Tống, người ở Qúy Huyện, thuộc trấn Thanh Hoa, là vị chúa tài ba nhất trong số chín đời chúa Nguyễn. Chúa là người tài đức, có nhiều công lao trong công cuộc mở rộng đất nước về phía Nam, cũng như phát triển quân sự, kinh tế và văn hóa tín ngưỡng dưới thời các chúa Nguyễn.

1. Nguồn tài liệu

Mặc dù phải bề bộn bởi công việc triều chính, song Chúa Nguyễn Phúc Chu thường xuyên tham gia và khuyến khích việc xây dựng, trùng tu chùa Phật. Tư liệu còn lại không nhiều, song qua nguồn sử liệu, mà cụ thể là những ghi chép trong Đại Nam thực lục, bộ quốc sử quán triều Nguyễn và tư liệu văn bia, có thể phác thảo về các hoạt động này của Nguyễn Phúc Chu.

(Năm Canh Dần: 1710) Đúc chuông chùa Thiên Mụ. Chúa thân làm bài minh khắc vào chuông (Đại Nam thực lục, tr.125).

(Năm Giáp Ngọ: 1714) Mùa Hạ, tháng 6 trùng tu chùa Thiên Mụ. Sai bọn chưởng cơ Tống Đức Đại trông nom công việc. Quy chế thì bắt đầu từ cổng chùa đến điện Thiên vương, điện Ngọc hoàng, điện Đại hùng, nhà Thuyết pháp, lầu tàng kinh, hai bên là lầu chuông, lầu trống, điện Thập vương, nhà Vân thủy, nhà Tri vị, nhà Thiền đường, điện Đại Bi, điện Dược sư và phòng tăng nhà thiền có tới vài mươi sở, mà phía sau các nơi phương trượng trong vườn Côn Gia cũng không kém vài mươi sở, đều là rực rỡ chói lọi, làm tới một năm mới xong. Chúa thân chế bài văn bia để ghi, sai người sang nước Thanh mua kinh Đại Tạng, cùng luật và luận hơn nghìn bộ, để ở tự viện. Phía trước chùa kề sông, dựng đài câu. Chúa thường ra chơi. Bấy giờ nhà sư ở Chiết Tây tên là Đại Sán tự Thạch Liêm, vì thiền mà được yêu dùng, sau về Quảng Đông, lấy những gỗ quý chúa ban cho mà dựng chùa Trường Thọ, nay di tích vẫn còn.

Mùa thu, tháng 7 mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ. Chúa ăn chay ở vườn Côn Gia một tháng, phát tiền gạo chẩn cấp cho người nghèo thiếu. Phiên vương Thuận Thành là Kế Bà tử cũng đem con và tướng tới hội, chúa ban yến rất hậu, phong cho ba người con là Phù Xác, Phúc Xác và Tỳ Thôn Phù tước hầu. (Đại Nam..., tr.130).

Bên cạnh tài liệu thư tịch này, tài liệu văn bia hiện còn phản ánh khá cụ thể những hoạt động trên của chúa Nguyễn Phúc Chu.

Chuông chùa Thiên Mụ hiện còn, là báu vật, là một tuyệt tác về quy mô và kỹ thuật đúc chuông đồng. Chuông cao 2,5m, nặng tới 3.285 cân xưa. Trên chuông khắc đoạn minh văn bằng chữ Hán, nội dung cho biết:

"Đại Việt Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu, Tào Động thượng chánh tăng, tam thập đại, pháp danh Hưng Long chú tạo hồng chung. Trọng tam thiên nhị bách bát thập ngũ cân, nhập vu Ngự kiến Thiên Mụ thiền tự, vĩnh viễn cung phụng Tam bảo. Duy nguyện phong điền vũ thuận, quốc thái dân an, Pháp giới chúng sinh đồng viên chủng trí. Vĩnh Thịnh lục niên tuế thứ Canh Dần tứ nguyệt, Phật đản nhật kính tạo".

Nghĩa là: Quốc chúa Ðại Việt Nguyễn Phúc Chu, nối dòng Tào Ðộng Chánh Tông đời thứ ba mươi, pháp danh Hưng Long, đúc chuông lớn. Chuông nặng 3.285 cân, an trí ở chùa Thiên Mụ Thiền tự để vĩnh viễn cung phụng Tam Bảo. Cầu nguyện gió hòa mưa thuận, quốc thái dân an, chúng sinh trong pháp giới đều được vẹn toàn trí tuệ. Chuông đúc vào ngày Phật đản tháng tư năm Canh Dần niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710). 

Cũng tại chùa này, hiện có một văn bia (kí hiệu thác bản: 5703) có tiêu đề là Sắc tứ, dựng năm Bảo Thái thứ 10 (1729) ghi lại sự kiện Chúa Nguyễn mời các nhà  sư và nghênh đón pháp khí về trì tụng. Bia to, trang trọng, trán bia có 2 chữ đại tự Sắc tứ, bên phải cột đầu tiên có 4 chữ đại tự Đại Việt Quốc vương, phía bên trái khắc ấn quốc vương “Đại Việt quốc vương chi ấn”.  

Cũng nhân sự kiện mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ, năm Ất mùi (1715), chúa Nguyễn Phúc Chu đã đề bài minh về Thiền sư Thạch Liêm sau đây:

Việt chi Nam hề trú thủy trú sơn

Báo sát chi tráng hề nhật chiếu thiền quan

Tính chi thanh tịnh hề khê hướng sằn sằn

Quốc chi điện an hề tứ canh u nhàn

Vô vi chi hóa hề Nho Thích đồng ban

Ký tư thắng khái hề nhân quả bồi hoàn

Kiến tiêu lập đích hề thành tồn tà nhàn.

Nghĩa là:

Ðất Việt phương Nam chừ, có nước có non

Bảo xá tráng lệ chừ, mặt trời chiếu rạng

Tự tĩnh thanh tịnh chừ, suối tuôn một ngọn

Quốc gia an định chừ, Nho Thích cùng ban

Ghi cảnh đẹp này chừ, nhân quả tuần hoàn

Dựng bia lưu dấu chừ, chính giữ tà an.

Ngoài chùa Thiên Mụ ra, chúa Nguyễn Phúc Chu còn tham gia trùng tu nhiều ngôi chùa khác, hiện còn được ghi lại trên một số văn bia ở đây. Chẳng hạn, chùa Bình Trung huyện Do Linh (tên cũ là Minh Linh, sau là Bến Hải) tỉnh Quảng Trị. Chùa do Tham chính hầu Trần Đình Ân (1626-1706) dựng. Trước chùa có bia công thần, ghi sự nghiệp của Trần Đình Ân, do chúa Nguyễn Phúc Chu sai dựng.

Mới lên ngôi một năm, chúa đã cho sửa chùa Thánh Duyên trên núi Thúy Vân, xã Hà Trung, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trải thời gian hư hại, đến năm Minh Mệnh thứ 6 (1837) xây dựng lại, có gác Đại Từ và tháp Ngự.

Ở Đàng Trong, thời kỳ này có một số văn bia chùa khá sớm. Chẳng hạn, tại chùa Phổ Khánh, xã Mật Nghĩa, huyện Đại Lộc (khi đó là huyện An Nông phủ Điện Bàn xứ Quảng Nam), hiện còn một văn bia Phổ Khánh tự (kí hiệu thác bản 20377), dựng năm Mậu Ngọ, niên hiệu Vĩnh Trị thứ 3 (1678), ghi việc cúng ruộng làm của Tam bảo chùa, gồm trên 10 mẫu.

Chùa Phổ Bàn, xã Đông Phan, huyện Điện Bàn (khi dựng bia là huyện Thăng Hoa xứ Quảng Nam) có văn bia Lưu Ly tự bi (kí hiệu 20383) ghi việc đúc chuông lớn và cúng ruộng chùa vào năm Bảo Thái thứ 3 (1722).

Chùa phủ Điện Bàn, xứ Quảng Nam có văn bia (không có tiêu đề, kí hiệu 20399), dựng năm Thiên vận Canh Ngọ (1690), ghi việc mở rộng quy mô chùa và cúng ruộng vào chùa.

Chùa Long Thủy, xã Nội Phủ, huyện Tân Phúc, phủ Điện Bàn, xứ Quảng Nam, có văn bia Long Thủy tự bi (kí hiệu 20417), dựng năm Chính Hòa thứ 23 (1722), ghi việc tu sửa chùa và cúng ruộng làm của Tam bảo chùa này.

Chùa Thủ Long, thuộc xã Nại Hiên, huyện Tân Phúc, phủ Điện Bàn, xứ Quảng Nam, có bia Lập thạch Thủ Long tự (kí hiệu 14248), dựng năm Thịnh Đức thứ 5 (1657), ghi ruộng cúng vào chùa.

Đây là những văn bia ghi về việc xây dựng, mở rộng quy mô chùa Phật, thời kỳ du nhập thiền phái Tào Động ở Đàng Trong, trước và trong thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Chu trị vì.

Tài liệu địa chí cũng cho biết, chúa Nguyễn Phúc Chu từng cấp nhiều ruộng đất làm ruộng Tam bảo ở chùa Phật, cũng như làm đất hương hỏa khác. Chẳng hạn, năm 1716 chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu cấp 10 mẫu tự điền cho đền Cống Quận công Trần Đức Hòa (Phó tướng đạo Quảng Nam) ở thôn Bồ Đề, huyện Bồng Sơn nay là huyện Hoài Nhơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Chùa Tam Thai thuộc dãy Ngũ Hành Sơn, nay thuộc quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng. Cạnh chùa về phía Nam, có Vọng Giang đài, chúa Nguyễn Phúc Chu từng đến thị sát và đề thơ ở chùa này:

Phiên âm:

Tam Thai tự thính triều

Kỳ tú Tam Thai tùng bích phong

Trung hư ngoại hữu bạch vân phong

Nha Lai việt hải vân xuân lãng

Tự tại Bà Dương thính thạch chung

Bất  đoạn phong thanh bôn bạch mã

Hoàn nghi vũ sắc khởi thương long

Dục tẩm thanh mộng hà tằng trứ

Hướng triệt nham tiền kỷ thụ tàng

Nghĩa là:

Nghe tiếng sóng chùa Tam Thai

Núi Tam Thai đẹp lạ nổi lên ngọn biếc

Giữa hư không, mây trắng bao bọc bên ngoài

Như Lai vượt bể nghe tiếng sóng xuân

Giữa sông hồ lảnh vang chuông đá

Gió nổi không ngừng như ngựa trắng phi

Màu mưa dăng như hiện ra rồng xanh

Muốn tìm giấc mộng xanh chưa từng thấy

Âm thanh tràn khắp, trước bờ đá mấy cây thông.

(Quảng Nam tỉnh chí lược A.268, tờ 11).

Như vậy, nguồn sử liệu về chúa Nguyễn Phúc Chu trong các hoạt động liên quan đến Phật giáo ở Đàng Trong tuy không nhiều, song cũng khá phong phú. Tài liệu này cho biết chúa đã tham gia xây dựng, tu bổ nhiều ngôi chùa ở đây, tiêu biểu là chùa Thiên Mụ. Chùa khá lớn, có cả nơi cất giữ ở Tàng Kinh Lâu. Đồng thời, tư liệu cho biết chúa Nguyễn Phúc Chu là người rất mộ đạo Phật, được thọ Bồ Tát giới, có Pháp danh Hưng Long, đạo hiệu Thiên Túng Ðạo Nhân.

2. Chánh tông Tào Động Nguyễn Phúc Chu

Nguồn tài liệu nêu trên đề cập đến sự kiện chúa Nguyễn Phúc Chu là đời thứ ba mươi Chánh tông Tào Ðộng, từng nghe Thiền sư Thạch Liêm trì tụng và thụ giới. Vậy những nội dung và tư tưởng Phật giáo mà Chánh tông Tào Động Nguyễn Phúc Chu lĩnh hội được là gì?

Thiền phái Tào Ðộng được truyền vào Ðại Việt từ thế kỷ thứ mười bảy, cả ở Ðàng Ngoài lẫn Ðàng Trong. Ở Ðàng Trong Ðại Việt, người đầu tiên truyền bá thiền Tào Ðộng là thiền sư Hưng Liên, được tôn làm quốc sư. Sau đó, là thiền sư Thạch Liêm hiệu Ðại Sán (1633-1704), được chúa Nguyễn Phúc Chu mời đến năm Ất Hợi (1695). Hoạt động nổi bật nhất của Thạch Liêm ở Đàng Trong là tổ chức giới đàn Thiền Lâm. Giới đàn này tổ chức từ mồng một đến ngày mười hai tháng tư năm Ất Hợi này. Giới đàn có đến ba ngàn giới tử, trong đó số giới tử xuất gia lên tới 1.400 vị, vừa tỳ khưu vừa sa di. Trong giới đàn này, Thiền sư làm lễ trao Bồ Tát giới cho chúa Nguyễn Phúc Chu, quốc mẫu, công chúa và quyến thuộc trong nội cung. Tiếp đó, làm lễ truyền giới Bồ Tát cho chư tăng.

Trong giới đàn này, giới điệp cấp phát cho giới tử đều được đóng kèm ấn của phủ chúa, đó là "Đại Việt Quốc Vương chi ấn". Ấn này cũng được khắc trên bia Sắc tứ ở chùa Thiên Mụ, như vừa nêu ở trên.

Giới đàn Thiền Lâm có một tầm quan trọng lớn, bởi đây là một giới đàn tổ chức cho cả nước, có giới tử khắp nơi ở Đàng Trong về thụ giới. Vì thế, phái Tào Ðộng trước kia chỉ có ảnh hưởng ở Quảng Nam, thì kể từ đây đã lan ra khắp xứ.

Chúa Nguyễn Phúc Chu rất khâm phục đạo đức và kiến thức của Thạch Liêm và Thạch Liêm đã ảnh hưởng tới ông rất nhiều về quan niệm tu hành. Sử liệu cho biết, một lần thấy Thạch Liêm trì chú thấy trời đang mưa nhiều ngày bỗng tạnh, mà nài nỉ học cho được những bài chú đó. Thạch Liêm nói rằng quan trọng không phải là ở bài chú, mà là ở người trì chú; người trì chú có thanh tịnh và đức độ thì trì chú mới linh nghiệm. Rồi, thay vì truyền cho chúa bài chú, thiền sư đưa cho một bản điều trần mười tám điểm về việc trị nước theo tinh thần Phật giáo, ý nói rằng làm đúng được nhiều điều kia thì phong điều vũ thuận, cũng linh nghiệm bằng sự trì chú.

Một lần khác, khi chúa thỉnh Thạch Liêm và chư tăng chùa Thiền Lâm khai đàn tụng thần chú Ðại Bi, và muốn tự mình trai giới thanh tịnh để được tham dự. Hỏi ý Thạch Liêm nên làm như thế nào, thì thiền sư nói rằng sự trai giới của một ông vua không thể giống như người thường dân. Thiền sư nói: "Trai giới không phải chỉ để cho sạch miệng sạch mình và sạch tư tưởng mà thôi đâu. Trai giới là làm cho quốc gia từ trên tới dưới được thanh lý chỉnh tề, không một người nào không ngồi đúng chỗ, không một việc nào không giải quyết thỏa đáng; Làm được như thế mới là sự trai giới viên mãn của một ông vua". Thiền sư Thạch Liêm, sau đó đề nghị chúa trai giới bằng cách: trả tự do cho những người bị giam cầm oan ức, phóng thích bớt những tù nhân trong ngục thất, chẩn cấp cho kẻ nghèo đói, tháo gỡ cho những người bị đè nén ép uổng, bãi bỏ bớt những luật lệ quá nghiêm khắc, dễ dãi cho người buôn thúng bán bưng và cho thợ thuyền.

Một lần khác, Thạch Liêm nghe nói đến một lối hình phạt được sử dụng tại Ðàng Trong gọi là tượng hình: bắt tù trọng phạm giao cho voi quật. Voi nhồi phạm nhân lên cao mấy trượng, rồi lấy ngà xốc đỡ, ngà voi thủng gan ruột, phạm nhân chết liền. Thiền sư bèn khuyên chúa Nguyễn bỏ hình phạt ấy. Chúa Nguyễn nghe lời.

Vì sự trân trọng tâm đức của Thiền sư, mà hầu hết những lời khuyên can của Thiền sư đều được nhà Chúa tâm đắc. Thạch Liêm từng chỉ ra rằng: "...Trong triều có nhiều bậc hiền lương chính trực biết lấy trung hiếu tiết nghĩa mà giáo hóa, khiến thiên hạ vui lòng làm việc thiện, bốn phương hòa bình, nhà tù bỏ trống... ". Tư tưởng này đã ảnh hưởng nhiều đến chính sách tôn giáo của chúa Nguyễn Phúc Chu. Vì thế, thay vì thanh lọc tăng già bằng những cuộc bắt bớ hay thi cử, triều đình chú trọng đến việc nâng cao uy tín các bậc chân tu địa phương, bằng cách ban biển ngạch sắc tứ và câu đối cho những chùa nơi họ hành đạo. Điều này được tư liệu văn bia và thư tịch phản ánh khá cụ thể, như vừa nêu ở trên. Vì thế, chùa Phật ở Đàng Trong luôn được tu sửa, xây dựng với sự tham gia của thập phương công đức, trong đó có các chúa Nguyễn và hoàng tộc.

Có thể nói rằng, tư tưởng Phật giáo giai đoạn này, dưới thời Nguyễn Phúc Chu là không tách rời niềm tin với cuộc sống thực tế, luôn cầu mong quốc thái dân an, phong điền vũ thuận, tức là mong đất nước thái bình yên ổn, nhân dân sống hạnh phúc, cầu mong mưa thuận gió hòa, để mùa màng tốt tươi. Đó cũng là chí hướng mà vị quốc vương này hằng mong ước, được thể hiện trên bài minh chùa Thiên Mụ, khắc năm 1710:"Duy nguyện phong điều vũ thuận, quốc thái dân an, pháp giới chúng sinh đồng viên chủng trí", (Nguyện cầu gió hòa mưa thuận, nước thịnh dân an, chúng sinh trong pháp giới đều được vẹn toàn trí tuệ).

Với 34 năm cầm quyền, Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu có công lao to lớn, góp phần vào việc mở mang đất nước, phát triển Phật pháp, cũng như thực hiện nhiều tiến bộ về xã hội ở Đàng Trong  vào đầu thế kỷ 17.

 

PHỤ LỤC ẢNH BIA

 

  

Bia Sắc tứ “Đại Việt quốc vương chi ấn”

 

 

Bia Long Thủy tự bi (Quảng Nam)

 

Bia Phổ Khánh tự (Quảng Nam)

 

Bia Lập thạch bi Thủ Long tự (Quảng Nam)



* Phó giáo sư, Tiến sĩ, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 20
    • Số lượt truy cập : 6057589