CHÙA PHẬT TÍCH -
MỘT TRUNG TÂM TÍN NGƯỠNG TỊNH ĐỘ THỜI LÝ
NGUYỄN VĂN QUÝ*
1. Vài nét về pho tượng đức Phật Adiđà
Ở bài viết này, chúng tôi xin không nhắc lại lịch sử ngôi chùa Phật Tích và cũng chỉ nêu vài nét khảo tả về pho tượng đức Phật Adiđà hiện được thờ phụng tại chùa Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Theo truyền tụng của nhân dân địa phương thì trước đây ở chùa Phật Tích có một tòa tháp cổ rất lớn, khi tháp bị đổ thì phát lộ một pho tượng Phật bằng đá. Nội dung bài văn khắc trên tấm bia Vạn Phúc đại thiền tự bi niên hiệu Chính Hòa thứ 7 (1687) đời vua Lê Hy Tông có viết về sự kiện này: Vua thứ ba triều Lý, năm Long Thụy Thái Bình 4 (tức năm 1057) cất lên cây tháp quí cao nghìn trượng, lại dựng lập pho tượng mình vàng cao sáu xích… Còn sách Đại Nam nhất thống chí chép: “ở núi Lạn Kha xã Phật Tích, huyện Tiên Du, chùa Vạn Phúc dựng từ thời Lý Thánh Tông (1054 - 1072), trong chùa có một tượng đá cao 5 thước, to 6 thước. Hàng năm, cứ đến ngày mùng 4 tháng Giêng mở hội xem hoa, nhiều người đến dâng hương lễ Phật”[1].
Như vậy, pho tượng đá cao 6 xích hay cao 5 thước, to 6 thước được nhắc đến trong tấm bia Vạn Phúc đại thiền tự bi và Đại Nam nhất thống chí chính là tượng đức Phật Adiđà mà hiện nay đang được lưu giữ, thờ phụng tại chùa Phật Tích có niên đại triều vua Lý Thánh Tông. Pho tượng này được các nhà nghiên cứu coi là điển hình của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam và có niên đại sớm nhất nước ta còn tương đối nguyên vẹn.
Tượng Phật Adiđà tạc bằng đá xanh nguyên khối, ngồi kiết già trên đài sen, cao 187cm, bệ tượng cao 90 cm được chạm tinh xảo và mềm mại. Theo GS. Trần Lâm Biền[2], tượng có nhiều nét ảnh hưởng của nền nghệ thuật Gandhâra[3] với các nếp áo phía trước chạm những đường cong nổi chạy chéo xuống còn các nếp áo phía sau lưng lại chéo từ vai trái xuống rồi lượn cong bên sườn phải. Các cụm tóc nhỏ xoắn ốc, tai lớn dài biểu hiện cho sự cao quý, mắt khép hờ nhìn xuống, lông mày cong, sống mũi thẳng, miệng mỉm cười. Tượng ngồi trong tư thế kiết già, mình mặc áo cà sa bao gồm “thiên y” ở trong và một “la bào” khoác nhẹ qua vai. Ngực tượng rộng, bụng thon vừa phải, thân mỏng, cao, hơi cúi về phía trước…
Tác giả Trần Mạnh Phú cũng có điểm nhìn và nhận xét rất tinh tế như sau: “Thân hình toát lên cái đẹp hoàn toàn nữ tính. Khuôn mặt thanh khiết, với vầng trán đều đặn, với đôi lông mày mảnh và cong, với đôi mắt mơ màng hơi cúi nhìn. Mũi thẳng. Miệng nhỏ thoảng một nụ cười kín đáo. Với đôi má bầu bĩnh, với cổ cao thon ba ngấn, khuôn mặt đức Phật Adiđà thật đẹp, thật đôn hậu”[4].
Bệ đá hình hoa sen cao 90 cm, chia làm 2 phần: Phần trên chạm khắc trang trí hình rồng, hoa cúc dây tinh tế, mềm mại. Phần dưới là hoa văn hình sóng nước. Đài sen phía trên có đường kính 132 cm với hai lớp cánh sen, mỗi lớp 15 cánh xoè rộng chạm hình rồng, mây. Các đường diềm xung quanh được trang trí các hoạ tiết sóng nước tạo sự nhẹ nhàng cho cả bức tượng.
Được xem là một tác phẩm tiêu biểu của triều Lý, tượng đức Phật Adiđà đã được dùng làm mẫu trong việc dựng đại Phật tượng nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội trên núi Phật Tích và đạt kỷ lục là pho tượng Phật bằng đá lớn nhất Đông Nam Á.
2. Trung tâm tín ngưỡng Tịnh độ thời Lý
Dẫu còn nhiều ý kiến khác nhau xung quanh pho tượng đức Phật Adiđà[5], nhưng với sự hiện diện của Ngài là một minh chứng cho thời kỳ tín ngưỡng Tịnh độ phát triển mạnh mẽ thời Lý, mà trong đó, ngôi chùa Phật Tích là một trung tâm để tín ngưỡng này phát triển.
Trong những thế kỷ đầu Công nguyên, vùng đất Tiên Du đã chứng kiến sự hình thành một trung tâm Phật giáo đầu tiên ở nước ta, đó là Luy Lâu – Dâu. Có thể, vào thời gian nhà sư Đàm Hoằng thế kỷ V đến chùa Tiêu Sơn[6] tu tập thì tại núi Lạn Kha cũng dần hình thành một ngôi chùa. Và đến triều Lý (1010-1225) thì chùa này mới được xây dựng qui mô lớn, đó là chùa Phật Tích ngày nay. Một điều hiển nhiên, các ngôi chùa ở Kinh Bắc được nhà Lý ưu ái hơn so với các vùng khác trong việc xây dựng và trùng tu, vì đó là quê hương của các vị vua triều Lý. Nhưng đối với riêng chùa Phật Tích, việc vua Lý Thánh Tông cho tạc tượng đức Phật Adiđà hẳn phải là một sự quan tâm đặc biệt của đấng quân vương về tín ngưỡng Tịnh độ, và chùa Phật Tích trở thành một trung tâm của tín ngưỡng Tịnh độ bấy giờ.
Như đã biết, đức Phật Adiđà (Amitàbha – Buddha) là “một trong những vị Phật quan trọng nhất của Phật giáo Đại thừa”[7]. Ngài được tôn thờ trong các ngôi chùa tại Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản. Đức Phật Adiđà là chủ cõi Tây phương cực lạc, là vị Phật của đời sau, của thế giới bên kia[8]. Ngài tượng trưng cho sự giải thoát và hướng con người đến một đời sống vĩnh cửu. Hình tượng của ngài còn được quan niệm tương ứng với vị thần mặt trời Zurvan Akaranak của Iran[9].
Pháp môn Tịnh độ[10] nhấn mạnh vào đức tin, sự cứu độ của Phật Adiđà, chú trọng đến tha lực, nhờ Phật lực mà được tái sinh về Tây phương cực lạc. Vì thế, pháp môn này đáp ứng được nhu cầu của mọi người, mọi giai tầng trong xã hội, không phân biệt người giàu người nghèo, bậc thượng căn hay hạ căn về một đời sống vĩnh cửu không còn khổ đau. Nền tảng giáo lý của pháp môn Tịnh độ dựa trên ba bộ kinh tạng chính là Vô lượng thọ, Quán Vô lượng thọ và Adiđà cùng một bộ Vãng sinh Tịnh độ luận. Phương pháp tu tập chủ yếu là xưng niệm hay tâm niệm Di đà lục tự.
Theo Phật sử, pháp môn Tịnh độ đã được sơ khai ở Ấn Độ, nhưng phải đến Mã Minh[11], Long Thọ[12] thì tư tưởng Tịnh độ mới hoàn chỉnh, tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển của pháp môn này về sau. Theo PGS. Nguyễn Duy Hinh, xét về mặt kinh tạng thì “chỉ với kinh Pháp Hoa và kinh Adiđà thì tư tưởng cứu độ mới toàn vẹn, thay vì lên Niết bàn chúng sinh được cứu vớt lên cõi Cực lạc. Đó là tinh thần cơ bản của tông Tịnh độ:”[13]. Tuy nhiên, pháp môn Tịnh độ bước đầu phát triển không đáng kể ở Ấn Độ, cho nên khi nói về sự phát triển của pháp môn này thì phải nói tới Trung Quốc. Điểm khởi đầu được các nhà nghiên cứu cho là trong khoảng thời gian từ năm 70 – 50 trước Công nguyên[14] đến khoảng những năm 148 đến năm 170, một cao tăng người An Tức là An Thế Cao và một người xứ Nguyệt Chi tên An Huyền đến Trung Quốc lập tự viện ở Lạc Dương.
Việc thờ kính Phật Adiđà cũng bắt đầu từ đây và dần dần tín ngưỡng này trở lên phổ biến hơn nhờ “vào các bản dịch của một vị hoàng tử nước An Tức”[15] sau đó là các của Cư sĩ Chí Khiêm thời Tôn Quyền (182 – 252) dịch kinh Đại A di đà; Khương Tăng Ngãi dịch kinh Vô lượng thọ thời Ngụy (216 - 265); Cương Lương Da Xá thế kỷ V dịch kinh Quán Vô lượng thọ… Tức là phải từ thế kỷ thứ III trở đi thì kinh tạng Tịnh độ mới xuất hiện trọn vẹn. Mặt khác, trong hệ thống kinh tạng Đại thừa cũng có nhiều lời ngợi ca tư tưởng của pháp môn này.
Theo sách Lịch sử Phật giáo do Nguyễn Tuệ Chân biên dịch thì Tông Hiểu (1151 – 1214) trong tác phẩm Lạc bang văn loại đã đề cử Đông Tấn Lô Sơn Huệ Viễn[16] là vị Tổ đầu tiên của tông Tịnh độ và sau nhiều lần bổ sung, gần đây đã suy tôn được mười ba vị cao tăng là tổ sư của pháp môn này.
Đối với tín ngưỡng Tịnh độ ở Việt Nam. Cho đến nay giới nghiên cứu Phật học đều nhất trí, với giai đoạn đầu truyền nhập của Phật giáo vào Việt Nam chỉ có thể tạm xác nhận thời kỳ đầu do các nhà sư Ấn Độ từ đường biển trực tiếp truyền vào đất Việt tạo lên một trung tâm Phật giáo ở Luy Lâu. Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, vào thời Sỹ Nhiếp khoảng năm 187 – 226 công nguyên có nhiều cao tăng đến đây truyền đạo như Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực, như vậy đạo Phật đã có chỗ đứng khá vững chắc tại Luy Lâu. Liên quan đến vấn đề này còn thấy truyện Man Nương trong Lĩnh Nam Trích Quái còn cho thấy ngay từ buổi đầu Phật giáo đã kết hợp với tín ngưỡng bản địa để cho một số thần linh nông nghiệp hóa thân thành Phật và “Sơn môn Dâu trội về tín ngưỡng hơn triết lý và sau này đó là cái nền chung của Phật giáo Việt Nam”[17]. Giai đoạn này ở nước ta còn có các nhà lý luận Phật học nổi tiếng như Mâu Tử, Khương Tăng Hội... Thiền uyển tập anh cho biết thêm sự kiện khi Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu hỏi các cao tăng về Phật giáo Việt Nam vào mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1016) khi bà đến Quốc tự. Quốc sư Thông Biện đã dẫn lời Đàm Thiên trả lời: “Một phương Giao châu, đường thông Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 500 người, dịch kinh 15 quyển, vì nó có trước vậy. Vào lúc ấy thì đã có Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó. Nay lại có Pháp Hiền thượng sỹ, đắc pháp với Tỳ Ni Đa Lưu Chi, truyền tông phái của Tam tổ, là người trong hàng Bồ tát, đang ở chùa Chúng Thiện dạy dỗ học trò. Trong lớp đó không dưới 300 người, cùng với Trung Quốc không khác. Bệ hạ là cha lành thiên hạ, muốn bố thí một cách bình đẳng thì chỉ riêng khiến sứ đưa xá lợi đến, vì nơi ấy đã có người, không cần đến dạy dỗ”[18].
Qua đối thoại và lời dẫn trên có thấy Phật giáo truyền bá vào nước ta rất sớm, thậm chí sớm hơn cả Trung Quốc, nhưng tín ngưỡng Tịnh độ được truyền vào Việt Nam khi nào. Trong những tư liệu có tư tưởng về pháp môn Tịnh độ hiện còn đến nay, có lẽ sớm nhất là tác phẩm Lý Hoặc Luận của Mâu Tử[19]. Đây là tác phẩm lý luận của Đại thừa, nhưng nội dung bố thí từ bi nhẫn nhục phần nào đó có tư tưởng Tịnh độ. Tiếp sau đó là Lục độ tập kinh[20]do Khương Tăng Hội (? - 280) dịch vào thời Tam Quốc, cơ bản “trình bày các khái niệm Đại thừa về triết học”[21] nhưng ta vẫn thấy được những sinh hoạt Phật giáo thời kỳ này khá phong phú, ngoài những tư tưởng Phật giáo Đại thừa còn thấy đến tín ngưỡng Tịnh độ”[22]. Nhưng đến thế kỷ III chỉ còn thấy nói về một người Việt tên Đạo Thanh (?) giúp nhà sư Ấn Độ dịch kinh Pháp hoa tam muội vào khoảng năm 255 – 256[23], và cũng không thấy đề cập đến pháp môn Tịnh độ cũng như tư tưởng về pháp môn này. Trong suốt thế kỷ thứ IV, cũng không có tư liệu nào nói đến tình hình Phật giáo ở nước ta.
Như đã nói, thế kỷ V, sư Đàm Hoằng (? – 455), một vị cao tăng Trung Quốc tu hành Tịnh độ đến Tiêu Sơn, xứ Kinh Bắc, vùng đất hữu duyên với đạo Phật tu học và truyền bá pháp môn Tịnh độ. Cao tăng truyện của Huệ Hạo chép: “Thích Đàm Hoằng, người Hoàng Long, nhỏ tu giới hạnh, chuyên sành luật bộ. Trong khoảng Tống Vĩnh Sơ (420 – 422) nam du Phiên Ngung, dừng lại ở chùa Đài, sau lại đến chùa Tiên Sơn của Giao Chỉ, tụng Vô lượng thọ và Quán kinh, lòng thề về an dưỡng. Vào năm Hiếu Kiến thứ 2 (455), nhóm củi trên núi, lén vào trong củi lấy lửa tự thiêu. Đệ tử đuổi kịp, ôm giữ đem về, thì nửa mình đã cháy, trải tháng mới bớt chút ít. Sau đó, xóm gần có hội, cả chùa đều phó. Hoằng vào ngày ấy lại vào trong hang núi tự thiêu. Dân xóm đuổi tìm thì mạng Hoằng đã dứt. Do đó, họ chất củi thêm, đốt lửa cháy đến ngày hôm sau mới tắt. Ngày hôm đó, dân xóm đều thấy Hoằng thân vàng sắc vàng, cưỡi một con nai vàng, đi về phía tây rất nhanh, không kịp hỏi han. Tăng và tục mới hiểu thần dị, cùng lượm xương tro, để dựng tháp thờ”[24].
Theo PGS. Nguyễn Duy Hinh, “tự thiêu là một hiện tượng pháp thí cao nhất đề cập trong kinh Pháp hoa. Đàm Hoằng là nhà sư Trung Quốc đầu tiên được biết đến sớm nhất ở nước ta song chưa phải Thiền tông mà cũng chưa thật sự là Tịnh độ tông”[25]. Tuy nhiên, việc sư Đàm Hoằng tụng trì kinh Vô lượng thọ và Quán Vô lượng thọ với một niềm tin mãnh liệt nơi Phật Adiđà, chắc chắn rằng thế kỷ V, tín ngưỡng Tịnh độ đã hiện diện ở nước ta, mặt khác còn cho thấy khi đó ở nước ta đã có nhu cầu bức thiết về tín ngưỡng Tịnh độ.
Từ sau thế kỷ thứ V đến khoảng nửa đầu thế kỷ thứ IX thì tuyệt nhiên không có tư liệu nào để lại đề cập đến Tịnh độ. Nếu khảo xét qua nguồn tư liệu được chép trong Thiền uyển tập anh, chúng ta thấy thời kỳ này đang “hình thành thượng tầng Việt - Trung của Phật giáo Việt Nam…”[26]. Do đó, phải đến Vô Ngôn Thông (759?-826), học trò của Bách Trượng Hoài Hải đến Kiến Sơ tu tập, trong bài kệ nói cho đệ tử Cảm Thành[27] (? – 860) trước khi viên tịch mới đề cập đến Tịnh độ?: Tây thiên thử thổ/ Thử thổ Tây thiên. Tây thiên là đất này/ Đất này là Tây thiên. Chữ Tây thiên mà thiền sư Vô Ngôn Thông nói ở đây có thể hiểu là thế giới Cực lạc của Phật Adiđà hay chỉ Ấn Độ, quê hương của Phật giáo!.
Dưới thời Đinh (968 – 980) và Tiền Lê (980 – 1009), thời kỳ này đất nước ta bước vào thời kỳ tự chủ, Phật giáo được triều đình công nhận và phát triển hơn trước. Các tăng nhân được định phẩm trật như sư Ngô Chân Lưu được tặng chức Khuông Việt đại sư, Pháp sư Trương Ma Ni được tặng chức Tăng lục đạo sỹ, Pháp sư Đặng Huyền Quang làm Sùng Chân uy nghi… Năm 1008, niên hiệu Ứng Thiên thứ 14, vua Lê Đại Hành sai “Minh Xưởng và ông Hoàng Thành Nhã sang sứ nước Trung Hoa cống hiến đồ thổ sản và xin vua Tống ban cho bộ Cửu kinh và Đại tạng kinh”[28]… Những sử liệu chép thời kỳ này chủ yếu liên quan đến Thiền tông, Thiền tông kết hợp với tín ngưỡng bản địa, với Đạo giáo cùng với nhu cầu thực tế của nhân dân nên mang nhiều yếu tố Mật tông, tuy nhiên với sự đề cao sự cứu vớt của các vị Bồ tát, đặc biệt là Quan thế âm bồ tát nên tín ngưỡng Tịnh độ vẫn được bảo lưu trong sự dung hoà với Thiền tông, Mật tông.
Nhà Lý bắt đầu khi vua Thái Tổ lên ngôi tháng 10 âm lịch năm 1009 và chấm dứt vào năm 1225. Hơn hai thế kỷ, nước Đại Việt hưng thịnh, đây cũng là thời kỳ Phật giáo phát triển, gắn bó sâu sắc với vương triều. Vị vua sáng lập triều Lý là Lý Công Uẩn đã từng tu tập tại chùa Lục Tổ với Thiền sư Vạn Hạnh và lý lịch của vị vua này dĩ nhiên là gắn bó mật thiết với Phật giáo. Năm 1010, Lý Công Uẩn rời đô ra Thăng Long đã lệnh xây dựng một loạt chùa lớn, phục dựng những di tích đổ nát ở các hương ấp, độ dân làm sư, đúc chuông… Vua Lý Nhân Tông còn định các chùa trong nước làm ba hạng đại, trung và tiểu danh lam, các nhà sư như Khuông Việt, Khô Đầu được mời ra giúp nước, đặt quan tăng, cử người sang nhà Tống xin kinh Đại tạng[29]…Hơn thế, các vị vua thời Lý còn tham gia sáng lập tông phái Thảo Đường… Việc vua Lý Thánh Tông (1023 - 1072) cho tạc tượng Phật Adiđà tại cùa Phật Tích khiến nơi đây nổi trội hơn cả tín ngưỡng Tịnh độ.
3. Đôi lời tạm kết
Theo Thiền uyển tập anh, có thiền sư dù được coi là thuộc hệ truyền thừa của các thiền phái nhưng vẫn hành trì theo pháp môn Tịnh độ như Thiền sư Tịnh Lực (1112 - 1175), thuộc thế hệ thứ 10 dòng thiền Vô Ngôn Thông, chuyên kinh Viên giác, song “trong 12 thời sư lễ Phật sám hối, thâm nhập được pháp môn niệm Phật tam muội nên âm thanh trong trẻo như tiếng Phạm thiên”[30]. Thiền sư Trì Bát (1049 - 1117) thuộc thế hệ thứ 7 dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, nhân tưởng niệm Phật Adiđà ở thế giới Cực lạc, nên đã phổ khuyến đạo tục, dựng một đạo tràng lớn[31] và tạo tác tượng Adiđà vào năm 1099[32]… Hình tượng đức Phật Adiđà hiện diện trong Hội đèn Quảng Chiếu cầu nguyện cho hoàng hậu Linh Nhân vãng sinh Tịnh độ[33] đó chính là biểu hiện “tín ngưỡng Adiđà và Tây phương cực lạc đã phổ biến”[34] trong thời Lý, thậm chí, trong các ngôi chùa thời kỳ này, việc thờ phụng đức Phật Adiđà dẫn tới sự hình thành của nhiều ngôi Tam bảo trong chùa. Như vậy, vào thời Lý, cũng từ thời Lý và hiển nhiên, với sự kiện vua Lý Thánh Tông cho tạc tượng Adiđà ở chùa Phật Tích vừa cho thấy vị thế của ngôi chùa vừa cho thấy tín ngưỡng Tịnh độ đã phát triển mạnh mẽ, để lại những dấu ấn và thực sự có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của nhân dân. Ngày nay, qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, chùa Phật Tích vẫn sáng danh là một “đại danh lam” của đất nước, đại Phật tượng Adiđà khai quang quy hướng tinh thần con người về cõi Phật, giàu lòng từ bi, hỷ xả.
* Viện Nghiên cứu Tôn giáo
[1] Đại Nam nhất thống chí, tập 4. Nxb Thuận Hóa 1997, trang 114.
[2] Trần Lâm Biền, Chùa Việt. Nxb. Văn học. tr.181.
[3]Tên đô thành của vua Kanishka, thuộc Pakittan ngày nay. Nơi đây ảnh hưởng mạnh của nền nghệ thuật Hy Lạp – La Mã.
[4] Tượng Phật trong nền điêu khắc cổ Việt Nam. Nguồn: http://daitangkinhvietnam.
[5] Chẳng hạn, GS. Trần Lâm Biền trong Chùa Việt cho rằng pho tượng này là tượng đức Giáo chủ bổn sư; Louis Berzacier trong Những tiểu luận về nghệ thuật An Nam (Essais sur l¢art Annamite) cho rằng đài sen được làm muộn hơn hay Trần Trọng Kim thì cho đây là tượng Phật Thích Ca Mâu Ni.
[6] Chùa còn có tên là chùa Thiên Tâm, nằm trên lưng chừng núi Tiêu. Nay thuộc xã Tương Giang - huyện Tiên Sơn - tỉnh Bắc Ninh.
[7] Tâm Tuệ Hỷ (biên soạn). Danh từ Phật học thực dụng. Nxb. Tôn giáo. Tr.7.
[8] Mạc Chấn Lương. Tạc tượng và kiến trúc chùa. Nxb. Mỹ Thuật. Tr 86 chép: Đức Phật Adiđà có đến13 cách gọi khác nhau như Vô lượng thọ Phật, Vô lượng quan Phật, Vô biên quan Phật, Vô ngại quang Phật, Vô đối quang Phật, Diệm vương quang Phật, Thanh tĩnh quang Phật, Hoan hỷ quang Phật, Trí tuệ quang Phật, Bất đoạn quang Phật, Nan tư quang Phật, Vô xứng quang Phật, Siêu nhật nguyệt quang Phật.
[9] Nguyễn Minh Tiến (dịch và chú giải). Lược sử Phật giáo. Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Tr 114.
[10] Pháp môn Tịnh độ còn gọi là Liên tông, Tịnh thổ.
[11] Mã Minh là nhà thơ và luận sư Đại thừa người Ấn Độ, sống giữa thế kỉ 1 và 2. Ông được xem là vị tổ thứ 12 của Thiền tông Ấn Độ. Tác phẩm quan trọng nhất của Mã Minh là Phật sở hạnh tán, một tác phẩm nói về cuộc đời của đức Phật, và ông cũng được xem là tác giả của bộ Đại thừa khởi tín luận.
[12] Long Thọ sống giữa thế kỷ 1 và 2, người sáng lập Trung quán tông, là một trong những luận sư vĩ đại nhất của lịch sử Phật giáo, được xem là tổ thứ 14 của Thiền tông Ấn Độ. Trước tác văn quan trọng nhất của ông là bộ Trung quán luận
[13] PGS. Nguyễn Duy Hinh. Triết học Phật giáo Việt Nam. Nxb. Văn hoá Thông tin và Viện Văn hoá. Tr234.
[14] Gần đây có nhiều nhà nghiên cứu khẳng định Phật giáo du nhập vào Trung Quốc dưới triều vua Hán An Đế. Cũng vì lý do này mà năm 1998, Trung Quốc kỷ niệm 2000 năm Phật giáo du nhập vào Trung Quốc.
[15] Nguyễn Minh Tiến (dịch và chú giải). Lược sử Phật giáo. Sđd. Tr 174.
[16] Huệ Viễn (333-416) là học trò của Đạo An, tinh thông kinh Bát Nhã. Vì hoàn cảnh lịch sử nên ông xuống Tương Dương, sau đến Lô Sơn và lập chùa Đông Lâm. Ở đây, ông chủ trương tu tập pháp môn niệm Phật, ẩn dật tu hành không màng thế sự... Năm 402, ông lập ra Hội niệm Phật tại Lô Sơn, lấy tên Bạch Liên xã, phát thệ rước tượng A di đà cùng vãng sinh Tịnh độ.
[17] Nguyễn Duy Hinh. Một số bài viết về Tôn giáo học. Nxb. Khoa học xã hội. Tr 391.
[18] Lê Mạnh Thát. Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh. Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. Tr 203, 204.
[19] Mâu Tử, một sỹ phu người Hán tị nạn đến Giao Châu thời Sỹ Nhiếp. Ông tinh thông Nho giáo, Đạo giáo nhưng khi đến Dâu đã học đạo Phật và bênh vực đạo Phật bằng tác phẩm Lý Hoặc Luận..
[20] Lục độ tập kinh còn gọi là Lục độ vô cực kinh, Độ vô cực kinh, Tập vô cực kinh do Khương Tăng Hội trích dịch các kinh Phật thành 91 truyện, tập hợp thành 6 chủ đề (lục độ) là những Phật thoại.
[21] PGS. Nguyễn Duy Hinh. Triết học Phật giáo Việt Nam. Sđd. Tr307.
[22] Chẳng hạn như truyện 24: Kể chuyện vị Phạm Chí cúng dường đức Phật Tiệp rồi suy nghĩ “Ngài làm được Phật thì tất ta cũng được thôi” (bỉ kỳ đắc Phật, ngô tất đắc dã).
[23] Nguyễn Tài Thư (Chủ biên). Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nxb. Khoa học xã hội. 1988. Tr71 – 92.
[24] Lê Mạnh Thát. Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nxb. Thuận Hóa. Huế 1999. Tr749.
[25] Nguyễn Duy Hinh. Lịch sử đạo Phật Việt Nam. Nxb. Tôn giáo, Nxb Từ điển Bách Khoa. Tr48.
[26] Nguyễn Duy Hinh. Lịch sử đạo Phật Việt Nam. Sđd. Tr 53.
[27] Cảm Thành khi mới xuất gia có tên đạo là Lập Đức, người Tiên Du.
[28] Mật Thể. Việt Nam Phật giáo sử lược. Nxb.Tôn giáo. 2004. Tr 110.
[29] Dẫn theo Nguyễn Duy Hinh. Tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Kinh Đại tạng để trong cung mãi đến năm 1295, vua Trần mới cho khắc in phổ biến.
[30]Lê Mạnh Thát. Nghiên cứu vềThiền uyển tập anh. Sđd. Tr 223
[31] Lê Mạnh Thát. Nghiên cứu vềThiền uyển tập anh. Sđd. Tr 276.
[32] Chùa Một Mái, tức chùa Hoàng Kim, nay thuộc xã Hoàng Ngô, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây.
[33] Theo văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh ở chùa Đọi.
[34] Hà Văn Tấn. Về một số nghi lễ Mật giáo qua bia tháp Sùng thiện diên linh thời Lý. Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2-2000.
Bình luận bài viết