Thông tin

CƠ HỘI NÀO CHO CHỮ HIẾU?

CƠ HỘI NÀO CHO CHỮ HIẾU?

 

NGUYÊN CẨN

 


 

Thường thì khi nói về chữ hiếu, chúng ta liên tưởng ngay đến bổn phận của con cái đối với cha mẹ. Thế nhưng có những trường hợp cha mẹ hay đứa trẻ rơi vào tình cảnh nghịch duyên. Có người cho rằng là do cái thế đối đãi ở thế giới này. Thế nào cũng có ít nhiều những cái nghịch duyên xảy ra bên cạnh cái thuận duyên. Chỉ là thiếu duyên thì ẩn. Đủ duyên thì hiện. Đọc báo, xem trên mạng ta thấy có những bà mẹ bỏ con cho chùa nuôi, hoặc bê tha không chăm sóc chúng đến nỗi bị cha dượng xâm hại nhiều lần mà không biết. Có những ông bố đánh con đến tan nát thân thể. Những ngày qua, dư luận xôn xao về việc anh Nguyễn Văn Thuận (43 tuổi, trú tại Hương Khê, Hà Tĩnh) dùng roi đánh con trai là em Nguyễn Hoàng L. (14 tuổi, học sinh lớp 8, tứa máu khắp người phải vào bệnh viện. Chỉ vì em lấy điện thoại để xem bảng điểm thì bị cha đánh. Về phía con trẻ, không phải em nào cũng hiếu thuận, nhiều em còn dửng dưng với những lo toan vất vả của đấng sinh thành. Còn một trường hợp đáng lưu tâm là những đứa trẻ bất hạnh. Nhà văn Trương Văn Dân trong bài viết “Chúng tôi bảy người” trích trong tập truyện “Trò chuyện với thiên thần” (chưa xuất bản) kể lại rằng: “Trong tập thơ We are seven (Chúng tôi bảy người) của nhà thơ lãng mạn người Anh William Wordsworth có nói về một bé gái, khi được nhà thơ hỏi, cô luôn trả lời là gia đình cô có bảy người, mặc dù hai thành viên trong gia đình đã chết từ lâu! Thế nhưng trong gia đình của một người bạn, câu chuyện hoàn toàn trái ngược. Ai cũng tưởng gia đình có năm người nhưng thực ra thì có sáu thành viên: lý do là một đứa con lúc sinh ra bị hội chứng down, gia đình nhốt kín em trong nhà để mọi người khỏi biết. Quen bạn đã lâu, nhưng mãi về sau ba (tác giả đang nói chuyện với con chưa chào đời của mình-NV) mới biết chuyện. Một bữa tình cờ bước vào nhà bạn, ba trông thấy một đứa bé bị down đang vội vàng lẩn trốn. Khi hỏi chuyện, người bạn đắn đo, rồi sau cùng mới ngập ngừng nói đó là em trai mình... Con ơi! Con thử tưởng tượng một đứa trẻ, vừa sinh ra bất hạnh đã trùm lấy nó, thế mà khi lớn lên còn bị gia đình hổ thẹn từ chối! Nó sẽ phản ứng ra sao? Chắc chắn động tác đầu tiên là trốn chạy, thu mình lại như một con nhím. Nhưng những mũi nhọn không tua tủa xòe ra ngoài mà tự đâm vào trí não và ý nghĩ của mình. Một nỗi đau bất tận!... Nhiều người không hiểu rằng sự khuyết tật không phải là một căn bệnh. Nó là một hoàn cảnh. Người khuyết tật không cần chữa trị. Họ không cần ai thương hại mà chỉ cần sự chấp nhận và tôn trọng... Bất cứ kẻ nào sinh ra với những khuyết tật vẫn phải được sống như một con người. Và không ai có thể nhân danh điều gì để nhốt họ vào căn phòng lạnh lẽo, chui nhủi như ở trong hang… Và xã hội có thể tự nhận là văn minh, được quyền tố cáo hay lên án người Sparta cổ đại khi một đứa bé sinh ra bị khuyết tật thì họ ném chúng xuống vực sâu?” (TVD - Chúng tôi có bảy người Báo Thanh niên - 30/12/2018) Chúng ta thấy có những gia đình giấu đứa trẻ khuyết tật, chỉ vì sứt môi, hay một khiếm khuyết nào đó, là họ cách ly đứa bé không cho tham dự bất cứ cuộc họp mặt nào, tạo nên mặc cảm rất lớn trong tâm thức đứa trẻ. Chúng ta phải hiểu mọi thứ đều có nhân duyên. Đều do nghiệp lực thiện ác mình đã gây tạo trong đời. Có vô số duyên không tốt làm nhân để cho cái quả nghịch xảy ra. Tùy nhân tùy duyên mà thuận và nghịch đan xen. Có khi cha mẹ không thương yêu đùm bọc mà con vẫn hiếu thuận; hoặc có khi dù cha mẹ thương yêu đùm bọc mà con lại không hiếu thuận; tệ hơn là con không hiếu thuận mà cha mẹ cũng không có sự đùm bọc thương yêu v.v...

Điều kiện để thực hiện hiếu hạnh?

Dù chúng ta hiểu rằng đạo hiếu như trong nhiều bài viết trước đây, chúng tôi đã nói rõ là phi thời gian, phổ quát và vô điều kiện thì cũng phải hiểu nó đòi hỏi từ hai phía.

Cha mẹ phải yêu thương những đứa trẻ tật nguyền, tự kỷ, down, chậm phát triển… bằng hay thậm chí nhiều hơn những đứa con bình thường vì chúng sinh ra với một cơ thể hay tâm hồn bất toàn, để rồi chúng có thể lớn lên trong yêu thương và đủ trí khôn để đáp đền chữ hiếu như những đứa con khác. Một người bạn tôi, BS Đỗ Hồng Ngọc có lần nói: “Cha mẹ đừng bắt các con phải báo hiếu nhiều khi lớn lên vì ngay khi sanh ra nó đã báo hiếu bằng cách đem lại cho chúng ta niềm vui mỗi ngày khi được chơi, đùa nhìn ngắm nó”.

Trở lại với những tính chất của đạo hiếu, chúng ta phải thấy rằng đó là nền tảng của mọi nền văn hóa. Kinh Thi, một trong những bản kinh cổ xưa của học thuyết Nho giáo đã không ngần ngại tuyên ngôn “Hiếu đạo” là cơ sở thiết lập, mở đầu văn hóa tình người một cách thiết thực mà ai cũng có thể cảm nhận: “Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực” (Cha sinh ta ra, mẹ bồng bế ta, thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo đáp ân sâu, khác nào trời cao không lường). Chúng ta nhớ đến chín chữ Cù Lao (Siêng năng, cần mẫn- nhọc nhằn) gồm 1/. Sinh: Cha mẹ đẻ ra 2/. Cúc: Nâng đỡ 3/Phủ: Vỗ về vuốt ve 4/ Súc: Cho ăn bú mớm 5/ Trưởng: Nuôi dưỡng thể xác 6/ Dục: Giáo dưỡng tinh thần 7/ Cố: Trông xem - nhìn ngắm 8/ Phục: Quấn quít - săn sóc không rời tay 9/ Phúc: ẵm bồng, gìn giữ, lo cho con đầy đủ, sợ con bị ăn hiếp.

Thế nên, Khổng Tử từng nói: “Đạo hiếu bắt đầu từ việc thờ cha mẹ, kế đến là thờ vua giúp nước và sau cùng là lập thân”. Đó chính là suối nguồn văn hóa mà mỗi cá nhân hiện hữu ở cõi đời này đều khát khao thực thi. Lịch sử thường minh chứng như thế, một người được tiếp nhận nguồn giáo dục khởi đầu bằng sự hiếu thảo với mẹ cha khi ở nhà, cũng có thể là người nỗ lực đóng góp cho đất nước. Và như thế, đây chính là mẫu người trung hiếu lưỡng toàn của mỗi gia đình, của mỗi quốc gia dân tộc.

Nhưng Khổng giáo lại nặng lời phê phán Phật giáo, một tôn giáo cũng xem chữ hiếu như một bổn phận, một đức hạnh căn bản của con người, cho rằng việc cạo tóc của Tăng sĩ, việc không sinh con là bất hiếu bởi vì Hiếu kinh nói rằng từ thân thể, các chi, tóc và da là nhận từ cha mẹ nên người ta không được làm tổn hại chúng, hay có con nối dõi là yêu cầu bắt buộc.

Chúng ta không cần dùng luận điểm của Mâu Tử để phản bác Khổng Tử khi ông cho rằng đạo đức quan trọng hơn râu và tóc, cũng chẳng cần phải cố gắng chứng minh mình giống họ làm gì, bởi lẽ chữ hiếu của Khổng giáo có nội hàm khác so với nhà Phật. Theo Giáo sư Cao Huy Thuần, “Chữ hiếu trong đạo Phật trải dài vô cùng tận vì Phật giáo quan niệm bất cứ ai cũng có thể là cha mẹ mình trong một kiếp trước”. (Lời tựa sách Tôn giả Đại hiếu Mục Kiền Liên do HT.Thích Trung Hậu sưu tầm, 2016).

Hiếu là nhân duyên tương tục

Như đã nói ở trên, hiếu trong quan điểm nhà Phật là nhân duyên vô tận. Trong kinh Tương ưng, Đức Phật còn nói: “Vô thỉ luân hồi, tất cả chúng sinh từng làm cha, làm mẹ, làm anh, làm chị, là bà con quyến thuộc trong các nẻo đường sinh tử”. Đạo lý giải thoát khổ đau, chứng ngộ Niết-bàn cũng bắt đầu từ đây. Cũng trong Kinh này, một chỗ khác Đức Phật dạy: “Này các tỳ kheo, sữa mẹ mà các ngươi đã uống trong khi các ngươi lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài nhiều hơn nước trong bốn biển. Vì sao thế? Vì luân hồi là vô thỉ, không sao đếm được... Vì vô minh che đậy, vì tham ái trói buộc, tất cả các nghiệp hành của chúng sanh”. Trong vòng luân hồi sanh tử đó, chúng ta thọ ơn cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp, tính không thể hết. Thế nên chúng ta hiểu nhân duyên giữa cha mẹ và con cái kéo dài nhiều đời nhiều kiếp. Chúng ta thọ nhận ân đức đầu tiên, là thân này sinh ra nhờ “duyên” cha mẹ. Như đã nói ở trên, con trẻ là hy vọng, là hạnh phúc của đấng sinh thành. Cha mẹ nào cũng lo lắng, đùm bọc, yêu thương và buồn rầu khi con đau yếu, nhưng không bao giờ khởi niệm than van, oán trách. Con vui cha mẹ vui. Con buồn cha mẹ cũng buồn. Rồi cứ thế theo dõi con lớn lên từng ngày cho đến khi dựng vợ gả chồng rồi sau đó đến đời cháu cũng vẫn lo toan.

Thế nhưng có khi do nhân bất thiện quá khứ mà có cái quả trái ý trong hiện tại. Nhưng theo giáo lý Phật, nếu ta hiểu về nhân quả, tỉnh giác làm chủ hay “tịnh hóa” thân, khẩu, ý nghiệp của mình, thì vẫn có thể chuyển được nghiệp của cả con cái và cha mẹ. Chính vì chỗ này, ta hiểu nghiệp không phải là định mệnh. Phật dạy tu tập biết nhân quả để mà định tâm. Nó là nguyên nhân giúp ta không bị cuốn vào dòng xoáy buồn vui thương ghét vì những nghịch cảnh. Nhờ đó mới thay đổi được những gì cần hay phải thay đổi.

Cho nên, Phật dạy cần phải hiểu biết nhân quả để luôn tỉnh giác. Muốn thoát khỏi vòng oan nghiệt khi mọi chuyện không thuận duyên: con cái bất hiếu hay cha mẹ thiếu trách nhiệm thì không chỉ buồn phiền trách móc là giải quyết được vì Phật giáo không nhìn cha mẹ hay con cái dưới hình ảnh quyền lực hay tôn ty phải tuân thủ mà dưới lăng kính từ bi. Hình ảnh rõ nhất là Mục Kiền Liên sau khi đắc thần thông, ngài nghĩ ngay đến việc cứu mẹ. Nếu cha mẹ làm sai thì sao? Theo Luận ngữ, “Thờ cha mẹ nên nhỏ nhẹ khuyên can, nếu thấy cha mẹ không theo ý mình thì vẫn cung kính mà không xúc phạm, tuy khó nhọc, lo buồn, song không được oán hận” (IV.18). Trong Lễ ký, Khổng Tử vẫn luôn cho rằng vâng lời cha mẹ là nguyên tắc tối hậu của chữ hiếu, cho dù khuyên răn không được. Vậy nếu cha mẹ sai quấy thì con cái cứ phải phục tòng (!).

Giáo lý nhà Phật thì không như vậy, được thể hiện bằng quan niệm đạo hiếu của người Việt từ xưa có nét đặc thù riêng như đề cập trong Lục độ tập kinh: Hiếu không phải chỉ thương cha, thương mẹ là đã làm tròn hiếu đạo của một con người, mà còn phải hướng cha mẹ về đường ngay nẻo chánh, giúp cha mẹ vượt qua sai lầm, giúp nghèo cứu đói, thương nuôi quần sinh, như thế là đứng đầu của trăm hạnh.

Đức Phật từng dạy đệ tử xuất gia rằng: “Này các Tỳ-khưu, đời chưa có gì đáng gọi là hiếu. Làm cho cha mẹ bỏ ác làm lành, vâng giữ năm giới và ba tự quy, được thế dù rằng buổi sớm vâng giữ, buổi chiều mất đi, ơn ấy trọng hơn vô lượng công ơn nuôi nấng, bú mớm của cha mẹ mình. Nếu không biết đem giáo pháp Tam bảo, rất mực khai hóa cho cha mẹ mình, tuy là hiếu dưỡng vẫn như bất hiếu” (Kinh Hiếu tử, Việt dịch của HT. Thích Tâm Châu). Hơn nữa, một nguyên lý quan trọng trong giáo lý nhà Phật là nghiệp lực. Tôn giả Mục Kiền Liên, dù thần thông đệ nhất, cũng không thể biến chén than hồng mẹ đang ăn trở lại thành cơm được! Thế nên tốt nhất vẫn là không tạo nghiệp ác. Chữ hiếu của Khổng giáo gắn liền với chữ trung - ngày xưa là trung với vua, với triều đại trị vì, còn chữ hiếu của nhà Phật chính là lòng từ bi ở cấp độ đầu tiên, vì một người không chia sẻ yêu thương với cha mẹ mình thì không thể yêu ai khác được.

Hiếu hạnh là giá trị cuộc sống. Người nào không nhớ đến nguồn cội của mình thì không xứng đáng là một con người chân chính. Tục ngữ có câu: “Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Người xưa từng dạy rằng khi chúng ta ăn cơm phải nhớ đến người nông dân một nắng hai sương trên đồng ruộng. Tất cả chúng ta khi thọ nhận một điều gì phải suy nghiệm rằng từ đâu mà có? Khi còn tại thế, Đức Phật từng dạy các vị tỳ kheo: “Một vị tỳ kheo nghỉ dưới một bóng cây vào buổi trưa hè nóng bức, khi rời bóng cây ra đi cũng phải nhớ ơn bóng cây đó đã che mát cho mình”. Hiếu đạo là chân lý thuộc về tục đế. Đông phương hay Tây phương đều như nhau. Bill Gates, người sáng lập Microsoft đã có lần trả lời phỏng vấn tạp chí “Chance” của Ý, được người phóng viên hỏi: “Ngài cho rằng điều gì trong nhân sinh không thể chần chừ nhất?”.

Tưởng rằng sẽ được chia sẻ về kinh nghiệm kinh doanh, nhưng người phóng viên không ngờ lại nhận được câu trả lời: “Sự việc mà con người không được phép chần chừ, không gì khác ngoài việc kính hiếu với cha mẹ”.

Chúng ta phải thấy mình may mắn là vẫn có khả năng xoay chuyển nghiệp của mình. Hiểu mọi chuyện dưới lăng kính nhân duyên và tin vào nguyên lý nhân quả mà Phật đã dạy. Định tâm và quán chiếu lòng mình để hiểu và thoát ra dòng nghiệp lực một cách chủ động và tự giác,

Hãy hiểu rằng “Tâm bình thế giới bình”. Khi chúng ta hiểu và tự thanh lọc tâm mình, chung quanh sẽ là tịnh độ. Cảnh giới dù bất hạnh nghịch lòng nhưng chúng ta luôn sống và ứng xử với tâm từ bi, chúng ta sẽ thay đổi điều kiện hay tạo duyên mới khi nhân đã thay đổi.

Hãy hiểu hiếu là nhân duyên tương tục kết nối đời đời như lời thơ của BS Đỗ Hồng Ngọc

Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ cài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông

Ba thế hệ cùng hiện diện, buồn theo nghĩa tục đế nhưng thật ấm áp. Trong tinh thần ấy, hướng về Vu lan với một tâm thế tích cực và tràn đầy thương yêu.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 77
    • Số lượt truy cập : 6797621