ĐẶC TRƯNG CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TRONG THỜI ĐẠI HỘI NHẬP TOÀN CẦU
TT.TS. THÍCH PHƯỚC ĐẠT
Phó ban Văn hóa Trung ương GHPGVN
Trưởng khoa Phật giáo, HVPGVN tại TP. HCM
Thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học và thông tin bùng nổ, thế kỷ với tôn giáo phát triển như là một trong những xu hướng phát triển chủ yếu của nhân loại. Phật giáo Việt Nam trên tinh thần kế thừa và hội nhập toàn cầu, chưa bao giờ lại hội đủ điều kiện “cần” và “đủ” như hôm nay, để thể hiện trọn vẹn và đẩy đủ lý tưởng Duy tuệ thị nghiệp của Phật giáo. Một Phật giáo tôn vinh con người, vì con người và cho con người, một Phật giáo thật sự nhân bản và thật sự dân tộc. Cho nên, Phật giáo chủ trương mọi người, mọi dân tộc đều bình đẳng, hòa hợp, đoàn kết nhau, không phân biệt lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, cùng nhau xây dựng một nền văn hóa thế giới toàn cầu thật sự hạnh phúc và an lạc cho con người. Hẳn nhiên, nó được cấu thành bằng tinh hoa của mọi truyền thống văn hóa dân tộc và văn hóa Phật giáo. Bài tham luận này, trình bày những đặc trưng của Phật giáo Việt Nam như là sức nội tại của chính mình trong thời đại hội nhập toàn cầu.
1. PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ DỰNG NƯỚC, GIỮ NƯỚC, MỞ NƯỚC
Kể từ khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã sớm bén rễ trên mảnh đất này. Và trong tâm thức người Việt, Phật giáo nghiễm nhiên trở thành một tôn giáo đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập và phát triển cùng với dân tộc Việt Nam trong tiến trình dựng nước, giữ nước, mở nước. Thế nên, các nhà nghiên cứu lịch sử đều công nhận rằng “Bình minh của lịch sử Việt Nam gắn liền lịch sử Phật giáo Việt Nam”. Chính cái bề dày lịch sử này đã tạo cho Phật giáo và Việt Nam cơ hội tiếp xúc và hòa nhập vào nhau nhuần nhuyễn khiến cho nhà thơ lãng mạn Hồ Dzếnh đã viết: “Trang sử Phật, Đồng thời trang sử Việt, Trải bao độ hưng suy, Có nguy mà chẳng mất...”. Hay nói cách khác, Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ khi truyền vào nước ta đã được nhân dân ta tiếp biến và hội nhập như thế nào để làm đặc trưng Phật giáo Việt Nam qua các thời đại lịch sử.
Trong quá trình tiếp xúc và hội nhập lâu dài đó, đặc biệt là dưới hai triều đại Lý - Trần, Phật giáo thật sự đã trở thành quốc giáo với những ông vua Phật tử xuất sắc như Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Thời đại Lý - Trần cung cấp cho chúng ta mô hình Phật giáo Nhất tông gắn bó với dân tộc và phục vụ dân tộc, mà vẫn không làm tổn thương gì đến những chân giá trị tâm linh của đạo Phật.
Những cuộc kháng chiến thắng lợi của nhà Lý chống quân Tống và của nhà Trần chống quân Nguyên đều diễn ra trong thời kỳ thịnh nhất của đạo Phật, với hệ tư tưởng chủ đạo là vũ trụ quan - nhân sinh quan Phật giáo. Và hệ tư tưởng đó, là một hệ tư tưởng tích cực, đồng hành cùng với dân tộc, được trải nghiệm và chứng minh qua những trang sử hào hùng giữ nước và dựng nước, mở nước một cách vẻ vang đầy chói lọi.
Tất nhiên, mô hình Phật giáo đời Lý hay đời Trần chỉ là mô hình mà ngày nay chúng ta tiếp thu và kế thừa. Trong tiến trình hội nhập toàn cầu, mô hình Phật giáo Việt Nam ắt hẳn có sự chuyển biến, bởi lẽ bản chất của đạo Phật là duyên khởi tính. Hơn nữa, Phật giáo Lý-Trần là một Phật giáo không giáo điều, không chấp tướng. Lẽ nào chúng ta lại đối đãi với Phật giáo Lý-Trần với thái độ giáo điều và chấp tướng?
Có điều, chúng ta vẫn khẳng định một cách dứt khoát là Phật giáo Việt Nam đã có một bề dày lịch sử hơn 2.000 năm và trong quá trình lịch sử đó, Phật giáo đã thực sự hội nhập vào nền văn hóa Việt Nam, như một thành tố không thể chia cắt của nền văn hóa Việt Nam và xã hội Việt Nam. Phật giáo đã cống hiến cho dân tộc Việt Nam những chân giá trị tinh thần đã từng thể hiện sáng chói trong sự nghiệp cứu nước và dựng nước, mở nước của hai thời đại Lý và Trần và cả các thời bị ngoại bang xâm lược.
Nhìn chung, Phật giáo hội nhập đã lâu đời vào nền văn hóa Việt Nam, gắn bó với xã hội Việt Nam và dân tộc Việt Nam trong mọi bước đi thăng trầm của lịch sử, nhưng tuyệt đối không đánh mất những giá trị tâm linh siêu việt, toàn cầu, có tính vũ trụ của nó. Đó là một trong những nét đặc trưng của mô hình Phật giáo Việt Nam thời hội nhập hướng đến. Một đặc trưng thiết yếu, khi chúng ta bàn về Phật giáo Việt Nam ở thời hội nhập.
2. PHẬT GIÁO VIỆT NAM VỚI TRUYỀN THỐNG BÌNH ĐẲNG VÀ DÂN CHỦ
Thiết nghĩ, đặc trưng thứ hai của Phật giáo Việt Nam chính là truyền thống bình đẳng và dân chủ được vận dụng vào đời sống thực tiễn xã hội. Đây là cơ sở, điều kiện để tạo nên sức mạnh nội tại của đạo Phật nước nhà trong tiến trình hội nhập Phật giáo toàn cầu. Thực tế cho thấy, khái niệm bình đẳng và dân chủ không có trong văn bản kinh điển Phật giáo Việt Nam. Thế nhưng, tinh thần bình đẳng và dân chủ thì được thể hiện rõ trong sự vận dụng vào đời sống thực tiễn. Theo các sử liệu lịch sử Phật giáo Việt Nam ghi, thì hội chúng xuất gia bao gồm tứ chúng đã có mặt đầy đủ: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Sa-di, Thất-xoa-ma-na, Sa-di-ni khá sớm trong tổ chức đoàn thể Tăng già nước ta. Điểm đáng nói, nữ giới cũng được xuất gia và chứng ngộ như Tỳ-kheo-ni đời Lý là Ni sư Diệu Nhân - một vị Tổ thuộc thế hệ thứ 17, dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ngày nay, số lượng Ni tu hành cũng đông hơn số Tăng rất nhiều.
Trong khi đó thì ở các nước Đông Nam Á, theo Phật giáo Nam Tông, như Thái Lan, Campuchia, Lào, Miến Điện, nữ giới xuất gia là một vấn đề còn hạn chế. Rõ ràng, ở nước ta tinh thần bình đẳng của đạo Phật được thực thi rõ nét. Bởi vì, theo lời Phật nói với ông A Nan, thì phụ nữ có thể giác ngộ và giải thoát, chứng quả A La Hán như nam giới vậy. Trong Kinh tạng Pali, Trưởng Lão Ni Kệ, chép các bài kệ giác ngộ của các Tỳ-kheo-ni, đã chứng quả A La Hán thời Phật trụ thế.
Một dấu hiệu bình đẳng và dân chủ khác của Phật giáo Việt Nam là vị trí của hàng cư sĩ trong Giáo hội. Lịch sử Phật giáo Việt Nam ghi nhận có những cư sĩ chiếm vị trí hàng đầu trong giới Phật học, được cả hàng tại gia cũng như xuất gia tôn trọng, không khác gì những bậc thầy trong đạo. Vua Lý Thái Tông đời Lý, được xem như là học trò đắc pháp của Thiền sư Thiền Lão thuộc thế hệ thứ 6, của dòng Thiền Vô Ngôn Thông, và vua cũng được xem là một vị Tổ thuộc thế hệ thứ 7 của dòng Thiền này.
Vua Lý Thánh Tông, cũng không xuất gia, nhưng được suy tôn là học trò đắc pháp của Thiền sư Thảo Đường, và được xem như là vị Tổ thứ 2 của dòng Thiền này. Dòng Thiền Vô Ngôn Thông còn có hai cư sĩ xuất sắc nữa là Thông Thiên thuộc thế hệ thứ 13 và Ứng Thuận thuộc thế hệ thứ 15. Phật giáo đời Trần có Trần Thái Tông, là ông vua khai sáng ra triều Trần, và là tác giả cuốn Khóa Hư Lục nổi tiếng, và nhất là cư sĩ Tuệ Trung, vị thầy đáng kính của Trần Nhân Tông, Trần Nhân Tông còn là ông vua xuất gia, người sáng lập và là Sơ Tổ của phái Thiền Trúc Lâm.
Thời cận và hiện đại, sử Phật giáo Việt Nam cũng ghi tên nhiều vị cư sĩ xuất chúng, như cụ Tâm Minh Lê Đình Thám, người đã sáng lập ra An Nam Phật học Hội và Trường Phật học Báo Quốc để đào tạo lớp Tăng tài trẻ, sáng lập và làm Tổng Biên tập tờ báo Phật học Viên Âm. Ông cũng sáng lập ra Đoàn Phật học Đức dục, tiền thân của tổ chức Gia đình Phật tử nhằm truyền bá đạo Phật trong giới thanh thiếu niên thời bấy giờ. Ở ngoài Bắc, song song với việc thành lập Hội Phật giáo Bắc kỳ, cũng có nhiều cư sĩ có trình độ Phật học cao như: Thiều Chửu, Tổng Biên tập Báo Đuốc Tuệ, Trần Văn Giáp, Lê Dư, Nguyễn Trọng Thuật. Ở Nam kỳ lúc bấy giờ, nổi danh nhất là cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, người sáng lập ra Hội Phật học Nam Việt, có trụ sở tại chùa Xá Lợi.
Bình đẳng giữa nam và nữ, bình đẳng giữa xuất gia và tại gia, sự bình đẳng đó, là điều kiện tiên quyết để phát triển của Phật giáo Việt Nam hiện nay cũng như ở tương lai. Bởi lẽ tinh thần này phù hợp với truyền thống bình đẳng vốn có của Phật giáo Việt Nam, đã được minh chứng qua cả bao thế hệ cư sĩ nổi danh trong làng Thiền Việt Nam và được Trần Thái Tông tóm gọn trong câu sau đây, có thể là phương châm chỉ đạo cho Phật giáo Việt Nam, từ nay và mãi về sau: “Mạc vấn đại ẩn tiểu ẩn, hưu biệt tại gia xuất gia, bất câu tăng tục, chỉ yếu biện tâm, bổn vô nam nữ, hà tu trước tướng” (Không kể là ẩn dật lớn hay nhỏ, không kể là tại gia hay xuất gia, tăng hay tục, điều cốt yếu là biện tâm, vốn không phân biệt nam nữ, sao lại còn chấp tướng)(1).
Rõ ràng, Phật giáo mà Trần Thái Tông quan niệm không phải là Phật giáo của riêng người xuất gia, của riêng giới Tăng lữ, càng không phải là Phật giáo của riêng nam giới xuất gia, như hiện nay ở các nước Đông Nam Á theo Phật giáo Nam tông... mà là một Phật giáo thật sự bình đẳng của nam và nữ, của cả xuất gia và tại gia, nghĩa là của tất cả mọi người. Trong câu trích dẫn của Trần Thái Tông trên đây, có các từ đại ẩn, tiểu ẩn. Đại ẩn là sống giữa đời mà vẫn tu đạo và vui với đạo, đúng như lời của Trần Nhân Tông, kết thúc bài phú Cư Trần Lạc Đạo:
“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, Cơ tắc xan hề khốn tắc miên...” (Ở đời vui đạo hãy tùy duyên, Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền...).(2)
Đó là lối tu ẩn dật lớn, còn tu ở chùa, lánh vào núi mà tu chỉ là tiểu ẩn, tức là lối tu ẩn dật nhỏ. Phật giáo chỉ cho chúng ta một phương pháp tu hành có thể không cần phải cạo đầu vào chùa, không cần lánh lên núi sống cô độc một mình, mà sống ngay giữa đời như người bình thường mà vẫn có thể giác ngộ và giải thoát. Xem ra, chừng nào mà Phật giáo còn hạn chế và khép mình trong chùa chiền và giới Tăng lữ, thì khó mà nói Phật giáo có gốc rễ sâu bền trong một quốc gia, xã hội.
Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập là một Phật giáo tiếp nối tư tưởng bình đẳng và dân chủ, không những về tinh thần mà cả trong thiết chế và tổ chức nữa. Cụ thể, sau 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập trong sự hợp nhất các hệ phái, hiện nay, trải qua 6 nhiệm kỳ, và nhiệm kỳ 7 đã tu chỉnh Hiến chương, đang phát triển vững mạnh trong lòng dân tộc.
3. VAI TRÒ CỦA TĂNG NI VÀ NGÔI CHÙA TRONG THỜI ĐẠI HỘI NHẬP
Đặc trưng thứ ba của Phật giáo Việt Nam là sự nhìn nhận vị trí - vai trò của Tăng Ni và ngôi chùa trong thời đại ngày nay. Ở nước ta, vai trò của vị tu sĩ Phật giáo không chỉ được chú trọng trong lĩnh vực tín ngưỡng tâm linh, mà còn nổi bật trong nhiều lĩnh vực khác như văn hóa, giáo dục.
Trong vòng 32 năm kể từ ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hệ thống giáo dục Phật giáo hoàn chỉnh, có 4 Học viện Phật giáo đã đào tạo trên 3.000 Tăng Ni tốt nghiệp cử nhân Phật học; 32 Trường Trung cấp và Cao đẳng đã đào tạo cho 5.000 Tăng Ni tốt nghiệp cao đẳng Phật học, gần 7.000 Tăng Ni sinh tốt nghiệp Trung cấp Phật học, đặc biệt có hơn 150 Tăng Ni đã hoàn thành học vị thạc sĩ, tiến sĩ Phật học ở nước ngoài về tham gia giảng dạy và phục vụ các ban ngành chuyên môn cho Giáo hội. Mới đây, Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh đã được Giáo hội và Nhà nước cho phép đào tạo 150 Tăng Ni học chương trình Thạc sĩ Phật học thí điểm. Đây là nguồn nhân lực dồi dào để phục vụ đạo pháp và đất nước trong tiến trình hội nhập và phát triển.
Chùa là nơi tu sĩ tu học, hoằng pháp và tổ chức - chủ trì mọi nghi lễ, lễ hội tôn giáo song hành cùng với lễ hội văn hóa dân tộc. Trong những năm gần đây, hàng ngàn ngôi chùa, danh lam đã được trùng tu và phát huy mọi sức mạnh tiềm lực nội tại vốn có của mình. Chùa được xã hội nhìn nhận như là một trung tâm văn hóa, giáo dục, để truyền bá Chánh pháp và văn hóa dân tộc một cách rộng rãi, trở thành kim chỉ nam cho mọi hành vi ứng xử và lẽ sống của Phật tử. Mọi người Phật tử Việt Nam cần giác ngộ rằng: “Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là thai tạng...”(3), tất cả mọi chuyện hạnh phúc hay bất hạnh xảy ra trong đời mình, đều do nghiệp, tức là do những hành động nơi ý, lời nói và thân của mình làm ra, chứ không do một Thượng đế hay quỷ thần nào an bài... Muốn có đời sống an vui, hạnh phúc thì chỉ có một cách là tạo nghiệp thiện, nghiệp lành, trừ bỏ mọi nghiệp ác, nghiệp bất thiện... Đúng theo lời của Phật dạy: “Bỏ mọi điều ác, Làm mọi điều lành, Tự làm trong sạch tâm ý, Là lời dạy chư Phật”(4).
Với ý nghĩ trong sạch, lời nói trong sạch, hành động trong sạch của mình mới có thể làm trong sạch được bản thân mình, chứ không phải chỉ đi chùa, lễ bái, tôn kính chư Tăng Ni là có thể rửa sạch mọi tội lỗi mình đã phạm. Tăng Ni là biểu trưng sự sống động của sự giác ngộ và thể hiện đời sống giải thoát. Nhờ tâm được giải thoát, cho nên mọi hành động, lời nói cũng có đạo vị giải thoát. Vì vậy, Tăng Ni được xã hội tôn vinh là bậc đạo sư tâm linh, có khả năng hướng dẫn mọi người trên con đường giác ngộ và giải thoát. Đó là vị trí có một không hai của người tu sĩ Phật giáo Việt Nam từ xưa đến nay.
Bất cứ ai có suy nghĩ cứ đi chùa, thỉnh chư Tăng làm lễ cầu an, cúng dường trai tăng là mọi tội ác được tiêu trừ, mọi nghiệp chướng được xóa sạch thì thật sai lầm. Một người muốn giải oan thì phải thay đổi nếp sống, nghĩa là sống thiện, không tự mình gây oán thù thêm nữa, thêm bạn bớt thù trong tinh thần hòa hợp, bình đẳng về mặt nhân cách và cao hơn là bình đẳng giải thoát.
Khi Phật còn tại thế, Ngài đã bác thuyết “Tế đàn vạn năng” của Bà-la-môn giáo. Do đó, việc lễ bái ở chùa, lễ cầu siêu và lễ cầu an là rất cần thiết trong bước đầu thực thi con đường giới định tuệ, nó nhắc nhủ mọi người dự lễ noi theo lời dạy của Phật làm mọi điều lành, tránh mọi điều dữ, để hoàn thiện nhân cách, chứ lễ bái đâu có khả năng rửa sạch hết tội lỗi nếu tâm vẫn còn bất thiện?
Phật giáo Việt Nam ở thời hội nhập là Phật giáo của niềm tin và trí tuệ soi sáng, không thể dung túng những tập tục mê tín, dị đoan và người có trí không thể nào chấp nhận được. Ở đây, một lần nữa, chúng ta nhắc lại câu của nhà bác học Albert Einstein ca ngợi “Phật giáo như một tôn giáo đáp ứng được những yêu cầu của khoa học hiện đại”. Đồng thời Phật giáo cũng là tôn giáo rất nhân bản, nó tôn vinh giá trị con người như là chủ nhân ông của cuộc sống của mình, chứ không phải cần sự ban ơn, ban phước của thần linh.
Vai trò của ngôi chùa Việt Nam – ít nhất là các chùa tiêu biểu – cũng phải có sự thay đổi trong thời đại hội nhập. Chùa Phật, vẫn là nơi tiến hành các khóa lễ giản dị, nhưng giàu ý nghĩa biểu trưng của tâm linh. Đồng thời, ngôi chùa cũng phải trở thành một trung tâm Phật học, một cơ sở văn hóa lớn hoặc nhỏ, với thư viện có đầy đủ ba tạng kinh điển, với những sách Phật học và thế học có giá trị, bằng tiếng Việt và bằng các thứ tiếng khác, một nơi giảng pháp, một nơi tọa đàm giáo lý, hội thảo, giao lưu văn hóa cộng đồng và văn hóa Phật giáo trong và ngoài nước. Chùa là nơi thực tập hành Thiền và trao đổi kinh nghiệm hành Thiền, một nơi làm công tác văn hóa vật thể và phi văn hóa vật thể của dân tộc, một nơi làm từ thiện, có phong cảnh đẹp, có nhiều cây và hoa, một danh lam thắng cảnh. Nói tóm lại, chùa Phật là một nơi mà cảnh vật cũng như mọi người đến đều toát lên đạo vị giải thoát và giác ngộ của đạo Phật, đúng theo tinh thần: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” được thiết lập từ thời Lý – Trần, thể hiện một bản sắc thuần Việt trong tiến trình hội nhập Phật giáo toàn cầu.
4. PHẬT GIÁO VIỆT NAM ĐỀ CAO GIÁ TRỊ CON NGƯỜI, HƯỚNG CHO CON NGƯỜI SỐNG HẠNH PHÚC, XÂY DỰNG XÃ HỘI AN BÌNH
Trong tất cả mọi giá trị có mặt ở đời thì giá trị nhân bản phải là giá trị chuẩn của mọi giá trị, là thước đo của mọi giá trị. Mọi thành tựu văn minh, sáng kiến khoa học, sáng tạo văn học, nghệ thuật, tôn giáo cần được đánh giá theo góc độ đó. Có như vậy, con người biết yêu thương nhau nhiều, trật tự xã hội được ổn cố, trong một không gian sống toàn cầu.
Thực tế, lịch sử Phật giáo Việt Nam ghi nhận nhiều lời của các nhà Phật học, hay các Thiền sư khẳng định vị trí tối cao của con người. Thiền sư Vạn Hạnh đời Lý từng phát biểu: “...Nhậm vận thịnh suy vô bổ úy, Thịnh suy như lộ thảo đầu phô” (Khéo léo vận dụng quy luật thịnh suy thì không còn sợ hãi, Nhưng đối với mình thịnh hay suy cũng là mong manh như hạt sương trên đầu ngọn cỏ; hay Diệu Nhân Ni Sư đời Lý thì cho rằng: “Mê chi cầu Phật, Hoặc chi cầu Thiền. Thiền Phật vô cầu...!” (Mê mới cầu Phật, Hoặc mới cầu Thiền. Không cầu Phật, không cầu thiền); hoặc Thiền sư Quảng Nghiêm đời Lý: “Nam nhi tự hữu xung thiên chí, Hưu hướng Như Lai hành xứ hành” (Làm trai có ý chí cao vọt đến trời, Thôi, không đi lại con đường của Phật nữa...).(5)
Lý giải những lời dạy của các thiền sư nói trên, do trước khi nhập Niết-bàn, Phật đã từng khuyên học trò phải dựa vào bản thân mình, đừng có dựa vào cái gì khác, phải lấy mình làm ngọn đèn, phải tự thắp đuốc lên mà đi(6). Khác biệt với giáo chủ các tôn giáo khác, đức Phật Thích Ca luôn khuyên mọi người hãy tin tưởng vào khả năng của mình để thành tựu giác ngộ và giải thoát. Ngài nói: “Ta là Phật đã thành, các người là những vị Phật sẽ thành.” Trên thực tế, Phật đã đặt chúng ta ở một vị trí bình đẳng với Phật, khi Ngài nói một câu như vậy.
Trong bài kinh Các vị ở Kesaputta thuộc Tăng Chi Bộ tập I, Phật lại đặt niềm tin của chính mình vào con người có khả năng phân biệt đúng sai, thiện ác, chứ không cần dựa vào sách vở, dư luận, truyền thống, hay bất cứ một sức mạnh nào khác ở bên ngoài: “Này các Kalamas, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì vị Sa môn là bậc đạo sư của mình, chớ có tin vì đấy là truyền thống, chớ có tin vì nghe người ta nói lại, chớ có tin vì điều ấy ghi trong kinh tạng, chớ có tin vì đó là lý luận siêu hình, chớ có tin vì điều đó nói theo một lập trường, chớ có tin vì điều đó là những dữ kiện hời hợt, chớ có tin vì điều đó hợp với định kiến có sẵn, chớ có tin vì điều đó là tiếng nói của nơi có quyền uy…Nhưng này, các Kalamas, khi nào tự mình biết rõ như sau: Các điều này là điều ác, có tội, bị người trí chỉ trích, nếu chấp nhận và làm theo thì sẽ bất hạnh và đau khổ cho mình và cho người khác. Này các Kalamas, nếu tự mình biết như vậy thì hãy từ bỏ những điều ấy đi”(7).
Bài kinh trích dẫn trên, nhằm khẳng định con người có khả năng tự mình phán đoán, qua tư duy lô-gích và thực nghiệm, đánh giá mọi điều thiện và bất thiện, đúng và sai... Bài kinh này tuy được phát biểu cách đây hơn 2.000 năm nhưng đến nay vẫn mang tính thời sự nóng
hổi. Nó có giá trị như là một thông điệp gởi cho cả loài người. Nhất là trong thời kỳ hội nhập toàn cầu hóa, con người vẫn đang còn xung đột lẫn nhau bởi những định kiến vô lý về sự khác biệt của tôn giáo và tư tưởng hệ, về sắc tộc và chủng tộc. Đạo Phật ở thời đại hội nhập toàn cầu có nhiệm vụ đánh thức, khơi dậy niềm tin ở con người có khả năng phán xét phải trái, thiện ác của bản thân mình, dưới cái nhìn trí tuệ.
Nhìn lại, Phật giáo Việt Nam từng hiện thân hai vị vua đầu đời Trần, cả hai đều là những nhà Phật học lỗi lạc, tức là Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông, đã khẳng định bản chất con người là thánh thiện, mỗi người nếu biết dụng tâm tu tập đều có thể làm cho Phật tánh hiển lộ, tức là khả năng thành Phật ngay giữa cõi đời này. Trần Thái Tông viết trong Khóa Hư Lục: “Ngã thân tức Phật thân thị, vô hữu nhị tướng” (Thân ta tức là thân Phật, không có hai tướng!).(8)
Khi vua Trần Thái Tông phát biểu như vậy, không phải là nói cho riêng mình mà là nói cho tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Ông viết trong Bài Phổ Khuyến Phát Bồ đề Tâm Văn: “Khái thức Bồ Đề giác tính, cá cá viên thành...” (Sao lại không biết tính giác Bồ Đề, mọi người đều có đầy đủ...).(9) Còn Trần Nhân Tông cũng nói lại tư tưởng đó của ông nội mình là Trần Thái Tông, nhưng với một giọng văn dân dã hơn: “Bụt ở trong nhà, Chẳng phải tìm xa, Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt. Chỉn mới hay chính Bụt là ta”.(10)
Có thể nói Phật giáo Việt Nam đã tôn vinh con người lên địa vị Phật, địa vị của bậc Thánh giác ngộ tối cao, bậc Thánh đã đạt tới cảnh giới bất tử, an lạc tuyệt đối, giác ngộ hoàn toàn. Chúng ta vốn là Phật nhưng lại không tự biết, cho nên cứ đi tìm Phật ở đâu đâu, không chịu quay lại tìm Phật ở trong bản thân mình.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của khoa học, của một Phật giáo Việt Nam “đáp ứng mọi yêu cầu của khoa học hiện đại”. Thế kỷ này cũng là thế kỷ của những giá trị nhân bản, thế kỷ của con người. Phật giáo Việt Nam ở thời hội nhập là Phật giáo tiếp nối truyền thống rất nhân bản, một Phật giáo tôn vinh con người và phục vụ con người, đáp ứng những yêu cầu tâm linh cao đẹp nhất của con người.
Đạo Phật đề cao trí tuệ thực nghiệm, mà sách Phật thường gọi là tu tuệ. Chữ tu ở đây, chính là giá trị của việc thực nghiệm tâm linh.
Bất cứ một chân lý nào, dù là siêu việt như Niết-bàn Phật giáo, hay là những chân lý tương đối của thế giới hiện tượng, đều phải qua thực nghiệm mới có thể nắm bắt một cách thấu đáo được. Nói cách khác dễ hiểu, tu tuệ không chỉ dành riêng cho giới xuất gia, ở chùa mà có, mà bất cứ ai nhiệt tâm thực nghiệm tâm linh đều có thể đạt được. Thực nghiệm ở đây là sống, thực hành, chứ không có nghĩa gì khác. Einstein, khi nói tới đạo Phật tương lai, cũng nói tới thực nghiệm: “Bao quát cả thế giới tự nhiên và tâm linh, nó phải dựa trên một ý thức tôn giáo, nảy sinh từ sự thực nghiệm mọi sự vật, tự nhiên và tâm linh, như là một tổng thể có ý nghĩa...”.
Đúng như nhà bác học Einstein nói, tất cả mọi vấn đề, thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, cũng như thuộc lĩnh vực tâm linh, đều phải qua thực nghiệm mới có thể nắm bắt một cách thấu đáo. Tuy đạo Phật đề cao trí tuệ thực nghiệm, nhưng cũng không xem nhẹ trí tuệ học hỏi và trí tuệ tư duy, mà sách Phật thường gọi là văn tuệ (học hỏi mà biết) và tư tuệ (tư duy mà biết). Chúng ta nhớ lại lời Phật nói với những người Kalamas, khi Phật nói đến “những điều bị những người trí chỉ trích”, thì đó là văn tuệ, còn khi Phật nói “Tự mình biết rõ các điều này là bất thiện, là có hại...”, đó tức là tư tuệ, là hiểu biết do tự mình tư duy. Còn khi Phật nói “Các điều này thực hiện, sẽ đem lại bất hạnh và khổ đau” đó là tu tuệ, hiểu biết bằng thực nghiệm. Như vậy, khi có người nói tới chân lý tối hậu (Niết bàn) là siêu việt lý trí, tư duy lô-gích thì họ nói đúng, nhưng khi họ phủ nhận mọi giá trị của tu tuệ và văn tuệ, mọi giá trị của học hỏi và tư duy lô-gích, thì họ phạm sai lầm. Nếu thế thì Phật Thích Ca tán thán ông A Nan là “đa văn” tức là sai lầm hay sao?
Không phải như vậy, văn tuệ và tư tuệ đều có giá trị của nó. Chân giá trị con người chính là ở chỗ nó biết học hỏi những điều nó chưa biết, và ở chỗ có biết tư duy, lập luận một cách lô-gích. Tư duy lô-gích nhằm phân biệt phải trái, thiện, ác là một đặc sắc đáng quý của con người. Chính lúc này, hơn lúc nào khác, Phật giáo phải đề cao khả năng tư duy độc lập của con người, để tìm ra lẽ phải, để phân biệt chính tà, thiện ác trong cuộc sống vốn đầy biến động.
Phật giáo Việt Nam trong thời đại ngày nay là Phật giáo của trí tuệ, Phật giáo của những người có trí, không mê tín và cuồng tín, tự mình nương tựa vào chính mình, không tìm một nơi nương tựa nào khác, tự mình thắp đuốc lên mà đi, tự mình lấy mình làm ngọn đèn, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn... như Phật thường khuyên bảo. Nếu không có lý trí, không có khả năng tư duy, thì đúng như Blaise Pascal nói con người là một thứ lau sậy hèn yếu mà thôi, thế nhưng con người biết tư duy, và khả năng tư duy đó nâng cao con người lên địa vị tối linh giữa các loài.
Thế giới hiện đại là một thế giới náo loạn, sôi động. Ngoại cảnh càng ồn ào và sôi động bao nhiêu thì nội tâm càng cần được yên tĩnh, bình lặng và trong sáng bấy nhiêu. Phật giáo biện tâm và hướng nội sẽ giúp con người thành tựu được một nội tâm như vậy. Hướng nội là để cân bằng với hướng ngoại. Thực tế, cho thấy con người hiện đại hôm nay đang tự mâu thuẫn chính mình, khi đời sống văn minh càng cao thì đời sống tâm linh như có chiều đi xuống. Tâm lý học Phật giáo có thể điều chỉnh tình trạng mất cân bằng đó của con người hiện đại. Có lẽ vì vậy mà Thiền học Phật giáo đã tỏ ra rất hấp dẫn đối với người Tây phương, trong gần một thập kỷ lại đây, và trong quyển sách The Way of Zen (Con Đường Thiền), tác giả một người Tây phương, Alan W. Watts viết: “Thiền là một trong những quà tặng quý báu nhất của châu Á cho thế giới”. Nhưng xu thế hướng nội của Phật giáo Việt Nam còn có một cội rễ sâu xa hơn: Tức là đối với Phật giáo, chân lý không phải là nằm ở bên ngoài mà là ở bên trong của mỗi con người chúng ta. Tư tưởng đó xuyên suốt chiều dài lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khi Phật giáo du nhập vào đất nước ta. Các phương pháp điều thân, điều tâm được áp dụng trong các phái Thiền Việt Nam chủ yếu là nhằm điều hòa nội tâm (điều thân hay điều hơi thở chỉ là phương tiện), nhằm chuyển dần nội tâm từ tán loạn trở thành định tĩnh, từ chỗ hướng ngoại, chạy theo thanh sắc v.v... chuyển thành hướng nội, từ chỗ mê mờ trở thành sáng suốt, từ chỗ thô động, bất kham trở thành nhu nhuyễn dễ sử dụng, hướng tâm đến đâu là tùy theo ý mình. Một người tu tập tâm và điều hòa được tâm như thế sẽ là một người có sức mạnh phi thường! Sớ giải Kinh Kim Cang có câu: “Tâm chế nhất xứ, vô sự bất biện”. Nghĩa là tâm được chế ngự vào một nơi thì không có việc gì mà không làm được. Đây chính là cơ sở để xây dựng một đời sống hạnh phúc, xã hội an lạc cho mọi người.
Tóm lại, ngày nay, đất nước ta đang trên đà phát triển và hội nhập vào nền kinh tế thị trường thế giới. Đời sống sinh hoạt của Phật giáo cũng nằm bối cảnh theo xu hướng toàn cầu hóa mà vận hành. Huống chi thuộc tính của Phật giáo là duyên khởi tính, vì thế Phật giáo cũng tùy duyên uyển chuyển trong quá trình hội nhập trên mọi phương diện. Vấn đề là trong quá trình hội nhập, Phật giáo vẫn giữ sắc thái riêng của Phật giáo, của dân tộc, nhưng đồng thời cũng mang những tính chung của cộng đồng quốc tế, nhân loại.
Và như thế, trách nhiệm mỗi người Phật tử là tích cực học đạo, hành đạo tùy theo từng thời đại, hoàn cảnh với tính đa dạng của nền kinh tế thị trường mà tham gia tích cực đóng góp cho tự thân, gia đình và xã hội. Tính đa dạng của nền kinh tế thị trường trong thời hội nhập vốn chẳng xa lạ gì giáo lý Phật giáo. Người Phật tử đã nắm rõ nguyên lý duyên khởi, vô thường, vô ngã thì họ sẽ dễ dàng thích nghi và tiếp cận chuyển hóa.
1. Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 2, quyển thượng, Khóa hư lục, Phổ khuyến phát Bồ đề tâm văn, Nxb. KHXH, Hà Nội, tr. 62.
2. Viện Văn học, Sđd, Cư Trần Lạc Đạo phú, tr. 510.
3. Trung Bộ kinh III. Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt, Thích Minh Châu dịch, Trường Cao Cấp Phật học VN ấn hành 1989, tr. 34
4. Kinh Pháp Cú, Thích Minh Châu dịch, Nxb. Tôn giáo, 2000, tr. 54.
5. Xem, Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, Nxb Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1992.
6. Xem các Kinh Đại Bát Niết Bàn-Trường Bộ Kinh I và Kinh Du Hành-Trường A Hàm I.
7. Tăng Chi Bộ kinh I, Kinh Các Vị Ở Kesapputa, Trường Cao cấp Phật học VN ấn hành, 1988, tr,388.
8. Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, Sđd, tr. 84.
9. Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, Sđd, tr. 62.
10. Viện văn học, Thơ văn Lý Trần, Sđd, tr. 509.
Bình luận bài viết