DANH SĨ XỨ NGHỆ: TIẾN SĨ ĐINH VĂN CHẤP
NGƯỜI MỞ ĐẦU CHO CÔNG VIỆC DỊCH THƠ THIỀN
THỜI LÝ –TRẦN
ĐÀO NGUYÊN*
Học giả Phạm Quỳnh (1892 – 1945) trong phần mở đầu của bài khảo cứu “Phật Giáo Lược Khảo” viết năm 1920, đã than thở về tình trạng suy đồi của Phật Giáo thời bấy giờ: “…Đã lâu nay, đạo Phật nhiều người tin mà ít người biết, những bậc cao tăng danh thiền đời xưa tuy cũng có mà gần đây không đâu còn, tới nay đến những nơi chùa chiền, đám Tăng chúng cũng khó lòng tìm được người nào là còn giữ được chút tâm hồn Phật Giáo. Đạo Phật bây giờ chỉ có tên mà không có thực, chỉ có bóng mà không có hình…Phật Giáo đã vắng ngắt trong cõi tư tưởng nước ta lâu lắm vậy!”[1].
Ghi nhận như thế là có phần chính xác, chứng tỏ cái tâm của nhà nghiên cứu “thương tiếc” xót xa vì sự suy kém của một tôn giáo, một nền Đạo học đã từng có ảnh hưởng lớn đối với văn hóa Việt Nam. Nhưng nhìn chung, nhận xét như Phạm Quỳnh là quá đáng.
Thực tế vào thời bấy giờ, trong cửa thiền , đây đó vẫn có các bậc cao tăng tài đức gồm đủ, đang cố gắng hết sức để duy trì mạng mạch của Phật giáo Việt Nam, chờ có hoàn cảnh thuận tiện sẽ phát huy[2].
Thêm nữa, bên ngoài, vẫn có các vị cư sĩ, các nhà trí thức, tuy sống trong thời kì chữ Hán đã trở thành quá khứ, nhưng vẫn tâm niệm: Cần phải bảo tồn và phát huy vốn văn hóa – văn học cổ Việt Nam. Trong chiều hướng đó, Tiến sĩ Đinh Văn Chấp, chính là người mở đầu cho công việc dịch thuật thơ văn cổ, nhất là mảng thơ Thiền thời Lý – Trần.
Đinh Văn Chấp (1882 - 1953); người xã Kim Khê, huyện Nghi Lộc, phủ Hưng Yên, tỉnh Nghệ An; xuất thân từ một gia đình khoa bảng, có truyền thống yêu nước, mộ Phật, đậu tiến sĩ năm Quý Sửu (1913), cộng tác với tạp chí Nam Phong; Hán học vững, am tường về thi ca, lại có những hiểu biết về Phật học, là những yếu tố cơ bản giúp ông mạnh dạn làm công việc mở đầu cho phong trào dịch thuật thơ Thiền thời Lý – Trần.
Năm 1927, trên tạp chí Nam Phong số 114, 115, 116[3], Tiến sĩ Đinh Văn Chấp đã công bố các bản dịch của mình gồm 113 bài, bước đầu giúp cho người đọc làm quen với mảng thi ca khá đặc thù ấy. Trong khi chờ đợi một sự tiếp cận đầy đủ các dịch phẩm kia, chúng tôi, trong khả năng rất hạn chế của mình, đã tập hợp được hơn 40 bài, bước đầu xin giới thiệu một gương mặt dịch thuật thơ Thiền tuy xuất hiện cách nay đã hơn 80 năm nhưng đối với chúng ta rất gần gũi.
Đời Lý
Chúng tôi nêu bản dịch, phần trong ngoặc là nguyên bản chữ Hán được phiên âm. Một số trường hợp, chúng tôi xin có một vài ghi nhận, đối chiếu cần thiết.
Kệ “Thị Tịch” của Quốc sư Vạn Hạnh
Có không tựa chớp chiếc thân này
Muôn vật tư mùa khéo đổi thay
Khí vận thịnh suy nào chút sợ
Xem dường giọt móc đỗ trên cây.
Đinh Văn Chấp dịch, Dẫn theo Việt Nam cổ văn học sử (VNCVHS) của Nguyễn Đổng Chi, bản in 1970, S, tr.104.
(Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn vật xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô)
Kệ “Truy tán Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi” của vua Lý Thái Tông
Qua Nam từ thuở trước
Người đã tiếng say Thiền
Phép Phật mười phương đủ
Lòng xa một mối truyền
Lăng Già trong vẻ nguyệt
Bát Nhã nức mùi sen
Bao giờ hay gặp mặt
Cùng giải lẽ u huyền.
Đinh Văn Chấp dịch. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr.13
(Sáng tự lai Nam quốc
Văn quân cửu tập thiền
Ứng khai chư Phật tín
Viễn hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng Già nguyệt
Phân phân Bát Nhã Liên
Hà thời lâm diện kiến
Tương dữ thoại trùng huyền).
Kệ “Truy Tán Quốc sư Vạn Hạnh” của vua Lý Nhân Tông
Vạn Hạnh thông ba học
Rành rành có sấm thi
Quê nhà tên Cổ Pháp
Gậy Phật đất vương kỳ.
Đinh Văn Chấp dịch. Dẫn theo VHCVHS, sđd, tr.105 – 106
(Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm ky
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ).
Tam tế mà dịch là “Ba học” là chưa sát, nhưng cũng có thể chấp nhận được. Ba học ở đây là chỉ cho Nho học, Phật học, Lão học, hoặc Giới học, Định học, Tuệ học theo Phật giáo, và như thế thì đấy là một vị thiền sư tài trí và đạo hạnh toàn diện.
Trong Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, Thượng tọa Mật Thể dịch:
Thiền sư học rộng bao la
Giữ mình hợp phép sấm ra ngoài lời
Quê hương Cổ Pháp danh ngời
Tháp bia đứng vững muôn đời đế đô.
(VNPGSL, bản in 1960, tr.121)
Ngô Tất Tố (1894 – 1954) trong Văn Học Đời Lý đã dịch:
Học rộng làu ba cõi
Lời in tiếng sấm xưa
Quên làng tên Cổ Pháp
Dựng gậy vững kinh vua
(VHĐL, bản in 1960, tr.45)
Tam tế dịch là ba cõi là cũng không sát, mà giải thích Tam tế gồm trời, đất, người (VHĐL, sđd, tr.44) cũng không đúng. Trời, đất, người là Tam tài[4]. Tam tế là 3 đời quá khứ, hiện tại và vị lai.[5] Đây là bản dịch của Giáo sư Nguyễn Lang:
Hành tung thấu triệt ba đời
Ngữ ngôn phù hợp muôn lời sấm xưa
Quê hương Cổ Pháp bấy giờ
Dựng cây tích trượng, kinh đô vững bền.
(VNPGSL I, bản in 1992, tr. 163)
Kệ “Thị tịch” của Thiền sư Mãn Giác
Thời tiết qua rồi lại
Hẹn hò xuân với hoa
Trước mắt thoi đưa việc
Trên đầu tóc giục già
Chớ nói xuân tàn hoa cũng vậy
Sân mai một đóa mới hôm qua.
Đinh Văn Chấp dịch[6].
(Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đinh tiền tạc dạ nhất chi mai).
Bài “Ngôn hoài” của Thiền sư Không Lộ
Long xà đất ở chọn lâu nay
Mượn thú quê vui mới trót ngày
Có lúc đưa chân lên đỉnh núi
Kêu dài một tiếng lạnh cung mây.
Đinh Văn Chấp dịch[7]
(Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư).
Long xà: Ở đây, Đinh Văn Chấp đã để nguyên không dịch. Kiều Thu Hoạch trong tạp chí Văn học – được Thơ Văn Lý – Trần I dẫn lại cũng để nguyên (Kiểu đất Long xà chọn được nơi…)[8]. Ngô Tất Tố trong VHĐL đã giải thích Long xà là rồng rắn và dịch: “Lựa nơi rồng rắn đất ưa người…”[9].
Theo chúng tôi, trong thuật ngữ Phật học, chúng ta đã có Long tượng, Long mã, không phải là rồng voi, rồng ngựa mà là voi quý, ngựa quý. Vậy Long xà có thể hiểu là rắn thiêng. Chúng ta lại có từ xà pháp, chỉ cho pháp thấp. Như thế, Long xà có thể hiểu là những vùng đất trũng sâu, (sông, hồ) có địa thế thoáng đẹp. Giáo sư Nguyễn Lang đã dịch: “Chọn nơi địa thế đẹp sông hồ”[10] phải chăng là theo ý vừa nêu?
Thơ của Đoàn Văn Khâm viếng Thiền sư Quảng Trí
Đầu bạc non xanh lánh bụi hồng
Tầng mây rũ áo gió thơm lồng
Rắp đem khăn tĩnh theo nhà tiểu
Bỗng thấy giày rơi đóng cửa không.
Chim hóng trăng chùa thưa giọng hót
Ai đề bia mộ kén ngòi lông
Tăng đồ xin chớ buồn ly biệt
Kìa ảnh truyền thần có núi sông.
Đinh Văn Chấp dịch[11]
Đời Trần
Thơ của hai vị Tổ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử:
1. Thơ của vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308), tức Trúc Lâm đệ nhất Tổ:
Lên núi Bảo Đài
Cảnh vắng nhà rêu phủ
Cành xuân nhị tuyết phong
Chung trời mây dải núi
Chia bóng ngõ chen bông.
Muôn việc theo dòng nước
Trăm năm ngỏ tấm lòng
Nương cầu giong tiếng địch
Dạ khách tấm trăng trong.
Trăng
Đèn song chếch bóng sách kề đầu
Đêm vắng sân rơi giọt móc thâu
Thức dậy, tiếng chày đâu đến tá?
Trên cành bông quế bóng trăng nhô.
Đinh Văn Chấp dịch[13]
Phủ Thiên Trường
Hồng lục phai màu cảnh quạnh hiu
Hoa vi mây móc dáng buồn thiu
Sư về trong viện câu kinh vẳng
Lầu ở trên sông bóng nguyệt treo.
Ba chục cung Tiên cây tháp đặt
Tám nghìn cõi Phật tiếng triều reo
Phổ Minh cảnh Phật còn như cũ
Trong giấc mơ màng thấy Thuấn Nghiêu.
Đinh Văn Chấp dịch[14]
2.Thơ của Thiền sư Huyền Quang (1254 – 1334) là đệ tam Tổ:
Phiếm Chu – (Đi chơi thuyền)
Cưỡi thuyền lướt gió sóng mênh mông
Non nước trời thu một sắc trong
Tiếng sáo thuyền câu ngoài bến sậy
Trăng rơi đáy nước móc đầy sông.
Đinh Văn Chấp dịch[15]
Hoa cúc (Bài 3):
Thân thế nào hay có với không
Một giường lạnh ngắt kẻ ngồi trông
Giữa non năm cuối quên ngày tháng
Mách tiết trùng dương cúc nở bông.
Đinh Văn Chấp dịch[16]
Chu trung – (Trong thuyền)
Dấu khách giang hồ thuyền một lá
Hàng lau lách gió chèo thong thả
Bốn bề trông quạnh ngọn triều lên
Nước biếc liền trời âu trắng xóa.
Đinh Văn Chấp dịch[17]
3. Thơ của các vị vua đời Trần:
Thơ của vua Trần Thánh Tông (1240 – 1290):
Hạ cảnh – (Cảnh mùa Hè)
Bóng ác ngày dài dãy gác hoa
Nhị sen đưa mát trước song qua
Sau mưa, cây cỏ buông màn biếc
Vài tiếng ve kêu rộn bóng tà.
Đinh Văn Chấp dịch[18]
Thơ của vua Trần Minh Tông (1300 – 1357):
Bạch Đằng Giang
Giáo gươm chởm chởm đám mây phô
Làn sóng về đông sắc khéo tô
Gấm đất sau mưa màu cỏ ối
Đàn trời trước gió tiếng thông vo,
Xưa nay một bức đồ sơn thủy
Thua được nhìn năm dấu Việt Hồ
Nước nhiễm bóng tà sông đỏ rực
Máu người chinh chiến ngỡ chưa khô.
Đinh Văn Chấp dịch[19]
Văn Pháp Loa Tôn giả - (Viếng Tôn giả Pháp Loa)
Trắng tay chẳng chút nợ trần mang
Đã có người truyền phép Giác vương
Giày xếp trong quan nghìn núi cỏ
Ve ra ngoài xác một cây sương
Trăng đêm nương náu trong Tăng viện
Mù sớm ngăn che trước Pháp đường
Kim cổ cùng nhau nay vắng vẻ
Viếng ai một khúc lệ đôi hàng.
Đinh Văn Chấp dịch[20]
Tham khảo bản dịch của Giáo sư Nguyễn Lang:
Tay duỗi trần hoàn rũ sạch duyên
Giác Hoàng sự nghiệp đã nên truyền
Chân mộ núi xanh mờ cỏ dại
Xác ve cây biếc tỏa sương mềm.
Giảng đường dọi bóng trăng kim cổ
Thiền thất mờ sương khói nhị biên
Tiếc duyên kim cải ngày xưa đó
Chuốt một bài thơ khóc bạn thiền.
(VNPGSL I, sđd, tr.396)
Tiễn sứ Bắc…
Vạch đám mây mù ruổi vó câu
Tuyệt vời cờ tuyết nước in màu
Làm trai giao thiệp phương trời quạnh
Rắp kẻ bao dung lượng bể sâu
Thơ Thánh sẵn đề non nước Việt
Ơn vua đem tưới móc mưa Châu,
Vầng mây Nam Bắc ngày mai đã
Chén rượu từ chi lúc hợp nhau.
(Đinh Văn Chấp dịch)[21]
4. Thơ của một số tác giả đời Trần – Hồ:
Chúng tôi đã ghi nhận được 26 bài của 15 tác giả:Trần Quang Triều (1286 – 1325): 1 bài[22]; Nguyễn Trung Ngạn (1289 – 1370): 2 bài; Chu Văn An (1292 – 1370): 1 bài; Phạm Sư Mạnh (thế kỷ XIV): 4 bài; Lê Bá Quát (thế kỷ XIV): 1 bài; Trần Nguyên Đán (1325 – 1390): 3 bài; Phạm Ngộ (thế kỷ XIV): 3 bài; Phạm Mại (thế kỷ XIV): 1 bài; Phạm Nhân Khanh (thế kỷ XIV): 3 bài; Hồ Tông Thốc (hậu bán thế kỷ XIV): 1 bài; Chu Đường Anh ( cuối thế kỷ XIV): 1 bài; Lê Cảnh Tuân (? – 1216): 2 bài; Nguyễn Phi Khanh (1355 – 1428): 1 bài ; Trần Lâu (đầu thế kỷ XV): 1 bài; Phạm Nhữ Dực (đầu thế kỷ XV): 1 bài.
Chúng tôi xin giới thiệu một số bài dịch tiêu biểu
Trần Quang Triều
Chu trung độc chước
(Uống rượu một mình trong thuyền)
Màu thu hiu hắt khắp non thành
Trời bể tin nhà đợi vắng tanh
Nết ở nhặt thưa mưa trước mái
Mùi đời cao thấp sóng đầu ghềnh.
Bạn xưa tùng cúc chia đôi ngả
Tuổi tác đàn thơ hợp với mình
Trong dạ ngổn ngang nào tả xiết
Hãy nâng chén rượu dốc lưng bình.
Đinh Văn Chấp dịch[23]
Nguyễn Trung Ngạn
Hồ Nam
Ngán nỗi lao đao giữa bụi hồng
Hồ Nam, thử mở mắt trần trông
Buồm đưa thuyền tới chừng muười dặm
Mưa vượt lầu qua độ nửa sông.
Nhạc Lộc từng mây, chuông cửa Phật
Hành Dương chiếc bóng, nhạn trên không
Trường Sa quạnh cõi trông càng nhớ
Tiếc Giả sinh kia gặp vận cùng.
Đinh Văn Chấp dịch[24]
Chu Văn An
Sơ Hạ - (Đầu mùa Hè)
Trại non chợt tỉnh giấc mùa hè
Hơi mát đưa qua chiếc bóng mai
Tìm lối lũy hoang xao xác yến
Đầy đường tiếng mới não nùng ve
Nhấp nhô sen nước xa mùi tục
Ngay thẳng măng đồng át giậu tre
Lặng dựa cành ngô người tựa biếng
Gió đâu giở sách ý khôn đè.
Đinh Văn Chấp dịch[25]
Phạm Sư Mạnh
Đề Cam Lộ tự - (Đề chùa Cam Lộ)
Rẽ đám mây mù gõ trước rèm
Buồng Tăng nhà Phật nước quanh thềm
Gió lay giọt lệ sương phá tóc
Thơ Mục Lăng xưa lại đọc lên.
Đinh Văn Chấp dịch[26]
Trần Nguyên Đán
Dạ quy chu trung tác
(Thơ làm trên thuyền trong đêm trở về):
Dân bị lầm than mấy triệu thừa
Yên tan, Biện nát đã bao giờ
Giang hồ chiếc gối chưa yên giấc
Mượn lửa thuyền chài đọc sách xưa.
Đinh Văn Chấp dịch[27]
Phạm Ngộ
Cảm tác Lúc đi thuyền… (bài 2):
Phù Trạch năm nay lại dạo qua
Non nước in xưa, người đã già
Ngày tháng thoi đưa nhà xuân vắng
Sóng nổi cơn sầu nghìn dặm xa.
Đinh Văn Chấp dịch[28]
Phạm Mại
Nhân lúc rỗi, dùng thơ sáu chữ…
Cây đỏ một khe nước chảy
Non xanh nghìn dặm bóng chênh
Muốn gọi chiếc thuyền về thử
Thân này xuất xử chưa đành.
Đinh Văn Chấp dịch[29]
Phạm Nhân Khanh
Đêm thất tịch
Chuôi Đẩu về Tây bánh hỏa thâu
Duyên trời gặp gỡ Nữ và Ngâu
Mây giăng sông bạc dường cây tán
Trăng đứng cầu ao tựa lưỡi câu.
Mùi đủ vui buồn đêm kết ước
Hương xông kim chỉ khách nương lầu,
Cười mình bản tính xưa nay vụng
Khéo léo nghề ai chẳng chút cầu.
Đinh Văn Chấp dịch[30]
Hồ Tông Thốc
Qua chơi Hồ Động Đình, họa thơ của Nhị Khê
Khen ai tài bộ tuổi còn xanh
Già với văn chương hổ phận mình
Lòng Phật hẳn quên điều được mất
Giấc Tiên nào thấy cuộc đua tranh
Che mù đành vậy, beo trên núi
Không lưới khen chi cá dưới gành
Thăm viếng miễn cho ngày mỗi có
Khánh treo chớ ngại kẻ Đông đình.
Đinh Văn Chấp dịch[31]
Chu Đường Anh
Đề bức tranh…
Ngựa Ngọc Hoa sao khéo lạ lùng
Tắm rồi đém tiến dưới sân rồng
Nếu lòng yêu mến người như ngựa
Lọ phải lo dân nỗi khốn cùng.
Đinh Văn Chấp dịch[32]
Lê Cảnh Thân
Nguyên nhật - Ngày đầu năm
Đất khách bao ngày trải
Trời xuân năm thứ hai
Kỳ về còn chưa định
Quê cũ đã chồi mai.
Đinh Văn Chấp dịch[33]
Nguyễn Phi Khanh
Gia viên lạc- Thú quê nhà
Vườn xưa kinh loạn sẵn nhà xưa
Ham sách vui xem lũ trẻ thơ
Hoa rụng chim kêu đầu ngõ vắng
Giấc tàn gió mát cánh song thưa
Lòng vào chốn tĩnh thiên sầu dứt
Học đến chừng hay sức khỏe thua
Trần lụy buộc mình từ ấy khỏi
Chàng Phan chiếc ốc đủ khoan thư.
Đinh Văn Chấp dịch[34]
Trần Lâu
Qua ải Hàm Tử - (Quá Hàm Tử quan)
Sa tràng đau đớn chuyện tương truyền
Hàm Tử hôm nay ngấp nghé thuyền
Trống giục ngọn triều nghe tiếng nhặt
Cờ giăng bóng trúc đứng hàng chen
Cây già còn nhiễm xuân trời Việt
Sóng lạnh khôn nguôi trận giặc Nguyên
Dò hỏi Toa Đô nơi tử trận
Nước non thăm thẳm lối xưa quên.
Đinh Văn Chấp dịch[35]
Phạm Nhữ Dực
Ông Lý Hạ Trai tới thăm…
Tuyết in mấy độ vuốt chim Hồng
Gặp gỡ sao không ước cũng đồng
Mặt vắng khiến người trông Thúc độ
Thân hèn thẹn kẻ mộng Chu công.
Mượn câu văn vẻ lời vàng đá
Cầm chén thề chia gánh núi sông
Xin chép thơ này làm khoán ước
Ngại gì đất Bắc với trời Đông.
Đinh Văn Chấp dịch[36]
Trong số 42 bài đã tập hợp được, chúng tôi giới thiệu 31 bài, tạm đủ để chúng ta thấy được phần nào những nổ lực cùng những thành tựu bước đầu của người dịch. Không chỉ mang tính chất mở đường, một số bài dịch của Tiến sĩ Đinh Văn Chấp đã đạt đến những giá trị nghệ thuật cao, được các tuyển tập, toàn tập sử dụng, nêu dẫn, khiên tên tuổi ông càng trở nên gần gũi, thân thiết đối với chúng ta, những người vốn luôn mến mộ thơ văn thời Lý – Trần.
Cùng với sự việc Học giả Lê Thước (1890 – 1975) đã phát hiện tác phẩm Văn tế Thập Loại Chúng Sinh của thi hào Nguyễn Du (1765 – 1820) tại ngôi chùa Diệc (Nghệ An). Cùng với sự việc nhà chí sĩ, nhà văn Phan Bội Châu (1867 – 1940) đã công bố về tiểu sử cùng hành trạng của Thiền sư Thiện Quảng (1862 – 1911). Và cùng với việc H.th Thích Minh Châu (tức Đinh Văn Nam, con trai của Tiến sĩ Đinh Văn Chấp) một vị danh tăng tiêu biểu của Phật Giáo Việt Nam thế kỷ XX, người đã mở đầu cho sự nghiệp Việt dịch ĐTK chữ Pali, đã dịch 4 Bộ Nikàya (Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ) góp phần chính để hoàn thành ĐTK Việt Nam phần Phật Giáo Nam truyền… Tất cả đã cho thấy, danh lam của xứ Nghệ An, nhân tài, danh sĩ của xứ Nghệ An, đã lưu giữ, đã đóng góp rất đáng kể cho Phật Giáo nói chung và Phật Giáo Việt Nam nói riêng. Như thế thì văn hóa Phật Giáo xứ Nghệ An cần được sưu tập, cần được bảo tồn và phát huy, cần được hiện đại hóa…góp phần giúp cho Phật Giáo Nghệ An hiện tại đạt được những thành tựu, vướn tới tầm cao đã có trong quá khứ.
* Nhà dịch thuật Hán tạng
[1]. Phật giáo lược khảo, in trong Thượng chi văn tập, tập 4, Nxb A.De Rodes, Hà Nội, trang 8.
[2]. Xem thêm: Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo sử luận, T3, tr.22 – 23.
[3]. Theo Thơ văn Lý – Trần, T1, 1977, tr.141.
[4]. Hán Việt TĐ của Đào Duy Anh, bản in năm 1957, quyển hạ, tr .228.
[5]. Phật Quang ĐTĐ, tr.668 thượng; Phật học ĐTĐ của Đinh Phúc Bảo, tr.347 hạ 348 thượng.
[6]. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr. 130
[7]. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr.131.
[8]. Thơ văn Lý – Trần I, 1977, tr.385
[9]. VHĐL, sđd, tr.67
[10]. VNPGSL I, sđd, tr.220
[11]. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr.133
[12]. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr.310
[13]. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr. 311
[14]. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr.311
[15]. Hợp tuyển Thơ văn Việt Nam thế kỷ X – XVII (HTTVVN) 1976, tr.161
[16]. Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu – (VNVHSY), bản in 1968, tr.243
[17]. Dẫn theo Thơ Văn Lý – Trần II – TVLT II, 1989, tr.685
[18]. Dẫn theo TVLT II, sđd, tr.404
[19]. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr.316
[20]. Dẫn theo TVLT II, sđd, tr.807
[21]. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr.329-330
[22]. Trong Việt Nam Phật Giáo sử luận I, Giáo sư Nguyễn Lang dựa theo tài liệu nơi Tam Tổ thực lục, cho biết Trần Quang Triều đã xuất gia tu Phật năm 1322 (sđd, tr.438)
[23]. Dẫn theo TVLT II, sđd, tr.622
[24]. Dẫn theo HTTVVN, sđd, tr.224 – 225
[25]. Dẫn theo VNVHSY, sđd, tr.241
[26]. Dẫn theo Thơ văn Lý – Trần 3, 1978, tr.85
[27]. Dẫn theo HTTVVN, sđd, tr.256
[28]. Dẫn theo TVLT II, sđd, tr.830
[29]. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr.409
[30]. Dẫn theo TVLT 3, sđd, tr.306
[31]. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr.393
[32]. Dẫn theo TVLT 3, sđd, tr.246
[33]. Dẫn theo HTTVVN, sđd, tr.292
[34]. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr.391 – 392
[35]. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr.394
[36]. Dẫn theo VNCVHS, sđd, tr.395
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết