Thông tin

ĐẠO HỮU CHÁNH TRÍ VÀ HỘI PHẬT HỌC NAM VIỆT

KỶ NIỆM 112 NĂM NGÀY SINH ĐẠO HỮU CHÁNH TRÍ MAI THỌ TRUYỀN

(01/04/1905 – 01/04/2017)

ĐẠO HỮU CHÁNH TRÍ
VÀ HỘI PHẬT HỌC NAM VIỆT

 

TỐNG HỒ CẦM

 

Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền (1905-1973)

 

Năm 1951, tôi ở Huế, đang làm Chánh Thư ký Hội Việt Nam Phật học Thừa Thiên - Huế, khi Tổng hội Phật giáo Việt Nam ra đời, tôi được đề cử vào chức vụ Phó Tổng Thư ký, do cố Đại lão HT. Thích Tịnh Khiết làm Hội chủ và dịp này tôi có cơ duyên gặp đạo hữu Chánh Trí. Nghe tiếng Hội Phật học Nam Việt đã lâu nay được diện kiến người có đạo tâm tôi rất hoan hỉ. Đạo hữu Chánh Trí ngỏ lời mời tôi vào Sài Gòn để cùng làm việc trong Hội. Tôi nhận lời nhưng mãi đến năm 1953 tôi mới vào Sài Gòn được sau khi xin phép các vị Hòa thượng và sắp xếp chuyện gia đình. Từ đây tôi luôn gắn bó với đạo hữu Chánh Trí mà tôi coi như một người anh trong gia đình.

 

 

Ban Phật học chùa Phật học Xá Lợi thăm và mừng thọ cư sĩ Tống Hồ Cầm

 

Phải nói rằng ở miền Trung, có đạo hữu Tâm Minh Lê Đình Thám là trụ cột của công cuộc chấn hưng Phật giáo, thì ở miền Nam có đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền, một khuôn mặt Phật tử lớn đã cống hiến nhiều công lao trong việc chấn hưng và xây dựng Phật giáo phương Nam. Trong đó, ông là người có công lớn trong việc khởi xướng cùng với Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, với sự cộng tác đắc lực của các danh tăng  Quảng Minh, Quảng Liên, Thiện Hòa, Huyền Dung, và một số đạo hữu có kiến thức Phật học và đạo tâm thành lập Hội Phật học Nam Việt.

Hội Phật học Nam Việt được thành lập ngày 19-9-1950 tại Sài Gòn, là đoàn thể nam nữ đạo hữu Phật học ở miền Nam Việt Nam tổ chức có hệ thống rõ ràng, có điều lệ nội quy được chính quyền lúc bấy giờ công nhận về mặt pháp lý để hoạt động và kết hợp bước đầu một số Phật tử cả xuất gia lẫn tại gia nam nữ.

Đến ngày mùng 6 tháng 5 năm 1951, một Đại hội Phật giáo toàn quốc được triệu tập tại Huế để thống nhất Phật giáo và thành lập một Hội lớn liên hiệp, gọi là Tổng hội Phật giáo Việt Nam gồm có 6 tập đoàn: Giáo hội Tăng già Bắc Việt, Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt (cư sĩ), Giáo hội Tăng già Trung Việt, Hội Việt Nam Phật học Trung Việt (cư sĩ), Giáo hội Tăng già Nam Việt và Hội Phật học Nam Việt (cư sĩ). Thực ra thì ở Nam Việt lúc bấy giờ khởi sự chỉ có một tổ chức Phật giáo là Hội Phật học Nam Việt công khai đại diện cho cả hai phái xuất gia và tại gia, nhưng vì Bắc Việt và Trung Việt đều có hai phái đoàn: một xuất gia và một tại gia, nên các vị Tăng sĩ ở Nam Việt phải tách ra thành lập Giáo hội Tăng già Nam Việt để tham gia Đại hội Phật giáo toàn quốc lúc đó, vì vậy Hội Phật học Nam Việt từ đó chỉ gồm có các Phật tử đạo hữu tại gia mà thôi.

Hội Phật học Nam Việt đã phát triển đều, trước ngày giải phóng đất nước, có hơn 40 Tỉnh hội và Chi hội, riêng hội sở Trung ương ở Sài Gòn có hơn 6.000 hội viên thực hành có ghi tên gia nhập, ngoài ra còn có một số công đức hội viên cùng một số đông cảm tình viên và thí chủ hết lòng tán trợ, ủng hộ, kể cả hơn 10.000 người.

Lúc đầu, Hội Phật học Nam Việt đặt trụ sở tạm tại một ngôi chùa mượn ở khu Hòa Hưng tên là chùa Khánh Hưng, sau dời về chùa Phước Hòa, khu Bàn Cờ cũng trên địa bàn Sài Gòn nhưng chùa vẫn còn xập xệ, mái lá.

Không biết phải vì biết tin hâm mộ di tích Phật của tín đồ Phật giáo Việt Nam hay không, mà năm 1953, Đại đức Narada, Tọa chủ chùa Vajirarama ở Sri Lanka sang thăm Việt Nam, phụng thỉnh theo 3 viên xá lợi của đức Phật và 3 cây bồ đề con trồng trong 3 lon sữa bò, định cúng cho 3 nơi: Phật giáo Nguyên thủy (Kỳ Viên tự), Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Campuchia (theo lời tuyên bố của Đại đức  lúc đến phi trường Tân Sơn Nhất).

Được ủy nhiệm, đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền đứng đầu một phái đoàn hợp cùng phái đoàn của Ban cung nghinh do Phật giáo Nguyên thủy tổ chức, lên tận phi trường nghinh tiếp Đại đức  và các bảo vật. Về đến chùa Kỳ Viên, Đại đức  lặp lại lời tuyên bố ban đầu và nói thêm là sáng hôm sau, Đại đức  sẽ trao cho đạo hữu Chánh Trí phần xá lợi và cây bồ đề dành cho Phật giáo Đại thừa.

Chẳng lẽ thờ phượng Xá lợi Đức Thế Tôn lại thờ trong ngôi chùa xập xệ, do đó đến năm 1956, Hội Phật học Nam Việt quyết định xây chùa mới tại một vị trí khác, để có nơi xứng đáng phụng thờ di bảo của Đức Thế Tôn và đủ chỗ cho thiện tín đến lễ bái.

Thế là anh em chúng tôi phải đi tìm đất cất chùa. Mấy tháng trời, khi chạy ngang qua góc đường Bà Huyện Thanh Quan và Lê Văn Thạnh (nay là đường Sư Thiện Chiếu), thấy mảnh đất trống có mấy đứa trẻ đang đá bóng, chúng tôi mừng lắm liền liên hệ với chủ đất là Câu lạc bộ Đông Dương. Nhờ vào vị trí công chức của đạo hữu Chánh Trí trong Chính phủ Bửu Lộc và danh tiếng về đạo tâm của ông, Câu lạc bộ này chỉ nhượng mảnh đất với giá tượng trưng là một đồng bạc Việt Nam.

Có đất rồi, tiền đâu xây chùa? Đạo hữu Chánh Trí cho dựng tấm bảng cổ động tại công trường về việc xây cất chùa thờ xá lợi. Với cương vị công chức, đạo hữu đã vận động được chánh quyền cấp giấy phép lạc quyên. Theo Nghị định số 216-HCSV/P2 ngày 19-1-1956 của Chính phủ tại Nam Việt, Hội Phật học Nam Việt được phép lạc quyên khắp 21 tỉnh có Tỉnh hội và Chi hội thuộc hệ thống tổ chức của Hội Phật học Nam Việt, lấy tiền xây chùa. Ngoài sự đóng góp của các Phật tử hội viên cũng như của khách thập phương, đạo hữu Chánh Trí còn tổ chức xổ số Tombola. Cuối cùng, nhờ Phật gia hộ, Hội đã thu được đủ tiền bạc để bắt tay vào việc khởi công đào móng vào ngày 05-8-1956, công trường được đặt dưới sự đôn đốc của hai kỹ sư Dư Ngọc Ánh và Hà Tố Thuận.

Lễ khánh thành chùa Xá Lợi được cử hành tưng bừng trong 3 ngày 2, 3, 4 tháng 5 năm 1958, tức là 14, 15, 16 tháng 3 năm Mậu Tuất, trong niềm hoan hỷ của mọi người. Trong dịp này, Hội Phật học Nam Việt có kính nhờ HT. Khánh Anh, lúc ấy là Pháp chủ của Giáo hội Tăng già Nam Việt, đồng thời là Chứng minh Đại đạo sư của Hội Phật học Nam Việt, đặt tên cho chùa. Hòa thượng dạy: “Còn đặt tên gì nữa, công chúng đã gọi là chùa Xá Lợi thì lấy tên ấy cho hợp lòng người”. Thật vậy, trong lúc xây cất, Hội có cho cắm một tấm bảng cổ động tại công trường về việc xây cất chùa thờ xá lợi, thế là dân chúng cứ gọi là chùa Xá Lợi.

Sau khi có Chùa, có giảng đường rộng rãi, vào mỗi sáng Chủ nhật, sau khóa lễ Tịnh độ đều có buổi thuyết pháp thường xuyên do đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền phụ trách. Giảng đường này đã hân hạnh đón tiếp nhiều giảng sư quốc tế nổi danh như Quốc sư Diễn Bồi, Đại đức Narada, Giáo sư Khantipalo...  cũng như những giảng sư có biệt tài trong nước thuộc Ban Hoằng pháp Giáo hội Tăng già Nam Việt và Phật học đường Ấn Quang. Nhiều bộ kinh Phật quý báu đã được giảng giải rành rẽ, sự lý viên dung, nhiều mật nghĩa được làm cho sáng tỏ và dễ hiểu, hợp với trình độ hiểu biết của nhiều tầng lớp, Phật tử, kể cả với trình độ hiểu biết rộng của hàng Phật tử trí thức. Có thể nói, giảng đường là trọng tâm hoạt động của Hội Phật học Nam Việt, là trái tim của chùa Xá Lợi, là nơi truyền bá chánh pháp của Như Lai. Mục đích của Hội Phật học Nam Việt là tu và học, từ bi và trí tuệ đi đôi, phước huệ song nghiêm, nên vị trí của giảng đường được đặt vào chỗ quan trọng, ngay thẳng cổng vào. Sau khi đạo hữu Chánh Trí Mai Thọ Truyền quy tịch, Ban Quản trị Trung ương Hội Phật học Nam Việt đã quyết định đặt tên giảng đường chùa Xá Lợi là Giảng đường Chánh Trí. Ngày 01-7-1973, lễ khai môn được cử hành hết sức trang nghiêm do Đại đức Narada và quý Tăng chúng trong Ban Trụ trì chùa Xá Lợi tổ chức.

Hội Phật học Nam Việt luôn luôn giữ tình giao hảo tốt đẹp với các tôn giáo khác, ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Đạo hữu Hội trưởng Chánh Trí đã tham dự Hội nghị Văn hóa Phật giáo tại New Delhi (Ấn Độ) hồi tháng 11 năm 1956, dự Hội nghị Văn hóa Tokyo (Nhật Bản) năm 1958, dự Hội nghị Phật giáo Thế giới lần thứ 6 tại Phnom Penh năm 1962 và được bầu làm Phó Chủ tịch, dự Hội nghị Phật giáo Thế giới lần thứ 7 tại Bénares (Ấn Độ) năm 1964 và đã đi Hoa Kỳ với tư cách là khách danh dự vào năm 1962. Nhờ những cuộc du hành hữu ích của đạo hữu Hội trưởng Chánh Trí mà tên tuổi của Hội Phật học Nam Việt và chùa Xá Lợi được nhiều người trên thế giới biết đến và trọng thị.

Để truyền bá giáo lý Phật đà và chuyển tải thông tin hoạt động Phật sự của Hội Phật học Nam Việt, đạo hữu đã chủ trương thành lập tạp chí Từ Quang do đạo hữu làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Số báo đầu tiên phát hành vào năm 1951, đến ngày đạo hữu mất, đã ra được 242 số, đến cuối năm 1974 thì tạp chí Từ Quang đình bản. Tờ Từ Quang hoạt động 23 năm là một tờ báo Phật giáo có nhiều độc giả và có tuổi thọ lâu nhất. Tạp chí Từ Quang là một đóng góp không nhỏ của đạo hữu Chánh Trí trong việc phổ biến Phật học ở Sài Gòn và các tỉnh phía Nam. Đích thân đạo hữu viết thường xuyên trên tạp chí này, phê bình thẳng thắn những tệ xấu trong Phật tử như tục đốt vàng mã, mê tín dị đoan…

Trên lĩnh vực trước tác biên soạn, đạo hữu đã xuất bản các tác phẩm: Tâm và tánh; Lược sử Phật giáo Việt Nam; Ý nghĩa Niết bàn; Một đời sống vị tha; Tâm kinh Việt giải; Pháp Hoa Huyền nghĩa; Địa Tạng Mật nghĩa. Ngoài ra, còn một số tác phẩm chưa xuất bản như: Truyền tâm Pháp yếu; Tây du ký; Hư Vân lão Hòa thượng; Kinh Vô lượng thọ; Kinh Quán Vô lượng thọ; Mười lăm ngày ở Nhật; Vòng quanh Thế giới; Phật giáo: Đạo đời; Khảo cứu về Tịnh độ tông; Mật tông và Kinh Lăng Nghiêm đang viết dở.

Trong đạo, ngoài chức vụ Hội trưởng Phật học Nam Việt  từ năm 1955 đến 1973 (năm đạo hữu Chánh Trí quá vãng), đạo hữu còn đảm nhiệm các chức vụ Tổng Thư ký Tổng hội Phật giáo Việt Nam (từ năm 1955 đến 1958), Phó Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam từ năm 1959 đến 1963.

Ngày 15-4-1973, đạo hữu Chánh Trí chủ trì Đại hội các tỉnh hội thuộc Phật học Nam Việt. Lúc 8 giờ 15 phút ngày 17-4-1973 (rằm tháng Ba năm Quý Sửu), đạo hữu Chánh Trí thanh thản ra đi.

Có một điểm trùng hợp lạ là 15 năm trước cũng vào ngày rằm tháng Ba năm Mậu Tuất (1958), đạo hữu tổ chức khánh thành chùa Phật học Xá Lợi. Đạo hữu Chánh Trí đã về với cõi Phật nhưng cuộc đời tận tụy phụng sự Chánh pháp và những cống hiến của đạo hữu thật đáng trân trọng và tồn tại mãi trong lòng Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Ngày tiễn đưa đạo hữu Chánh Trí về với cõi Phật, tôi đã khóc như mất một người anh, một người đạo hữu có đạo tâm, luôn nghĩ và làm theo Chánh pháp.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 42
    • Số lượt truy cập : 6367633