Thông tin

DẤU SON THIỀN PHÁI TÀO ĐỘNG Ở ĐÀNG TRONG

(Thế kỷ 17 – 18)

 

Cư sĩ TRẦN ĐÌNH SƠN*

 

Dưới thời các chúa Nguyễn (1558 – 1775) đạo Phật được chính quyền hết lòng ủng hộ nên phát triển nhanh chóng sâu rộng khắp Đàng Trong (Nam Hà). Trong dân gian thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vẫn lưu truyền, xuất hiện danh tăng như thiền sư Minh Châu –Hương Hải rất được Hiền Vương Nguyễn Phước Tần ngưỡng mộ. Hiền Vương cho xây dựng chùa Vinh Hòa, Thiền Tịnh viện trên Quy Sơn gần cửa biển Tư Dung[1] rước Sư về trú trì hoằng dương Phật pháp gần 20 năm tại đây. Rất tiếc do bị hiểu lầm, nghi kỵ nên năm 1682 Thiền sư Hương Hải dẫn theo 50 đệ tử vượt biển ra Bắc Hà, được chúa Trịnh cho về  chùa Nguyệt Đường (Hưng Yên) xây dựng đạo tràng chấn hưng thiền tông Trúc Lâm. Sau sự biến này Đàng Trong rất thiếu tăng sĩ chân chính, do đó dưới thời Nghĩa Vương Nguyễn Phước Thái phải mở rộng cửa đón các tăng sĩ từ Trung Quốc thuộc 2 thiền phái Lâm Tế và Tào Động sang hoằng hóa.

1. Thiền phái Tào Động , tại chính dinh Phú Xuân có các danh tăng:

* Thiền sư Pháp Hàm –Giác Phong (? – 1741) khai sơn chùa Báo Quốc khoảng nửa sau TK17. Hiện bảo tháp của ngài còn tồn tại trong khuôn viên chùa, bia đá ghi: Tào Động nguyên lưu khai sơn Hàm Long Thiên Thọ Tự (Báo Quốc), húy Pháp Hàm hiệu Giác Phong Tổ Sư Bửu Tháp.

* Thiền sư Như Tư –Khắc Huyền(? – 1706) khai sơn chùa Thiền Lâm, long vị thờ Ngài ghi: Tào Động chánh tông khai sơn Thiền Lâm Tự, húy Như Tư thượng Khắc hạ Huyền Đại Lão Hòa Thượng Chi Giác Linh.

* Thiền sư Hưng Liên – QuảHoằng, đời thứ 30 thiền phái ĐộngThượng[2], từ Trung Quốc sang Quảng Nam khai sơn chùa Tam Thai ở Ngũ Hành Sơn, được Nghĩa Vương phong làm Quốc Sư.

Sau khi lên kế nghiệp, Quốc Chúa Nguyễn Phước Chu cử sứ giả sang Quảng Đông thỉnh Hòa thượng Thạch Liêm. Hòa thượng Thạch Liêm cùng 50 tăng sĩ đến Phú Xuân được đón rước về an trú tại chùa Thiền Lâm. Quốc Chúa phát tâm tổ chức Đại giới đàn vào dịp lễ Phật Đản (từ mồng 1 đến ngày 12 tháng 4 năm Ất Hợi – 1695) do Hòa thượng Thạch Liêm làm Đàn đầu truyền giới cho 1400 giới tử xuất gia (Tỳ kheo, Sa di) và hàng ngàn người tại gia xin quy y thọ năm giới và Bồ-tát giới. Riêng Quốc Chúa thỉnh Hòa thượng vào Giác Vương Nội Viện (chùa trong vương phủ) cầu thọ giới tại gia Bồ-tát, được ban pháp danh Hưng Long, pháp hiệu Thiên Túng Đạo Nhân. Đây là Phật sự hy hữu trước nay chưa từng có đủ nhân duyên thực hiện được ở Đàng Trong.

Quốc chúa thành tâm ngưỡng  mộ Hòa thượng bổn sư ,thường gần gủi cầu lời chỉ dẫn về việc tu tập và ứng dụng Phật pháp trong việc trị nước an dân theo chủ trương “cư Nho mộ Thích”mà các bậc tiên vương đề ra. Hòa thượng nương theo truyền thống nước Việt, trừ hại cho nhân dân, thương yêu binh sĩ, thợ thuyền…quốc chúa đều thi hành ngay. Để cho việc tu tập không bị lệch hướng, Ngài dạy về việc trai giới: “Đạo nhà vua ở nơi việc trị nước an dân. Đạo chỉ có một nhưng địa vị mỗi người thì khác nhau. Nếu kẻ cai trị quốc gia hủy bỏ pháp lệnh, kỷ cương để cầu thanh tịnh, ấy là chẳng biết thanh tịnh vậy! Do đó việc trai giới của nhà vua cần phải đem việc quốc gia trên dưới thanh lý chỉnh tề. Không một người nào chưa được yên ổn, không một việc nào chưa thỏa đáng như thế mới gọi là viên mãn. Nay trước hết nên giải quyết các án oan sai, tha tù bị giam cầm vô cớ, chẩn cấp kẻ nghèo thiếu, lục dùng người bị đè ép, bãi bỏ các luật lệ quá nghiêm khắc không phù hợp, thương yêu người buôn bán, thi ơn cho thợ thuyền. Nói tóm lại nên đem tất cả công việc giúp người lợi vật tuần tự thi hành…”.

Quốc chúa Nguyễn Phước Chu 17 tuổi lên nối nghiệp, 21 tuổi phát tâm thọ giới tại gia Bồ-tát.Suốt 34 năm lãnh đạo Nam Hà, Ngài ứng dụng Phật pháp, phát huy hạnh nguyện Bồ-tát phù hợp với ngôi vị của mình nên đã thành tựu những việc lớn ích lợi cho dân cho nước muôn đời sau:

- Năm 1694 (Giáp Tuất) cử Nguyễn Hữu Kính đem quân dẹp yên bọn thương nhân Hoa kiều A-Ban nổi loạn ở vùng Bình Thuận.

- Năm 1695 (Ất Hợi) đánh tan bọn Hoa thương câu kết nhau làm loạn ở Quảng Ngãi, Quy Ninh (Quy Nhơn).

- Năm 1698 (Mậu Dần), lập phủ Gia Định cử Thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp. Chia đất Đông Phố, lập huyện Phước Long, xây dựng dinh Trấn Biên (Biên Hòa). Lấy xứ Sài gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (Gia Định). Chiêu mộ dân nghèo vùng ngũ Quảng vào khai phá đất đai, lập thành làng xã. Chúa ra lịnh phàm lưu dân mới trở về thì chia ruộng đất để làm ăn, tha các thứ binh dao tô thuế trong 3 năm. Nhờ đó nhân dân đều an cư lạc nghiệp xây dựng làng xóm sinh sống.Mở rộng đất đai hàng ngàn dặm, có trên 4 vạn hộ dân.

- Năm 1702 (Nhâm Ngọ) người Anh đến chiếm cứ đảo Côn Lôn (Phú Quốc). Chúa cử Chưởng dinhTrấn Biên Trương Phước Phan đem quân vây đánh đốt tan sào huyệt của giặc.

- Năm 1708 (Mậu Tý) Thống binh Mạc Cửu tâu xin đem đất Hà Tiên khai khẩn được sáp nhập vào bản đồ nước ta.Chúa chấp thuận phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn giữ Hà Tiên.

- Về các mặt văn hóa, mỹ thuật, kinh tế,xã hội…dưới thời Nguyễn Phúc Chu cũng thành tựu rực rỡ. Chúa xây dựng Văn miếu, khuyến khích Nho học liên tục tổ chức thi tuyển nhân tài. Bản thân Ông là một tác gia văn học lớn của Việt Nam. Tác phẩm của Thiên Túng Đạo Nhân còn bảo tồn khá nhiều trong các chùa chiền ở Đàng Trong. Trên các văn vật quan trọng như bia đá, chuông đồng tại quốc tự Thiên Mụ (Huế) đều ghi rõ danh hiệu của Ông là đệ tử đắc pháp chính thức nối dòng thiền Động Thượng.

Mở đầu bài văn khắc vào bia đá dựng tại quốc tự Thiên Mụ vào năm 1715,Quốc chúa viết: “bài ký và bài minh của quốc chúa Nguyễn Phước Chu nối dòng chánh tông Động Thượng đời thứ 30 pháp danh Hưng Long hiệu Thiên Túng đạo nhân ghi việc xây dựng quy mô chùa Thiên Mụ ở Thuận Hoá”(Ngự kiến Thuận Hóa Thiên Mụ Tự, tác giả viết: Quốc Chúa Nguyễn Phước ChuTự Động Thượng Chánh Tông Tam Thập Thế,pháp danh Hưng Long, hiệu Thiên Túng Đạo Nhân Đỉnh Kiến Thuận Hóa Thiên Mụ Tự Bi Ký Minh).

Trên đại hồng chung đúc vào dịp Phật Đản 8/4 năm Canh Dần – 1710 ghi minh văn: Đại Việt Quốc Chúa Nguyễn Phước Chu nối dòng Động Thượng chánh tông đời thứ 30 pháp danh Hưng Long đúc đại hồng chung cân nặng 3285 cân tôn trí ở chùa Thiên Mụ để mãi mãi cung phụng Tam Bảo. Cầu nguyện gió hòa mưa thuận, nước thịnh dân yên, chúng sanh trong pháp giới đều được giác ngộ.

Công nghiệp to lớn của Quốc Chúa Nguyễn Phước Chu đối với đất nước nhân dân được ghi chép lưu truyền trong sử sách. Pháp danh, đạo hiệu của Bồ Tát Hưng Long mãi mãi tồn tại trên bia đá chuông đồng. Đó chính là dấu son rực rỡ của đời thứ 30 thiền phái Tào động ở Nam Hà.

2. Nhận xét:

Giữa thế kỷ 18, ở Bắc Hà xuất hiện Thiền sư Thủy Nguyệt – Thông Giác (1636 – 1704), Ngài sang Hồ Châu (Trung Quốc) đến núi Phụng Hoàng tham học với Thiền sư Nhất Cú – Trí Giáo. Năm 1667, Ngài về nước xiển dương Thiền phái Tào Động, đồ chúng theo tu học rất đông và được vua Lê sắc phong: “Đại Thánh Đông Sơn Tuệ Nhãn Từ Giác Quốc Sư”. Đến nay, dòng Thiền Tào Động Thủy Nguyệt vẫn còn truyền thừa tại các Tổ đình như Hàm Long, Hòe Nhai, Trấn Quốc ở Hà Nội.

Trái lại, ở vùng Thuận-Quảng, Thiền phái Tào Động – Động Thượng bước đầu được tiếp nhận, phát triển rất thịnh đạt từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 18. Các Thiền sư Giác Phong, Khắc Huyền, Hưng Liên,…đều lập các đạo tràng lớn như Báo Quốc, Thiền Lâm, Tam Thai để xiển dương Thiền phái Tào Động – Động Thượng. Đương thời Quốc Chúa, Vương gia, tể quan đều quy ngưỡng. Đáng tiếc, từ giữa thế kỷ thứ 18 về sau, Thiền phái này không còn người truyềnthừa  nên bị tuyệt tự,do đó chùa viện đều chuyển giao  cho các Tăng sĩ  thuộc Thiền phái Nguyên Thiều, Liễu Quán ( Lâm Tế) trú trì, hoằng dương Phật pháp .

Phải chăng, sau khi Hòa thượng Thạch Liêm – Đại Sán bị nạn ở Trung Quốc. Đệ tử của Ngài ở Thuận Quảng là Quốc Sư Hưng Liên quá tham mê tài lợi, bám theo vương quyền, cấu kết với gian thương Hoa kiều để thụ hưởng đặc quyền xuất-nhập khẩu hàng hóa hai chiều Việt – Trung và nội bộ tông phái chia rẽ, tranh giành nhau nên làm mất lòng tin của quần chúng!?

 


Tài liệu tham khảo:

- Đại Nam Thực Lục Tiền Biên. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (NXB Sử học Hà Nội – 1962)

- Tiên Nguyên Toát Yếu Phổ.Tác giả Tôn thất Hân (Tiếng Dân – Huế,1935)

- Hải Ngoại Kỷ Sự. Tác giảThích Đại Sán (Bản dịch Trần Kinh Hòa –Viện đại học Huế, 1963)



* Phó trưởng ban, Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN.

[1] Chùa Vinh Hòa, Thiền Tịnh Viện ngày nay đã đổ nát, hoang phế. Cửa biển Tư Dung đến thời Thiệu Trị (1841 – 1847) đổi thành Tư Hiền, cách Thành phố Huế khoảng 40 Km về phía nam.

[2] Động Thượng: Thiền phái do Thiền sư Động Sơn – Lương Giới (807 – 869) sáng lập. Để phân biệt với các Thiền phái khác thuộc Tông Tào Động do các Thiền sư đời sau đề xướng nên thường dùng chữ “Động Thượng Chính Tông” nhằm chỉ rõ Thiền phái này do chính Thiền sư Động Sơn xiển dương.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 18)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 17)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 16)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 44
    • Số lượt truy cập : 7268636