ĐÔI ĐIỀU SUY NGẪM VỀ DI TÍCH CHÙA NHẪM DƯƠNG
QUA TƯ LIỆU VÀ ĐIỀN DÃ KHẢO SÁT
ThS. THÍCH GIÁC ÂN*
ThS. NGUYỄN VĂN QUÝ**
Đặt vấn đề
Thôn Nhẫm Dương là một trong năm thôn thuộc xã Duy Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Trước đây, Nhẫm Dương còn có tên Nôm là Trũng Nhẫm, Thung Nhẫm nhằm chỉ một vùng đất trũng đẹp bao quanh là núi với nhiều hang động đẹp. Vào thời Nguyễn, thôn Nhẫm Dương thuộc xã Duyên Linh, tổng Thượng Chiếu, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương[1]. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, thôn Nhẫm Dương cùng với Kim Bào, Trại Xanh, xã Châu Xã, xã Duyên Linh hợp nhất thành xã Duy Tân cho đến ngày nay.
Chùa Nhẫm Dương tọa lạc trên địa bàn thôn, sát chân núi nên được nhân dân quen gọi tên chùa theo tên thôn. Ngoài ra, ngôi chùa còn có tên chữ là Thánh Quang Tự (chùa Thánh Quang). Ngôi chùa này là nơi tu hành của Thiền sư Thủy Nguyệt thuộc thiền phái Tào Động. Nơi đây còn hiện tồn hệ thống hang động trong dãy núi đá vôi được kiến tạo từ hàng triệu năm trước. Trong đó có hai hang, động thuộc quần thể chùa Nhẫm Dương là Hang Tối và động Thánh Hóa và đây cũng là địa chỉ di tích khảo cổ học tiêu biểu.
Bài viết này dựa trên một số tư liệu đã được ghi chép trong lịch sử Phật giáo, nhất là nguồn tư liệu từ các phòng chức năng thuộc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương, từ Ban văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo cung cấp cùng một số tư liệu khảo sát điền dã của chúng tôi tại chùa Nhẫm Dương và một số ngôi chùa liên quan tại huyện Kinh Môn, huyện Đông Triều (tỉnh Quảng Ninh), huyện Thái Thụy (tỉnh Thái Bình) vào trung tuần tháng 11 năm 2015. Vì thế bài viết chỉ khái quát, cảm nhận ban đầu về di tích chùa Nhẫm Dương và thiền phái Tào Động trên một số phương diện. Bởi di tích này, theo chúng tôi, còn ẩn giấu, chứa đựng nhiều giá trị không dễ gì đánh giá một cách trọn vẹn.
1. Chùa Nhẫm Dương và Thiền sư Thủy Nguyệt
1.1. Di tích chùa Nhẫm Dương
Theo ghi chép trong Lý lịch di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và các hang động ở Duy Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương thì đây là một ngôi chùa lớn được hưng công xây dựng vào thời Trần, đến thời Lê thì được tu bổ tôn tạo lớn. Theo tấm bia Thánh Quang Thiền Tự còn lưu giữ tại chùa cho biết, vào năm Tự Đức thứ 12 (tức năm Kỷ Mùi - 1859) đã trùng tu ngôi chùa này. Đến năm 1952, chùa Nhẫm Dương bị thực dân Pháp tàn phá và hư hại nặng nề, nhưng chỉ ít lâu sau, nhân dân địa phương đã dựng lại ngôi chùa bằng tranh tre tạm thời để thờ Phật. Từ năm 1975 đến nay, sư trụ trì cùng với thiện nam tín nữ, nhân dân địa phương đã từng bước hưng công xây dựng ngôi chùa trên nền móng cũ, khang trang, bề thế như hiện nay.
Hiện tại, nhìn tổng thể mặt bằng kiến trúc, chùa Nhẫm Dưỡng có kết cấu kiến trúc chữ Công, xung quan còn có sân vườn, tháp mộ sư; nhà Tổ, nhà Khách có kết cấu chữ Nhị với 7 gian hai dĩ...
Chùa chính, tòa phía trước là Tiền đường được làm kiểu ba gian hai dĩ, tám mái đao, tường hồi bít đốc. Từ tòa Tiền đường nối ra phía sau là tòa Thượng điện qua nhà ống muống, tạo thành chữ Công. Tòa Thượng điện được làm kiểu giả ba tầng với mười hai mái đao cong, tạo độ cao, sâu cho Thượng điện ngôi chùa Nhẫm Dương.
Hệ thống tượng chùa Nhẫm Dương khá phong phú, được bài trí ở Thượng điện gồm các lớp tượng chính như sau:
Lớp trên cùng, cao nhất ở Thượng điện là bộ tượng Tam thế. Bộ tượng này giống nhau về kích cỡ và được tạo tác ngồi trên tòa sen. Bộ tượng Tam thế là cách gọi tắt của bộ tượng Thường Trụ Tam Thế Diệu Pháp Thân, mang ý nghĩa tượng trưng cho đạo Phật ở cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Vì thế, bộ tượng Tam thế thường bài trí ở nơi cao nhất trong Thượng điện và ít có đặc điểm riêng[2]. Bộ tượng này gồm Phật A Di Đà biểu trưng cho Quá khứ, Phật Thích Ca Mâu Ni biểu trưng cho hiện tại và Phật Di Lặc biểu trưng cho tương lai.
Lớp thứ hai là bộ tượng Tây Phương Tam Thánh[3] gồm Phật A Di Đà được tôn trí ở giữa, bên trái là Bồ tát Quán Thế Âm và bên phải là Bồ tát Đại Thế Chí. Phật A Di Đà[4] là vị giáo chủ thế giới Tịnh Độ, dẫn dắt chúng sinh có niềm tin sâu Đức Phật A Di Đà vào thế giới Tây phương Cực lạc. Vô lượng thọ kinh, Quán vô lượng thọ kinh và A Di Đà kinh đã nêu rõ lai lịch, hạnh nguyện của Phật A Di Đà. Bồ tát Đại Thế Chí[5] vốn là một vị hoàng tử phát tâm tu hành, được Phật khai tâm mà giác ngộ, và ngài nguyện cứu độ chúng sinh bằng cách đem ánh sáng trí huệ soi khắp thế gian để tiếp dẫn chúng sinh về thế giới Tịnh Độ. Bồ tát Quán Thế Âm[6] là trợ thủ đắc lực của Phật A Di Đà, với công phu tu tập của mình, Bồ tát Quán Thế Âm nghe thấy hết những than thở của chúng sinh mà quyết đem lòng từ bi cứu khổ, cứu nạn.
Lớp thứ ba là bộ tượng Thích Ca Niêm Hoa gồm tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bài trí chính giữa, tượng trưng cho biến hóa thân (Ứng thân) sinh nơi trần thế, tu hành chính quả và thuyết pháp cho chúng sinh. Pho tượng bài trí bên phải là Bồ tát Văn Thù và bên trái là Bồ tát Phổ Hiền. Tuy nhiên, ở đây có thể thấy tượng Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên đài sen, tay như cầm đóa sen như tích Phật thuyết pháp ở Linh Thứu, bên trái là Tôn giả Ca Diếp và bên phải là Tôn giả A Nan. Đây là hai đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni khi ngài còn ở thế gian.
Lớp thứ tư là bộ tượng Quán Âm Chuẩn Đề. Theo Mạc Chấn Lương trong Tạc tượng Phật và kiến trúc chùa cho biết: Quán Âm Chuẩn Đề còn có tên là Thiên Nhân Trượng Phu Quán Ấm, ngài chủ yếu cứu độ chúng sinh trong cõi nhân gian. Quán Âm Chuẩn Đề cũng được gọi là Chuẩn Đề Bồ Tát, Chuẩn Đề Phật Mẫu,… Ngài được Phật tử đặc biệt tôn sùng, coi là vị Bồ tát giữ gìn Phật pháp, kéo dài tuổi thọ và hộ mệnh, trừ tai ngăn họa cho chúng sinh.
Lớp thứ năm là tòa Cửu Long mô tả điển tích khi Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm, rồi ngài đi bẩy bước tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất mà nói rằng: "Thiên thượng, địa hạ, duy ngã độc tôn". Nghĩa là: Trên trời, dưới đất, chỉ có ta là quí hơn cả. Vì thế, tòa Cửu Long được chạm chín con rồng phun nước vây quanh một chú bé mặc váy ngắn và xung quanh có các đám mây, nhạc sĩ thiên thần.
Ở Tiền đường chùa Nhẫm Dương còn bài trí tượng Đức Ông, tượng Thánh Tăng,… còn ở nhà Tổ bài trí tượng Bồ Đề Đạt Ma và những vị Tổ đã từng trụ trì ở chùa, trong đó có tượng Tổ Thủy Nguyệt làm bằng chất liệu đá. Như vậy, hệ thống tượng Phật, Bồ tát được bài trí ở chùa Nhẫm Dưỡng là một điển hình trong vùng và ở đồng bằng Bắc Bộ. Đó là trong Thượng điện thường bài trí những bộ tượng Phật quan trọng nhất và có tính lịch sử nhất. Từ Phật Thích Ca lúc mới đản sinh cho đến khi ngài nhập Niết bàn, tượng trưng cho đạo Phật ở ba thời Quá khứ, Hiện tại và Vị lai. Hai bên thường là những vị Bồ tát – những vị trợ thủ cho chư Phật trong việc cứu độ chúng sinh như Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí, Bồ tát Chuẩn Đề,… Ở tòa Tiền đường bài trí tượng Đức Ông, tượng Thánh Tăng và ở tòa nhà Tổ bài trí tượng Tổ như Bồ Đề Đạt Ma và các vị từng trụ trì chùa.
Lễ hội chùa Nhẫm Dương diễn ra hàng năm trong ba ngày, từ ngày mùng 5 mùng 6 đến ngày mùng 7 tháng 3 âm lịch. Ngày mùng 5 làm lễ Nhập tịch gồm lễ Phật, cúng Tổ và buổi tối làm lễ Mộc dục (lễ tắm tượng Thánh tổ). Lễ Nhập tịch, đặc biệt là nghi lễ Mộc dục rất quan trọng, thể hiện ở việc lựa chọn người làm lễ, nước dùng, khăn tắm dùng nghi lễ,... Theo đó, người được chọn lựa làm lễ là người gia đình con cái song toàn, được nhân dân tôn kính, và người đó phải ăn chay trước đó ba ngày, phải tẩy trần trước khi thực hiện nghi lễ tế. Nước dùng làm lễ phải lấy nước giếng chùa rồi pha ngũ vị hương đựng trong chóe. Khăn dùng phải là loại khăn mới. Trong khi làm lễ Mộc dục thì có nghi thức dâng nước cúng gồm các vị thuốc bắc dựng trong ba chén cúng Phật tổ. Song song với lễ Mộc dục, nhà sư trụ trì tiến hành lễ Đàn tràng sái tịnh với lễ vật dâng gồm hoa quả, xôi chè, bánh chưng chay trong khoảng thời gian một giờ. Khi lễ Mộc dục xong, bã ngũ vị hương được nhân dân xin lộc đem về đun lại tắm cho trẻ con, hay người lớn rửa mặt, còn bã thuốc được chia cho mọi người tham dự về nấu lại uống. Mọi người tin rằng mình sẽ có sức khỏe khi uống và coi đây là lộc thánh ban cho. Ngày mùng 6 là ngày lễ chính. Dân làng và Phật tử xa gần tề tựu từ sáng sớm để cùng làm lễ cúng Phật và Thánh tổ với lễ vật dâng cúng gồm hương, hoa quả, bánh chưng, xôi chè và cỗ chay. Sau khi nghi thức cúng Phật và chư vị Thánh tổ hoàn tất thì tiến hành nghi thức rước Thánh tổ. Đoàn rước có đường rước đi từ chùa ra cổng rồi vòng phía trái đi dọc làng đến giáp chùa Sanh lại vòng tới thôn im Bào rồi mới rước về chùa. Mở đầu là nhóm cờ thần, bát bửu, trống, nhạc bát âm rồi kiệu long đình, nhang án, kiệu rước long ngai bài bị thánh tổ cùng toàn thể dân làng và du khách thập phương. Khi rước kiệu về đến chùa thì làm lễ yên vị, tế Thánh tổ. Sau đó, các đoàn tế của các nơi khác về lễ chùa. Ngày mùng 7 là lễ tất kết thúc ba ngày diễn ra lễ hội. Trong ngày này diễn ra nghi lễ cúng Phật, cúng Thánh tổ. Các nhà sư và Phật tử niệm Phật. Lễ vật dâng cúng là hương, hoa, oản quả. Điểm đặc sắc trong ngày lễ này có lễ bố thí bằng cháo hoa và bỏng ở sân chùa. Nhà sư trụ trì dựng đàn Mông Sơn Thí Thực bằng gỗ cao chừng hơn một mét, bày đối diện với hương án cúng Phật[7]. Nghi thức này với mong muốn phá ngục cho các linh hồn cô độc đến ăn mày cửa Phật. Bên cạnh những nghi lễ, ở chùa Nhẫm Dương còn tổ chức các trò chơi dân gian như kéo co, đánh cờ, đánh đu, hát văn, múa sinh tiền làm cho không khí ngày hội vô cùng náo nhiệt.
Với nhiều hang động ở chùa núi Nhẫm Dương đã tạo cho ngôi cổ tự này một vẻ đẹp hiếm có. Có thể kể đến những hang Bò Lê, Hang Cá, Hang Tối, Hang Ma, Hang Thung Xanh, Hang Thung Thóc,… được thiên nhiên kiến tạo độc đáo, đặc biệt nhất là Hang Tối và Hang Thánh Hóa có liên quan đến dấu tích của người Việt Cổ và một vị Thiền sư nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đã từng tu hành tại đây. Và trong thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đây là nơi trú ẩn của nhiều nhà hoạt động cách mạng, và là đóng quân của quân đội.
Động Thánh Hóa, theo Lý lịch di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và các hang động ở xã Duy Tân - Kinh Môn, tỉnh Hải Dương cho biết: Động Thánh bắt nguồn từ việc sư tổ Thủy Nguyệt đã hóa ở động này. Vị trí động nằm chân núi phía sau chùa Nhẫm Dương. Động này có diện tích khoảng 100m2, phía trên có nhiều thạch nhũ và càng vào sâu động càng hẹp dần và chưa xác định được độ sâu[8]. Theo vị sư trụ trì ngôi chùa thì trong những năm 1996, 1997 khi sửa sang động Thánh Hóa đã phát hiện tượng Phật làm bằng chất liệu đá đã được giấu từ nhiều năm trước. Trong những năm tiếp theo, từ năm 1999 đến năm 2001, nhà sư và nhân dân đã phát lộ nhiều di vật lạ. Sự việc này được nhà sư báo cáo lên các cơ quan chuyên môn. Bảo tàng tỉnh Hải Dương đã kết hợp với Viện Khảo cổ học, thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam[9], Viện Nghiên cứu địa chất nghiên cứu và cho rằng, động Thánh Hóa là một di tích khảo cổ học quan trọng của cả nước, với xương hóa thạch của 27 loài động vật như voi, tê giác, báo, lợn rừng,... và đặc biệt là có nhiều răng Pongo (Đười ươi), tất cả những hóa thạch này cách ngày nay từ 3-5 vạn năm.
Hang Tối[10], theo Lý lịch di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và các hang động ở xã Duy Tân - Kinh Môn, tỉnh Hải Dương cho biết hang này nằm bên sười núi phía tây bắc chùa Nhẫm Dương. Tại đây, vào năm 2001, Bảo tàng tỉnh Hải Dương khi thám sát đã phát hiện nhiều di vật như rìu, giáo đồng, thạp đồng, lưỡi xéo đồng,.. thuộc văn hóa Đông Sơn. Đây là một nền văn hóa cổ từng tồn tại ở một số tỉnh như Phú Thọ, Yên Bái, Hòa Bình, Hà Nội, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Nền văn hóa này được đặt theo tên địa phương nơi các dấu tích đầu tiên của nó được phát hiện gần sông Mã, Thanh Hóa. Theo đánh giá của các nhà khoa học, nền văn hóa Đông Sơn là sự phát triển liên tục và kế thừa các thời kỳ tiền Đông Sơn như văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu và văn hóa Gò Mun.
Có thể thấy, nếu Bảo tàng tỉnh Hải Dương kết hợp với Viện Khảo cổ học tiếp tục thám sát và khai quật động Thánh Hóa, Hang Tối sẽ có thêm nhiều bằng chứng cho việc nghiên cứu về nền văn hóa này, bởi động Thánh Hóa có tâng văn hóa dày còn chứa đựng nhiều di vật và với việc phát hiện hàng nghìn di vật tại hai hang động này đã cho thấy đây là địa chỉ khảo cổ học cần được bảo vệ và nghiên cứu đầy đủ, có giá trị lịch sử, khoa học và văn hóa quan trọng[11].
1.2. Thiền sư Thủy Nguyệt – Sơ tổ tông Tào Động Việt Nam
Theo Thiền uyển kế đăng lục, Tào Động nam truyền đệ nhất tổ sư ngữ lục (bản chữ Hán), Thiền sư Thủy Nguyệt được Thiền sư Nhất Cú Tri Giáo[12] trao truyền yếu chỉ, nối dòng Tào Động ở Trung Quốc. Khi trở về Việt Nam, ngài truyền bá tông phong Tào Động và phó chúc cho đệ tử là Tông Diễn tiếp nối mạng mạch Tào Động.
Thiền sư Thủy Nguyệt (1637 - 1704) họ Đặng, quê ở Thanh Triều, huyện Ngự Thiên, phủ Tiên Hưng, đạo Sơn Nam. Thuở nhỏ ngài theo nghiệp Nho và từng đậu Cống cử tứ trường[13]. Năm 20 tuổi, ngài không theo con người khoa cử mà đến chùa xã Hổ Đội, huyện Thụy Anh xuất gia học đọc. Tuy nhiên, sau sáu năm, ngài xin phép thầy du phương nhằm học hỏi thêm Phật pháp. Và ít lâu sau, ngài quyết chí sang Trung Quốc cầu học tại núi Phượng Hoàng, Hồ Châu. Tại đây, ban ngày thì ngài cùng với mọi người làm việc, đêm đến thì chuyên cần nghiên cứu kinh luật đạo Phật. Ít lâu sau, ngài được Hòa thượng Nhất Cú Tri Giáo cho thụ giới cụ túc. Sau sáu năm học hỏi không biết mệt mỏi, một ngày, Hòa thượng Nhất Cú Tri Giáo gọi ngài vào và hỏi. Ngài liền trình bài kệ:
Sáng tròn thường ở giữa hư không
Bởi bị mây mê vọng khởi lồng
Một phen gió thổi mây tứ tán
Thế giới hà sa sáng chiếu thông[14].
Hòa thượng Nhất Cú Tri Giáo nghe xong bèn ban cho ngài pháp danh Thông Giác, đạo hiệu Đạo Nam Thiền Sư, rồi căn dặn việc hoằng truyền tông Tào Động khi trở về cố quốc: “Ngươi về nên tinh tấn làm Phật sự, giảng nói đề cao chánh pháp, không nên chần chờ để tâm theo với vọng trần, trái lời Phật, Tổ dặn dò; ngươi thành tâm đi muôn dặm đến đây nay tôi cho một bài kệ để gắng tiến:
Rừng quế gương đưa đèn nối sáng
Thu về đâu đấy ngát mùi hương
Vì người xa đến treo gương báu
Từ biệt ta về chỉ sợi vàng.
Ai vào núi Phượng nghìn trùng tuyết
Dường có An Nam một vị tăng
Nửa đêm áo gấm ra sau núi
Như ở chân trời thấy mặt trăng[15].
Khi ngài trở về, xem khắp các danh thắng ở Yên Tử, Quỳnh Lâm,... Sau ngài đến Thượng Long, Đông Sơn, huyện Đông Triều. Nhưng vì nơi đây đã có một vị cao tăng đang trụ trì, ngài liền trở xuống Hạ Long để hoằng truyền Tào Động. Dân chúng quanh vùng kéo đến nghe pháp và qui y rất đông[16] và ngài đã truyền pháp cho đệ tử Tông Diễn sau một thời gian hoằng truyền tông chỉ Tào Động rồi đến chùa Nhẫm Dương tu hành.
Theo bản Tào Động nam truyền đệ nhất tổ sư ngữ lục, thì Thiền sư Thủy Nguyệt đã từng tu hành ở ngôi chùa Nhẫm Dương (Thánh Quang Tự), khai sáng tổ đình thiền phái Tào Động ở đây. Tương truyền, sau khi truyền pháp cho đệ tử là Tông Diễn[17], Thiền sư Thủy Nguyệt đã đến chùa Nhẫm Dương tu hành và viên tịch tại đây. Hiện trong chùa vẫn hiện tồn tượng và tháp mộ của ngài. Truyền tích cho biết thêm: tên chữ chùa Nhẫm Dương là Thánh Quang tự có sự gắn bó mật thiết với sự tích "thánh hóa" của Thiền sư Thủy Nguyệt và động Thánh Hóa, hang Tĩnh Niệm cũng vậy. Khi Thiền sư Thủy Nguyệt về đây tu hành, lúc biết mình sắp viên tịch, ngài bèn gọi môn đồ đến dặn dò và bảo rằng, nếu sau bẩy ngày mình không về thì lên núi tìm chỗ nào có mùi hương tỏa thì đó chính là nơi viên tịch của ngài. Bẩy ngày sau, môn đồ không thấy ngài liền đi tìm, đến nơi thấy gió ào ào thổi, múi hương thơm lan tỏa khắp nơi. Các môn đệ theo dấu hương mà tìm đến hang đá phía sau chùa, thấy ngài Thủy Nguyệt ngồi thiền trong động viên tịch, thân thể tỏa hương thơm, đó là năm 1704. Môn đồ làm lễ hỏa táng (trà tì) rồi an táng ở chùa Hạ Long và một ở chùa Nhẫm Dương (nay còn tháp mộ của ngài). Theo chúng tôi, Thiền sư Thủy Nguyệt cũng là một trong số ít thiền sư ở nước ta để lại nhục thân, nhưng tiếc là đã hỏa táng. Nơi ngài Thủy Nguyệt viên tịch sau này được nhân dân gọi là động Thánh Hóa.
Thiền phái Tào Động là một tông phái thiền quan trọng tại Trung Quốc. Tào Động tông chú trọng phương pháp mặc chiếu thiền, tức là Chỉ quán đả tọa và khác với Lâm Tế tông chủ trương phương pháp Khán thoại thiền, tức quán Công án,… Thiền Tào Động được Thiền sư Thủy Nguyệt (1636 – 1704) truyền về Việt Nam vào thế kỷ 17 sau khi sang Hồ Châu, Trung Quốc học đạo với Thiền sư Nhất Cú Tri Giáo,…[18]. Như vậy, theo Thiền uyển kế đăng lục, Thiền sư Thủy Nguyệt là tổ đời thứ 36 thiền phái Tào Động ở Trung Quốc và là Đệ nhất tổ của thiền phái Tào Động ở Việt Nam[19]. Sau này, Nguyễn Lang cho biết một cách khái quát về Thiền phái Tào Động ở Trung Quốc, nhưng điều quan trọng hơn là ông đã giới thiệu khá căn bản tư tưởng của thiền phái này như sau: Nói đến phái Tào Động là nói tới nguyên tắc 5 địa vị (ngũ vị). Giữa thẳng (chính) và nghiêng (thiên). Ý niệm về địa vị giữa thẳng và nghiêng vốn là của Động Sơn. Tào Sơn đã xếp đặt và trình bày lại ý niệm ấy rồi truyền lại cho những thế hệ kế tiếp"[20]. Bên cạnh đó, ông còn sơ lược ghi về sự truyền thừa của thiền phái Tào Động ở Việt Nam[21]. Các ngôi chùa như chùa Hòe Nhai, chùa Hàm Long, chùa Trấn Quốc ở Hà Nội đều ghi dấu các thiền sư Tào Động từng tu tập và trụ trì.
2. Đôi lời tạm kết
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ lâu và đã trở thành một tôn giáo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử, tư tưởng từ bi, yêu thương, cứu nhân độ thế,… của đạo Phật đã khắc sâu trong tâm trí, trở thành thế ứng xử của nhân dân qua nhiều thế hệ. Những di sản Phật giáo qua thời gian đã để lại những điểm nhấn vô cùng quan trọng trong hệ thống di sản văn hóa Việt Nam.
Chùa Nhẫm Dương (Thánh Quang Tự) qua tư liệu cho thấy ngôi chùa này được khởi dựng từ thời Trần và được tu bổ tôn tạo trong nhiều thời kỳ khác nhau trên một thế đất có cảnh quan thiên nhiên đẹp thuộc thôn Nhẫm Dương, xã Duy Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Đến nay, ngôi chùa đã được sư trụ trì cùng nhân dân và du khách thập phương tân tạo khang trang hơn, bề thế hơn, với hệ thống tượng Phật khá phong phú với cách bài trí điển hình của một ngôi chùa vùng đồng bằng Bắc bộ. Nhưng điều đáng quan tâm hơn là cụm di tích chùa Nhẫm Dương còn là một địa chỉ khảo cổ học quan trọng thuộc nền văn hóa Đông Sơn, mà theo các nhà khảo cổ học, nếu tiếp tục thám sát và khai quật với qui mô lớn hơn sẽ còn nhiều vấn đề nghiên cứu trên các phương diện khác nhau như lịch sử, văn hóa. Đặc biệt, đối với Phật giáo Việt Nam, chùa Nhẫm Dương còn là một tổ đình vô cùng quan trọng của thiền phái Tào Động. Đó là một trong những nơi Sơ tổ đầu tiên của thiền phái Tào Động tu tập rồi viên tịch, để lại nhục thân, nhưng rất tiếc là hỏa táng và an trí xá lợi trong tháp chùa Nhẫm Dương và chùa Hạ Long như chúng tôi đã đề cập ở trên. Bên cạnh đó còn là lễ hội chùa vô cùng độc đáo trong vùng, mỗi năm mở hộ thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử, nhân dân trong và ngoài vùng Hải Dương hành hương về vùng đất Nhẫm Dương lễ Phật, chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp.
Hiện nay, việc nghiên cứu tìm hiểu di tích chùa Nhẫm Dương trên nhiều phương diện khác nhau mới có thể đánh giá hết các giá trị của di tích chùa Nhẫm Dương, đặc biệt là các giá trị Phật giáo, khảo cổ, giá trị di tích lịch sử, hay giá trị văn hóa tâm linh,… Qua đợt điền dã khảo sát vào trung tuần tháng 11 năm 2015 của chúng tôi, nhiều ngôi chùa liên quan đến thiền phái Tào Động như chùa Thượng Long, chùa Hạ Long ở huyện Đông Triều đã bị mai một, hay các ngôi chùa như Hàm Long, chùa Non Đông, huyện Kinh Môn; chùa ở thôn Hổ Đội, huyện Thái Thụy còn nhiều di vật quý như bia ký, nhưng phần nào đã và đang dần mai một. Đối với ngôi chùa Nhẫm Dương, mặc dù được sự quan tâm của UBND tỉnh Hải Dương, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương và các ban ngành của huyện Kinh Môn và xã Duy Tân trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Song theo chúng tôi, di tích chùa Nhẫm Dương chỉ có thể được bảo tồn và phát huy một cách tốt nhất khi đánh giá hết các giá trị của di tích chùa Nhẫm Dương trên cơ sở nghiên cứu đầy đủ về di tích này. Chúng tôi hy vọng rằng, qua hội thảo “Thiền phái Tào Động Việt Nam và Quần thể di tích Nhẫm Dương: Giá trị lịch sử, văn hóa và Phật giáo” sẽ đánh giá một cách khách quan, khoa học và là cơ sở giúp các cơ quan chức năng hoạch định chính sách cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích chùa Nhẫm Dương và thiền phái Tào Động Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Tài liệu tham khảo chính:
- Ban biên dịch Đạo Uyển, Từ điển Phật học, Công ty Sách Thời Đại & Nxb Thời Đại, 2010
- Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học, 2010
- Lý lịch di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và các hang động ở Duy Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương
- Thánh Quang Thiền Tự. Bia ký hiện lưu giữ tại chùa Nhẫm Dương
- Thích Phước Thái, Mông sơn thí thực yếu giải, Phật lịch 2556 – Dương lịch 2012.
- Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1999
- Sa môn Như Sơn, (Thích Thiện Phước dịch, Song Hào Lý Việt Dũng hiệu đính), Thiền uyển kế đăng lục, Nxb Hồng Đức, 2015
- Tào Động nam truyền đệ nhất tổ sư ngữ lục (bản chữ Hán),
- Website: http://thuongchieu.net
Và một số tư liệu điền dã của nhóm tác giả.
* Phó chánh Văn phòng I, Ủy viên Ban văn hóa Trung ương GHPGVN, Trụ trì chùa Bùi Xã, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
** Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
[1] Theo văn bia Thánh Quang Thiền Tự
[2] Chúng tôi thấy chỉ có ngoại lệ là ở chùa Tây Phương (Hà Nội) và chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni đang giơ một tay xòe ngón trỏ và ngón út
[3] Bộ tượng này còn được gọi là Di Đà Tam Tôn
[4] Phật A Di Đà dịch âm từ tiếng Phạn (Amita) mang ý nghĩa là Ánh sáng vô lượng, Tuổi thọ vô lượng,...
[5] Trong kinh Lăng Nghiêm có nói: "Về vô số kiếp đời xưa, có Đức Phật hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai ra đời, dậy ngài tu phép niệm Phật tam muôi, thu cả lục căn là: nhãn, nhỉ, tỵ, thiệt, thân, ý, định tâm chuyên nhất về việc niệm Phật, bởi thế tâm khai, ngộ đạo viên thông được danh hiệu là Đại Thế Chí". Trong Kinh Quán vô lượng thọ, tán thán công đức của đức Bồ tát Đại Thế Chí rằng: "Ngài đem ánh sáng trí tuệ soi khắp hết thẩy, khiến chúng sinh đều thoát khỏi ba nơi ác đạo, mà cái sức mạnh vô thượng". Vì thế ở các chùa vùng đồng bằng Bắc Bộ thường bài trí tượng Bồ tát Đại Thế Chí và Quán Thế Âm đứng hai bên phải, trái Phật A Di Đà, gọi là hai vị Nhiếp sĩ.
[6] Kinh Pháp Hoa chép: Những chúng sinh bị khổ não mà nhất tâm đọc đến Quán Thế Âm Bồ Tát tức thì ngài nghe âm thanh của chúng sinh mà độ cho được giải thoát. Bởi thế gọi tên ngài là Quán Thế Âm. Kinh Lăng Nghiêm còn cho biết thêm: "Về vô số kiếp đời xưa có Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm Như Lai. Ta đến trước Phật mà phát Bồ Đề tâm. Phật dậy ta theo ba phép: Văn, Tư, Tu, nghĩa là nghe lời giảng dậy, suy nghĩ về đạo lý, và tu hành mà vào tam ma đề (Samadhi). Phật khen ta chóng được viên thông pháp môn và tức thì ở ngay chỗ đại hội thọ ký cho ta cái hiệu là Quán Thế Âm".
[7] Xin xem thêm: Thích Phước Thái, Mông sơn thí thực yếu giải, Phật lịch 2556 – Dương lịch 2012.
[8] Lý lịch di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và các hang động ở xã Duy Tân - Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, tr3-4
[9] Nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
[10] Hang được gọi theo tên gọi của nhân dân địa phương vì hang có nhiều ngách và rất tối. Hang nằm bên sườn núi phía Tây Bắc chùa Nhẫm Dương. Trong kháng chiến chống Pháp, hang Tối là nơi ẩn náu của cán bộ cách mạng. Những chiến sĩ đã phát hiện ra một số hiện vật lạ như rìu và giáo đồng. Nhưng đã rất nhiều năm, không ai báo cáo tới các cơ quan chuyên môn về những hiện vật đó. Đến năm 2001, Bảo tàng Hải Dương đã quyết định thám sát hang Tối để nghiên cứu, càng vào sâu, lòng hang càng rộng và tối, đặc biệt tại đỉnh hang có nhiều thạch nhũ đẹp.
[11] Hiện nay, khu di tích này đã được xếp hạng cấp quốc gia vào năm 2003 của Bộ Văn hóa- Thông tin. Đây là một cơ sở quan trọng trong việc giữ gìn, bảo vệ khi di tích chùa Nhẫm Dương, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
[12] Hòa thượng Nhất Cú Tri Giáo là đệ tử của Hòa thượng Tử Mai Tịnh Châu ở Lạc Bình, An Kiết. Hòa thượng Tịnh Châu thấy ngài là bậc lợi căn, hiểu đạo rất mau liền trao cho pháp danh là Nhất Cú, và khuyên tự phải bảo nhiệm. Sau ngài trở về núi Phụng Hoàng khai đường thị chúng, đạo pháp tinh nghiêm, bốn phương kính ngưỡng nhóm về. Sau phó chúc cho đệ tử là Thông Giác đảm nhiệm chánh tông Tào Động. Xin xem thêm tại: Sa môn Như Sơn, (Thích Thiện Phước dịch, Song Hào Lý Việt Dũng hiệu đính), Thiền uyển kế đăng lục, Nxb Hồng Đức, 2015, tr293:
[13] Thời xưa, ngoài còn đường Khoa cử để lấy người làm quan, giúp vua điều khiển guống máy chính trị thì còn dùng phép Cống cử hay Bảo cử để lấy người ra làm quan. Cống cử là kén người ở các hương thôn, huyện, tỉnh, để "cống" lên triều đình, toàn là những người đã được thanh nghị nhìn nhận là có tài năng và đức hạnh. Bảo cử là các quan, vâng theo mệnh lệnh của vua, cử những người tài giỏi và có đức hạnh ra làm quan.
[14] Nguyên văn chữ Hán:
Viên minh thường tại thái hư trung
Cương bị mê vân vọng khởi lung
Nhất đắc phong xuy vân tứ tán
Hằng sa thế giới chiếu quang thông.
[15] Nguyên văn chữ Hán:
Quế nham suy phức tục truyền đăng
Thu nhập trường không quế bích đằng
Trì nhĩ viễn lai khai bảo kính
Từ dư qui khứ thị kim thằng.
Thùy thâm Phượng lĩnh thiên trùng tuyết
Cáp thụ An Nam nhất cá tăng
Dạ bán cẩm hà sơn hậu khởi
Hạo tùng thiên tế thức thăng hằng
Dẫn theo: http://thuongchieu.net/index.php/chuyende/thiensuvn/863-thin-s-thy-nguyt-hiu-thong-giac
[16] Vào ngày 9 và 10 tháng 11 năm 2015, chúng tôi đã có dịp khảo sát tại Thượng Long, Trung Long và Hạ Long. Hiện ở Thượng Long chỉ còn nền móng cũ của một ngôi chùa, trước đó còn một ngôi mộ mới được sửa sang lại ghi dòng chữ trên mộ: Vĩnh Tổ Thiền Sư; trong tấm bia đá khắc đậm dòng chữ: Hòa thượng Thích Tâm Hương tỷ khâu hiệu Diệu ...; Theo Hòa thượng Thích Quảng Tùng, thì ngôi mộ này cũng khoảng vài trăm năm rồi. Còn ở Hạ Long chỉ còn một ngôi tháp mộ sư ghi dòng chữ Hán: Linh Bảo Tháp. Nhìn nét chữ Hán mềm mại, chúng tôi cho rằng ngôi mộ tháp này có niên đại Hậu Lê. Theo người dẫn đường kể thì trước đây, ở khu vực này có rất nhiều tháp mộ sư, nhưng sao đó bị đào xới nên hư hại hết, chỉ còn ngôi tháp này còn tương đối nguyên vẹn.
[17] Về thiền sư Tông Diễn, xin xem: Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr410-415
[18] Xin xem thêm tại: Ban biên dịch Đạo Uyển, Từ điển Phật học, Công ty Sách Thời Đại & Nxb Thời Đại, 2010, tr560
[19] Theo Thiền uyển kế đăng lục, Sa môn Như Sơn, (Thích Thiện Phước dịch, Song Hào Lý Việt Dũng hiệu đính), Nxb Hồng Đức, 2015, tr298 cho biết: Thiền sư Nhất Cú Tri Giáo là đệ tử của Hòa thượng Tử Mai Tịnh Châu ở Lạc Bình, An Kiết. Hòa thượng Tịnh Châu thấy ông là bậc lợi căn, hiểu đạo liền trao cho pháp danh là Nhất Cú. Sau ông về núi Phụng Hoàng khai đường thị chúng, đạo pháp tinh nghiêm, bốn phương kính ngưỡng nhóm về. Trướ khi viên tịch ông phó chúc cho đệ tử là Thông Giác đảm nhiệm tông Tào Động. Thiền sư Thủy Nguyệt đến núi Phụng Hoàng, Hồ Châu tham kiến với Hòa thượng Nhất Cú Tri Giáo và được ban pháp danh Thông Giác. Sau khi trở về Việt Nam hoằng truyền Tào Động, Thiền sư Thủy Nguyệt lại phó chúc cho đệ tử là Tông Diễn.
[20] Nguyễn Lang cho rằng: Thẳng ở đây tượng trưng cho tuyệt đối còn nghiêng tượng trưng cho tương đối. Động Sơn nói rằng: "có một vật ở trên thì chống trời, dưới thì đỡ đất,... đen như sơn luôn chuyển dịch và hoạt động". Đó là cái thẳng, cái thẳng chính là nền tảng của trời đất và muôn loài. Cái thẳng (cái tuyệt đối) ấy vốn không thể nắm bắt bằng khái niệm, không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. Còn cái nghiêng là khi cái thẳng đi vào thế giới hiện tượng, thế giới của sự vật tương đối. Tuy nhiên, thẳng và nghiên không phải là hai vật khác nhau: tương đối là tuyệt đối với tuyệt đối mà có, tuyệt đối là đối với tương đối mà thành. Cũng như sóng là nước, nước là sóng. Sóng tuy nhiều mà là một, nước tuy một mà là nhiều (thẳng là chân không, nghiêng là diện hữu).
Sự liên hệ giữa thẳng và nghiêng làm thành 5 địa vị sau:
1. Cái thẳng đi vào cái nghiêng (chính trung thiên): Vì cái tuyệt đối nằm trong cái tương đối nên có thể hiếu cái tuyệt đối qua cái tương đối. Động Sơn có nói: "Trong cái tuyệt đối đã có cái tương đối rồi, nếu không thì hóa ra cái tuyệt đối có trước cái tương đối sao?".
2. Cái nghiêng đi vào cái thẳng (thiên trung chính): Vì cái tương đối chỉ có thể có do nhờ cái tuyệt đối, cho nên trong cái tương đối phải xáp mặt cho được cái tuyệt đối.
3. Cái thẳng trong tự thân của nó (chính trung lai): Đây là cái tuyệt đối trong tư thế tuyệt đối của nó, không được nhận thức qua liên hệ bản thể - hiện tượng. Đây là Pháp thân, là chân như.
4. Cái nghiên trong tự thân của nó (thiên trung chỉ): Đây là cái tương đối trong tư thế tương đối của nó không được nhận thức qua liên hệ bản thể - hiện tượng. Động Sơn ví trường hợp này như là trường hợp hai người đang đấu kiếm với nhau, không bên nào áp đảo được bên nào hoặc là một bông sen nở trong lò lửa không hề bị lửa háy xén. Người đạt đến vị trí này là người đã xâm nhập thế giới pháp thân trở ra tung hoành nơi thế giới hiện tượng.
5. Cái thẳng và cái nghiên trong cùng một tự tính (kiên trung đáo), tới vị trí này thì sự phân biệt giữa tuyệt đối và tương đối bản thể và hiện tượng không còn nữa.
Năm vị trí giữa thẳng và nghiêng cũng được giải thích bằng năm sự liên hệ giữa vua và tôi (ngũ vị quân thần), có vua là vì có bầy tôi, có bầy tôi vì có vua. Xin xem: Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học, 2010, tr608-610
[21] Theo ghi chép của Nguyễn Lang, thiền phái Tào Động ở Việt Nam kế nối 12 đời từ Thiền sư Thủy Nguyệt đến Thiền sư Tâm Nghĩa Tính Nhân Từ. Xin xem: Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học, 2010, tr894-897
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết