ĐÔI NÉT VỀ VỊ THẾ THIỀN PHÁI TÀO ĐỘNG
TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TT. THÍCH THANH ĐẠT*
I. Khái lược về Phật giáo trước khi thiền phái Tào Động ra đời
Theo các tài liệu: lịch sử, thiền phả…Phật giáo truyền vào Việt Nam từ thế kỷ đầu Công nguyên, trong suốt chiều dài lịch sử cho đến nay, Phật giáo Việt Nam đã có tới năm dòng thiền chính thống truyền vào, chủ yếu là từ các thiền sư người Trung Quốc, chẳng hạn dòng thiền Tì Ni Đa Lưu Chi, tuy là người Nam Ấn nhưng cũng đắc pháp từ tổ thứ ba phái thiền tông Trung Quốc là tổ Tăng Xán rồi mới đến Việt Nam cuối thế kỷ VI, dòng Vô Ngôn Thông là lấy mật hạnh của Ngài xưng danh tông phái sang Việt Nam đầu thế kỷ IX, dòng phái Thảo Đường đến Việt Nam đầu thế kỷ XI. Rồi đến thế kỷ XVI - XVII, còn có hai dòng phái Tào Động và Lâm Tế truyền vào, nhưng giai đoạn này, đất nước Việt Nam lâm vào cuộc nội chiến (1627-1672) kéo dài gần nửa thế kỷ giữa hai thế lực họ Trịnh và họ Nguyễn, cuối cùng không phân thắng bại, chia đất nước ra làm hai: Đàng Trong thuộc về chúa Nguyễn, Đàng Ngoài của vương triều Lê - chúa Trịnh.
Điều đáng lưu ý là cả hai Đàng, vua chúa đều mến mộ Phật giáo, chẳng hạn Đàng Trong chúa Nguyễn cử người sang Trung Quốc thỉnh mời cao tăng sang truyền đạo, trong đó nổi danh như thiền sư Thạch Liêm hiệu Đại Sán Hán Ông (1633-1704) thuộc phái Tào Động, Tài liệu cho biết, đoàn sang 150 người và thụ giới pháp cho hàng ngàn đệ tử trong đó có tới 1.400 người xuất gia. Phật giáo Đàng Trong từ đó càng phát triển mạnh.Còn Đàng Ngoài, thiền sư Viên Văn Chuyết Công (1590-1644) thuộc phái Lâm Tế từ Trung Quốc sang, được vua Lê – chúa Trịnh tôn kính thờ làm thày, dòng thiền này về sau mở rộng hầu hết ở các tỉnh thành phía Bắc. Tuy nhiên, trong buổi hội thảo này, tác giả chỉ trình bày khái quát về quá trình hình thành và phát triển của dòng phái Tào Động ở Đàng Ngoài. Bởi sự đặc biệt của dòng phái này, là người Việt Nam sang Trung Quốc tu học, sau khi đắc pháp về nước lập ra dòng phái, thịnh hành và phát triển đến tận ngày nay.
II. Người khai sáng dòng phái Tào Động
Theo thiền phả, ghi lại hành trạng của tổ sư khai sáng ra dòng thiền như sau: Thiền sư Thủy Nguyệt hiệu Thông Giác Đạo Nam Thiền Sư. Sư sinh năm Đinh Sửu (1637), quê ở Thanh Triều, huyện Ngự Thiên, phủ Tiên Hưng, đạo Sơn Nam, con nhà họ Đặng. Vừa lớn lên, Sư theo học Nho giáo, đến 18 tuổi thi đậu Cống cử tứ trường. Đến năm 20 tuổi, Sư chán cảnh đời bọt bèo dâu bể, thích đi tu theo các Thiền sư. Sư bỏ nghiệp Nho, tìm đến chùa xã Hỗ Đội, huyện Thụy Anh xin xuất gia học đạo. Ở đây sáu năm học các kinh sách, Sư chưa thỏa mãn, xin phép thầy đi du phương tham vấn. Đi tham vấn hết các bậc tôn túc trong nước, mà tâm chưa sáng đạo. Lần lượt đã 28 tuổi đầu, Sư quyết chí sang Trung Quốc tầm học. Tháng 3 năm Giáp Thìn (1664) niên hiệu Cảnh Trị triều Lê, Sư cùng hai đệ tử lên đường sang Trung Quốc.
Trên đường đi rất vất vả nhọc nhằn, vừa tới tỉnh Cao Bằng thì một người đệ tử mắc bệnh nặng, thuốc thang không khỏi. Sư chôn cất bên vệ đường và dặn rằng: “Nay ngươi sức mỏi không thể theo ta được, thôi tạm nghỉ nơi đây, khi ta ngộ đạo trở về sẽ tế độ cho ngươi.” Từ đây, chỉ còn hai thầy trò vai mang bình bát chẳng quản ngại đường sá xa xôi, quyết tâm tầm sư học đạo.
Trải mấy tinh sương đến năm Ất Tỵ (1665) mới đến đất Châu Hỗ, ở đây một thời gian khá dài, ngày tháng lội lặn đến thăm các chốn tùng lâm danh tiếng mà túc duyên chẳng hợp, trong lòng băn khoăn, không biết phải tìm đến đâu? Một hôm Sư lên núi nằm nghỉ trên tảng đá lớn, bỗng mộng thấy một cụ già khí sắc trang nghiêm, tinh thần thanh sảng, đi đến trước ngâm rằng:
Điểu hoàng phong hạ lưỡng miên man
Ly khảm gia phu hữu túc duyên
Tảo thoát dục thinh vô thượng khúc
Đãng nhai đảnh lễ yết tôn nhan.
Tỉnh dậy, Sư đem việc này bàn với đệ tử cùng đi rằng: Ở trong câu phá trên chữ Phong có chữ Điểu chữ Hoàng, tức là Phượng Hoàng; câu giữa có chữ Ly chữ Khảm, Ly là hỏa thuộc về Nam, Khảm là thủy thuộc về Bắc, tức là Nam Bắc. Câu kết có chữ Đãng Nhai, chữ Nhai hai chữ Thổ chồng lên nhau, thêm chữ Thạch ở giữa Đãng, tức là núi cao. Đây đúng là thần nhân báo cho ta biết ta có duyên với núi Phụng Hoàng cao, muốn nghe tiếng pháp vô thượng phải lên núi ấy đảnh lễ bậc tôn túc. Đoán xong, Sư cùng đồ đệ lại mang hành lý đi tìm các nơi hỏi thăm núi Phượng Hoàng, quanh quẩn mất hơn một tháng mới tới núi Phượng Hoàng.
Đến nơi thấy chùa điện nguy nga, núi cao chót vót, tưởng chừng như núi Linh Thứu khi xưa hiện lên, vừa mừng vừa lo, mừng là được thiện thần giúp, lo là vì ngôn ngữ bất đồng khó khăn cho việc thưa hỏi. Khi đến cổng tam quan, Sư liền viết họ tên và chỗ ở trình lên cho vị tăng gác cổng xin yết kiến Hòa thượng Tôn sư. Vị tăng này bảo: “Bắc Nam hai ngả, nói năng không hợp, tuy là đạo vẫn đồng đường, song lẽ đâu mới đến lại được xông xáo như thế.”
Bấy giờ, Sư xin ở nhờ ngoài cổng tam quan, ban ngày học tiếng Hoa, ban đêm tọa thiền. Qua ba tháng, Sư nói được tiếng Trung Quốc. Đến ngày mồng một đầu tháng, Sư xin được yết kiến sư Tổ. Vị tăng ấy bảo: “Đạo ở phương Nam hơi giống phương Bắc, vậy muốn yết kiến hãy viết biểu đưa tôi vào bạch trước, xem có được không”. Sư nghe theo liền viết tờ biểu: “... con trước đã theo thầy thụ nghiệp ở nước nhà, song chưa rõ tông chỉ tinh vi uyên áo, cho nên không ngại trèo đèo lội suối trải qua nghìn dặm xa xôi, chỉ mong gặp được nhân duyên ngộ đạo, cúi mong Phương trượng Đại Hòa thượng thuyền từ rộng chở mọi người xa gần đều qua khỏi sông mê...”
Hòa thượng xem qua, cảm lời khẩn khoản và thấu rõ nguyên nhân, tuy chưa thấy mặt mà đã rõ tình ý trong lời, bèn bảo vị tăng giữ cửa dẫn Sư vào. Sư theo vị tăng dẫn đến tăng phòng, thấy Hòa thượng ngồi kiết già giữa nhà rất đoan nghiêm, tăng chúng đứng hầu hai bên rất chỉnh túc. Sư đảnh lễ Hòa thượng rồi, quì thẳng chắp tay trước Hòa thượng. Hòa thượng cất tiếng hỏi:
Trước khi cha mẹ chưa sanh, trong ấy cái gì là bản lai diện mục của ngươi?
Sư thưa: Mặt trời sáng giữa hư không.
Hòa thượng nói: Ba mươi gậy, một gậy không tha.
Sư lại lễ, rồi cuốn chiếu.
Hòa thượng bảo: Cho ngươi nhập chúng, tùy theo chúng tham vấn.
Từ đó, ngày thì làm việc tùng lâm, đêm thì nghiên cứu kinh luật, chuyên cần không hề lười trễ. Được một năm, Sư muốn cầu thọ giới Tỳ kheo liền lên phương trượng đảnh lễ Hòa thượng, quì thưa: “Trong cửa Phật có ba môn học, lấy giới làm đầu, cúi xin Hòa thượng cho con được thọ giới cụ túc.” Hòa thượng dạy: “Muốn thọ giới cụ túc phải sắm đủ bảy vật (cà sa, bình bát... ). Đến ngày 8 tháng 4, Hòa thượng thiết lập đàn tràng có đủ tam sư thất chứng, bạch tứ yết ma, truyền giới cho Sư. Lúc bấy giờ Sư vừa tròn 30 tuổi.
Thấm thoát đã hết sáu năm, một hôm Hòa thượng gọi Sư vào phương trượng hỏi: Đã thấy tính chưa? Sư ra lễ bái, trình kệ:
Sáng tròn thường ở giữa hư không
Bởi bị mây mê vọng khởi lồng
Một phen gió thổi mây tứ tán
Thế giới hà sa sáng chiếu thông.
(Viên minh thường tại thái hư trung
Cương bị mê vân vọng khởi lung.
Nhất đắc phong xuy vân tứ tán,
Hằng sa thế giới chiếu quang thông.)
Hòa thượng đưa tay điểm trên đầu Sư, rồi ban cho pháp hiệu Thông Giác Đạo Nam thiền sư và bài kệ truyền đăng:
Tịnh trí thông tông
Từ tính hải khoan
Giác đạo sinh quang
Chính tâm mật hạnh
Nhân đức di lương
Tuệ đăng phổ chiếu
Hoằng pháp vĩnh trường.
Trước khi bái biệt Thày trở về Việt Nam, Hòa thượng còn ban cho một bài kệ sách tiến tu tập. Chia tay với thân bằng thiện hữu đến ba ngày mới xong.
Sau đó, thầy trò Sư cất bước lên đường về cố quốc. Trên đường về, Sư cảm hứng ngâm rằng:
Sang Bắc trình rồi lại về Nam
Bắc Nam đều được thỏa thuê lòng
Cất bước yên hà càng vui thích
Ngựa về chuồng cũ, vượt muôn trùng.
Hai thầy trò đi mất năm tháng mới về tới tỉnh Cao Bằng, đi vào đường cũ ghé lại mộ người đệ tử, tụng kinh cầu siêu ba ngày, hiện điềm kỳ lạ, dân chúng đến xem rất đông, nhiều người phát tâm cúng dàng và xin quy y Tam bảo.
Trải qua một tháng mới về đến Côn Sơn, Sư thấy cảnh non xanh nước biếc rất thích, liền lên chùa lễ Phật xong, ngồi trên tòa ngâm:
Nước biếc non xanh khác hẳn phàm
Tào Khê độc chiếm cảnh trời Nam
Không riêng thờ phụng tam thân Phật
Có một Trạng nguyên giữ trụ trì.
Sư đi khắp các danh thắng, nào ở chùa Vọng Lão núi Yên Tử, nào ở Quỳnh Lâm để tìm người khế hợp. Sau tới Đông Sơn ở huyện Đông Triều, trên Thượng Long đã có vị cao tăng trụ trì rồi, Sư bèn dừng trụ ở Hạ Long để khuông đồ lãnh chúng. Có khi Sư lên ngọn núi đàm đạo với vị cao tăng thật là tương ứng.
Sư ở đây không bao lâu, dân chúng đến nghe pháp và qui y rất đông. Kể cả những vị thân hào nhân sĩ, tăng chúng đua nhau tấp nập kéo đến tham vấn. Một hôm, Sư lên Thượng Long nói với vị Cao tăng rằng: “Nay tuổi của tôi đã già, năm tháng dài lâu, nay là thời thanh bình an ổn, tôi muốn cùng Thầy lên núi nhập Niết bàn.” Vị Cao tăng nói: “Đạo quả của huynh nay đã chín muồi xin hãy về nghỉ ngơi trước, tôi còn ở lại cõi đời để độ những kẻ có duyên, đến khi đạo quả viên thành, tôi sẽ cùng theo huynh chẳng muộn.”
Vài hôm sau, Sư dặn các đệ tử rằng: Nay ta lên chơi trên núi Nhẫm Dương nếu bảy ngày không trở về, các ngươi tìm thấy chỗ nào có mùi thơm thì ta ở đấy. Tứ chúng bùi ngùi mà không dám theo. Đợi đúng bảy ngày không thấy Sư trở về, tứ chúng cùng nhau kéo lên núi Nhẫm Dương nghe gió thổi mùi hương ngào ngạt, mọi người tìm đến một cái hang thấy Sư ngồi kiết già trên tảng đá trong hang. Thân thể Sư mềm mại, xông ra mùi thơm giống hương trầm bạch đàn. Bấy giờ là ngày 6 tháng 3 năm Giáp Thân, niên hiệu Chính Hòa thứ hai mươi, đời vua Lê Hi Tông (1704), Sư thọ 68 tuổi. Tứ chúng thỉnh nhục thân Sư về hỏa táng chia linh cốt thờ hai nơi, một ở chùa Hạ Long, một ở hang núi Nhẫm.
III. Vị thế phái Tào Động trong tiến trình lịch sử Phật giáo Việt Nam
Dòng phái Tào Động do Sư sáng lập, phát triển ngày càng lớn mạnh, từ cung đình đến ngoài dân dã, nhiều chùa chiền của dòng phái này được xây dựng và đã trở thành những trung tâm hoằng pháp, độ sinh; nhiều bậc cao tăng thạc đức cũng từ đây xuất hiện, làm cho Phật giáo nước nhà ngày càng xương minh, thịnh vượng đến tận ngày nay. Những trung tâm lớn của dòng phái này hầu hết đều có ở các tỉnh thành miền Bắc như chốn tổ Nhẫm Dương, chùa Côn Sơn ở Hải Dương; chùa Hạ Long chùa Đông Sơn chùa Quỳnh Lâm chùa Yên Tử ở Quảng Ninh; chùa Bích Động ở Ninh Bình…Chỉ riêng Hà Nội nổi danh như chùa Hòe Nhai, chùa Hàm Long, chùa Trấn Quốc. Theo bia đá chùa Hòe Nhai đã ghi đến đời thứ mười một tiếp nối trụ trì, trong đó có nhiều thế hệ được triều đình sắc phong như: Thiền sư Chân Dung pháp húy Tông Diễn, vua Lê phong Đại Tuệ Thiền sư Bảo Thiền Hộ Quốc. Thiền sư Tĩnh Giác pháp húy Từ Sơn Hành Nhất, vua phong Tăng thống Tĩnh Giác Hòa thượng. Thiền sư Viên Thông Lại Nguyên pháp húy Hải Điện Mật Đa, vua phong Tăng thống Đại nguyện Hòa thượng. Thiền sư Thanh Lãng pháp húy Khoan Dực Phổ Chiếu, sắc phong Tăng thống Đạo Nguyên Hòa thượng. Thiền sư Thanh Đàm pháp húy Giác Đạo Tâm Minh Chính Hoằng Quang, vua phong Tăng cương cùng Giới đao độ điệp, v.v. Gần đây, có Hòa thượng Thích Mật Ứng - Thiền Gia Pháp Chủ Hội Phật Giáo Tăng Già Bắc Việt. Hòa thượng Thích Đức Nhuận – Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đặc biệt, với tờ trình và lời biện minh trước Đức Vua và triều đinh nhà Lê của Tổ Tông Diễn; lời đề nghị của Hòa thượng Thích Đức Nhuận lên lãnh đạo Đảng nhà Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tiếng sấm vang rền muôn thuở trong tiến trình lịch sử Phật giáo Việt Nam.
IV. Đôi điều về sử liệu
Về Đệ Nhất Tổ - Thiền sư Thủy Nguyệt
Theo bia chùa Tường Quang (núi Đông Sơn) năm Khai Hựu thứ ba (1331) và chùa Quang Khánh (chùa Muống) năm Hồng Đức thứ 7 (1515) cho biết: Thánh Tổ Non Đông (1256-1325) họ Vương tên là Quán Viên, người làng Trà Xuyên, mồ côi cha từ lúc còn nhỏ, bà mẹ yêu quý nhất mực, ở lại nuôi con không chịu đi bước nữa. Năm 10 tuổi, Ngài khắc khổ tìm thày học chữ, năm 19 tuổi đã đọc rộng các sách, xa lánh tục trần, được Đại sư Kiên Độ ở chùa Báo Ân, huyện Siêu Loại, thế phát cho. Năm 20 tuổi thụ Cụ túc giới với hai Đại sư Nghĩa Trụ và Chân Giám, trở thành bậc lương đống trong cửa thiền. Về sau, không thích nơi huyên náo gần chốn kinh thành, Ngài về chùa Đông Sơn (Đông Triều) theo lời mời của Đại lão Hòa thượng Đại Nghĩa. Tuy đã về Đông Sơn, nhưng đức hạnh của Ngài vẫn được nhiều người kính mộ, họ theo về tận chùa để cúng dàng, nhưng Ngài không nhận, mà chỉ tự mình lao động để sinh sống, còn dư thừa lương thực thì cung cấp cho người nghèo. Ngài còn lập cơ sở chữa bệnh cho dân. Cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, tệ nạn mê tín dị đoan phát triển lan tràn, Ngài dẫn đồ đệ xuống núi giảng giải, khuyên nhủ dân chúng: “ Dần dà mọi người hối cải, kẻ mê muội thì tỉnh ngộ, kẻ gian ác phải răn trừng, các tệ nạn dần được cải đổi”. Chùa Đông Sơn trở thành một trung tâm danh tiếng về hoằng pháp độ sinh “佛法東行之時也” phát triển khắp cả vùng duyên hải - Đông Bắc Đại Việt lúc bấy giờ. Vua Trần Anh Tông (1293-1314) kính mộ đức hạnh của Ngài, xe giá đến thăm viếng, phong Ngài là Huệ Nhẫn Quốc Sư và mời Ngài tham dự triều chính. Vua Trần Minh Tông (1314-1329) đau mắt, mộng thấy Ngài chữa cho khỏi bệnh, vua liền ban chiếu tạc tượng, sắc phong Đại Thánh Huệ Nhẫn Từ Giác Quốc Sư.
Theo Việt Nam Phật giáo sử luận, tác giả Nguyễn Lang ghi:Ông (Tổ Thủy Nguyệt) rời Ðại Việt năm 1664, lúc ông mới hai mươi tám tuỏi. Ông tu học tại Hồ Châu trong ba năm. Ðến năm 1667, ông và hai người đệ tử về, cư trú tại chùa Vọng Lão ở núi An Sơn, huyện Ðông Triều, tỉnh Hải Dương. Ở Hải Dương, ông gặp và làm quen với một cao tăng tên là Tuệ Nhãn. Tuệ Nhãn tu ở Ðông Sơn, tên tục là Mai Tư Phụng, quê ở làng Dưỡng Mông ở Kim Thành, Hải Dương. Vì tu ở chùa làng Dưỡng Mông nên ông được gọi là Tổ Muống. Ở Ðông Sơn, ông dạy rất đông đệ tử. Ông từng được vua Lê sắc phong là "Ðại Thánh Ðông Sơn Tuệ Nhãn Từ Giác Quốc Sư:. Chưa biết vua nào đã sắc phong, và từ năm nào.
Về Tổ Đệ Nhị - Thiền sư Tông Diễn
Bia đá, nay vẫn còn dựng bên hữu chùa Hồng Phúc. Do Tiến sĩ Hà Tông Mục, (người Hậu Lộc, Can Lộc, Hà Tỉnh nay) giữ chức Biên tu Quốc sử quán, Tả thị lang bộ hình… soạn năm Chính Hòa 24 (1703). Bản dập của Viện Hán Nôm, số 13534. Bia cho biết, vị tăng trụ trì chùa Hồng Phúc là Hòa thượng Tưởng Đình Khoa tự Chân Dung, lại có công giảng đạo cho vua, giúp nước (侍講… 輔國 Thị giảng…phụ quốc) nên được phong là 慧融和尚大慧禪師保禪輔國 Tuệ Dung Hòa thượng đại tuệ thiền sư bảo thiền phụ quốc. Và nói rõ, Ngài người xã Hương Ngải, huyện Chân Định.
Theo Thiền sư Việt Nam, Hòa thượng Thanh Từ biên soạn lại ghi: “Thiền sư Tông Diễn không biết tên tục, quê quán có thể ở thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang. Nghe kể rằng: Khi Sư còn bé cha mất sớm, mẹ tảo tần buôn gánh bán bưng để nuôi con. Khi Sư được mười hai tuổi, một hôm bà mẹ chuẩn bị gánh hàng ra chợ bán, dặn con: “Mẹ có mua sẵn một giỏ cáy (cua) để sẵn ở ao, trưa nay con giã cáy nấu canh, trưa về mẹ con mình dùng.” Bà gánh hàng đi rồi, gần đến giờ nấu cơm, Sư ra ao xách giỏ cáy lên định đem giã nấu canh như lời mẹ dặn, song nhìn thấy những con cáy tuôn những hạt bọt ra, dường như khóc rơi từng giọt nước mắt. Xót thương quá, Sư không đành đem giã, lại đem đến ao giở nắp giỏ thả hết. Trưa bà mẹ đi bán về, vừa nhọc nhằn vừa đói bụng, hai mẹ con lên mâm cơm ngồi ăn, bà không thấy món canh cáy liền hỏi lý do. Sư thưa: “Con định đem đi giã, thấy chúng nó khóc, con thương quá đem thả hết.” Bà mẹ nổi trận lôi đình, không ăn cơm, chạy lấy roi đánh Sư. Sợ quá, Sư chạy một mạch không dám ngó lại. Bà mẹ đuổi theo không kịp, mệt lả đi trở về. Ngang đây đứa con trai bà mất luôn”.
Theo Ngữ lục, Hòa thượng Trí Hải dịch và Tào Động Nam Truyền do Sắc tứ Đạo Nguyên Tăng thống, Thanh Lãng Tỷ khiêu Khoan Dực biên tập, Thượng tọa Thích Tiến Đạt dịch gần đây, đều không có “Tổ Đệ Nhất được vua Lê sắc phong…như tác giả Nguyễn Lang viết”. Và Tổ Đệ Nhị ghi rõ: “Không biết Ngài quê quán ở đâu” khác với Hòa thượng Thanh Từ viết.
Như vậy, là có sự nhầm lẫn giữa ba cụ tổ: Tổ Quán Viên (Tổ Muống thời Trần) và Tổ Thủy Nguyệt, Tổ Tông Diễn. Ba tổ đều tu trên núi Non Đông, Đông Triều, Quảng Ninh.
V. Đôi điều kiến nghị
1. Khẩn cấp bảo vệ núi Nhẫm Dương - Nơi hóa thân của Đệ nhất Tổ khai sáng dòng phái Tào Động.
2. Cần khôi phục, tái tạo những nơi di tích hoang phế mà trước đây là nơi tu hành, an nghỉ của chư Tổ.
3. Phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các Tông phái Phật giáo Việt Nam.
4. Thành lập Ban lãnh đạo Tông Phái, củng cố Tông Phong chung lo Phật sự.
Tài liệu tham khảo
1. Đại Việt sử ký toàn thư. Viện KHXH; Nxb KHXH, 1993
2. Thiền sư Trung Hoa. Thanh từ soạn dịch. THPG Tp. HCM, 1995
3. Thiền uyển tập anh. Ngô Đức Thọ dịch. Nxb Văn họa, 1990
4. Lịch sử Phật giáo Việt Nam/ Viện Triết học/ NXBKHXH HN 1988
5. Việt Nam Phật giáo sử luận/ Nguyễn Lang/ NXB Văn học HN 1994
6. Thiền sư Việt Nam. Thanh Từ. Tu viện Chân Không, 1972
7. Văn bia chùa Tường Quang, chùa Quang Khánh, chùa Hồng Phúc-Mã số 13541 Viện Hán Nôm.
8. Ngữ lục và Tào Động Nam Truyền.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết