Thông tin

ĐỨC PHẬT: HIỆN THỂ BÌNH THƯỜNG VÀ PHI THƯỜNG

 

NGUYÊN CẨN

 


 

Có hay không huyền thoại về đức Phật?

Đức Phật đã ra đời cách đây 2.565 năm. Giáo sư Lewis Lancaster nói rằng người phương Tây thoạt tiên xem đức Phật ra đời như một nhân vật huyền thoại. Ngày mà “Một hiện thể độc nhất, một nhân thể phi thường, trác việt xuất hiện ở thế gian vì phúc lợi cho nhiều sinh thể, vì hạnh phúc cho nhiều sinh thể, phát xuất từ lòng từ bi đối với thế gian, vì sự lành thiện, vì sự lợi ích và vì sự hạnh phúc cho chư thiên và cho loài người. Hiện thể độc nhất ấy là ai? Đó là đấng Như Lai, Tathagata, Ứng cúng, Chánh đẳng Chánh giác” (Anguttara Nikaya). Khi các nhà khảo cổ tìm ra những địa danh trùng khớp với tiểu sử của Người, hay những chiếc cột dựng lên từ thời Ashoka ghi rõ “Đây là nơi đức Phật sinh ra”, “Đây là nơi ngài nhập Niết Bàn” v.v..., họ kết luận: “Như vậy với thời gian, việc tập hợp những di tích ấy cho phép các nhà nghiên cứu giả định rằng có một nhân vật lịch sử mà đời sống gần gũi với những câu chuyện kể trong dân gian lưu truyền qua ba thế hệ vào thời vua Ashoka”. Mà cho dù người ấy không hề hiện hữu, thì giáo pháp của Ngài vẫn sống mãi đến hôm nay. Gary Gach trong tác phẩm của mình, viết đại ý rằng chúng ta nên ca tụng người làm ra ổ bánh mì đầu tiên. Cũng như chúng ta vẫn nhớ ơn anh em Wright đi tiên phong phát minh ra máy bay. Khi họ bước lên chiếc máy bay đầu tiên bay vào một chân trời vô định, họ đã làm được một điều vĩ đại. Và nhân loại vẫn sử dụng cách tính toán siêu phàm của họ về những chuyến bay cho đến hôm nay. Đọc giáo pháp đức Phật cũng như bước lên một chiếc máy bay (giả định), ở đó Ngài khuyến khích ta đạt tới sự bình an - tỉnh thức, nâng cao tính thiện và khai mở mọi tiềm lực của đời sống. Gach hỏi rằng bạn đã sẵn sàng gặp con người đã vạch ra hành trình đi đến hạnh phúc bền vững một cách trọn vẹn, không tốn kém, rất “đời thường” (Gary Gach, The Complete Idiot’s Guide to Buddhism, Penguin Group, 2009) Đức Phật nói ngài chỉ dạy những gì Ngài có thể thực hiện, và ngài kêu gọi mọi người cùng thực hành và tự khám phá những nhận thức cho riêng mình. Ngài là người hướng dẫn chứ không phải Thượng đế và những ai chờ đợi Thượng đế hay vị giáo sĩ nào bảo ban mình nên biết rằng tự họ có thể khám phá những gì mà trong thâm tâm hay trực giác họ đã biết… Đạo Phật vốn tự do không cưỡng ép ai, không giáo điều, không áp đặt quyền uy buộc ai phải theo. Người dẫn đạo không phải là thần thánh hay Thượng đế. Đạo Phật luôn thực tiễn và khoa học, nghĩa là chúng ta tự chứng minh chân lý cho chính mình. Thế nhưng ngày nay, con người vẫn còn mộng du trong ác mộng của chính mình. Ngay cả trong giấc mơ ấy, họ luôn luôn có cơ hội để tỉnh thức. Đó là vì chữ “Buddha” có nghĩa là người hay điều gì khiến ta tỉnh thức. Nhớ rằng khi chúng ta mở mắt, chắc gì đã thức. Tỉnh thức đích thực là trong thân, tâm và ý. Quanh ta và trong ta còn bao điều phiền muộn, âu lo, thậm chí hoảng sợ về những nỗi bất an trong đời và nỗi muộn phiền của những con người trong một xã hội chưa bền vững. Làm sao để con người có thể sống yên vui với nhau, cùng nhau và cho nhau là một nan đề không dễ giải quyết ngày một ngày hai.

Một hiện thể bình thường

Truyện kể rằng trong đoàn rước chào đón Thế Tôn lần đầu trở về thăm lại Kapilavatu (Ca -Tỳ -la -vệ) đầy đủ cả hoàng tộc, triều thần và dân chúng, duy chỉ vắng mặt một người, nàng Yasodhara (Gia-du-đà-la) cao quý. Vì nàng biết rằng: “Nếu trong thời gian Thái tử vắng mặt, những năm tháng ròng rã ấy, ta lõm khuyết đức hạnh, ta mòn vẹt thủy chung thì Thái tử sẽ không đến thăm ta, bằng ta là một viên ngọc mani không tì vết thì chính Thái tử phải đến thăm ta dù ông ấy có là Bậc Chiến thắng vĩ đại đi chăng nữa”. Và quả thật, “ông ấy” đã đích thân đến thăm nàng và dịu dàng bảo: “Này Yasodhara! Như Lai vẫn không khác xưa lắm đâu! Như Lai vẫn là con người cũ đó thôi! Nhưng bây giờ, tâm Như Lai thanh tịnh hơn, trí Như Lai quang rạng hơn…”.

Tác giả Chơn Khánh khi viết lại câu chuyện này, bày tỏ ý kiến: “…Tôi vốn dĩ cũng không tìm một Như Lai cưỡi mây đạp gió, hay trông chờ một Như Lai hô phong hoán vũ, hóa giải nỗi khổ của chúng sanh bằng huyền thuyết, bằng cơ chế ban-cho. Tôi vẫn yêu Đức Phật trong từng trang kinh thanh thoát, một Đức Phật với bước chân bụi vân du mỗi sáng ôm bình bát khất thực. Tôi muốn giữ mãi hình ảnh một Như Lai biết đói (ăn cả cám ngựa), biết khát, chân vẫn chảy máu vì đạp gai nhọn, bị tổn thương bởi sự bất hòa trong giáo đoàn vốn dĩ là nơi hòa hợp, thanh tịnh” (Chơn Khánh, “Như Lai - Vẫn là con người cũ”, Giác ngộ tuần san, số 997, 2019).

Đức Phật của chúng ta khi khát vẫn cần sữa của nàng Sujata, vẫn không dùng thần thông để tránh những lúc ốm đau và cả cái chết, dù biết trước.

Đức Phật: một hiện thể phi thường

Những Đức Phật cũng là một hiện thể phi thường. Chúng ta thấy trong giáo pháp của Người con đường thoát khổ qua Tứ Diệu Đế và Bát Chánh đạo. Chúng ta cũng thấy Người chỉ ra con đường ba la mật, ngoài trí tuệ do sự quán chiếu, còn có những sự thực tập khác như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định. Từ bi được nâng lên ngang hàng với trí tuệ. Lý tưởng của Phật là cứu độ chúng sanh, làm sao để người Phật tử khởi phát bồ đề tâm, hay nói cách khác, tâm thương yêu cũng là tâm giác ngộ. Người để lại sau 25 thế kỷ, giáo pháp như chân lý sáng soi không chỉ cho việc giải thoát cá nhân mà còn cho việc xây dựng cộng đồng, xã hội, quốc gia.

Sống và hành động trong tinh thần bát nhã

Kinh Pháp cú nêu rõ: “Tâm làm chủ các pháp”. Tất cả mọi việc do tâm tạo ra, tâm làm chủ. Vì vậy, nhận ra tâm mình và làm chủ tâm mình, chúng ta không còn tạo ác nghiệp, thì không còn khổ và không còn sanh tử luân hồi. Nhược bằng khởi tâm tham, muốn chiếm hữu của người khác, gây ra tranh quyền đoạt lợi, làm nhiễm ô tâm mình. Suy rộng ra một thành viên hay một lãnh đạo tham lam có thể không chỉ gây hại cho tập thể mình đang dẫn dắt, ảnh hưởng đến cộng đồng xung quanh khi có tham vọng không biết kềm chế.

Vì sự an lạc buộc người lãnh đạo phải biết tu dưỡng thắng nhân. Nghĩa là phải biết “giới, định” để phát sinh “huệ” hay chính là Bát-nhã, minh triết trong giải quyết rốt ráo mọi vấn đề”. Đức Phật không bao giờ xem hòa bình như là một quà tặng từ hư vô. Theo quan điểm của Người thì hòa bình là một ý chí quyết liệt, một cuộc đấu tranh kiên cường, một vấn đề tự giáo dục và tự huấn luyện, để bá tánh có thể yêu quý hòa bình như là một vật báu cần phải thực hiện ngay từ bây giờ, trên quả đất này.

Ngược dòng lịch sử, các vua Lý - Trần Việt Nam đã chọn con đường tích cực nhập thế khi dấn thân vào các cuộc chiến đấu vì độc lập, gìn giữ hòa bình cho Tổ quốc. Họ sống với tâm “Bát nhã”. Từ một Bát-nhã sinh ra muôn vạn pháp đều không ngoài tâm. Ni sư Thích Nữ Trí Hải từng giảng: “Bát-nhã là để mà sống, hành động, thể hiện, chứ không phải để nói suông. Nói mà không làm thì Bát-nhã trở thành huyễn hóa như sương chớp ảo ảnh, hay như người đói mà chỉ bàn về thức ăn, thì không thể no được. Miệng nói Bát-nhã mà vẫn sống và xử sự một cách ngu si, mê muội, thì không phải Bát-nhã… Sống Bát-nhã thì tâm không thể tán loạn, đó là Định. Sống Bát-nhã, tâm không ngu si, đó là Tuệ”. (Thích Nữ Trí Hải, Tìm hiểu kinh Kim Cương). Trong tinh thần đó, Quốc sư Phù Vân đáp lời vua Thái Tông nhà Trần tìm vào núi cầu Phật rằng: “Núi vốn không có Phật, Phật chỉ tồn tại nơi bản tâm mình. Bản tâm lắng trong mà biết, ấy gọi là Phật - thật, nếu Bệ hạ giác ngộ được cái bản tâm ấy thì thành Phật liền đây, khỏi khổ sở tìm cầu bên ngoài tâm vậy...”.

Quốc sư khuyên nhà vua “Phàm kẻ làm vua lấy ý muốn thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy cái tâm thiên hạ làm cái tâm mình”. Vua Trần Thái Tông đã nghe theo lời dạy ấy để trở về hành động phụng sự dân tộc vào sinh ra tử suốt hơn 10 năm, để rồi sau khi từ giã ngai vàng, giác ngộ rằng tâm không chấp vào đâu, cứ vô cầu mà hành động (Lê Mạnh Thát - Toàn tập Trần Thái Tông, NXB Tổng hợp TPHCM, 2004). “Ưng vô sở trụ...”, đấy là tinh thần thiền học. Sau này nhiều thế kỷ, tinh thần của Gandhi trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Ấn Độ cũng thế khi ông hành động vô cầu để tiêu trừ cái ngã riêng tư đến chỗ Không (Je me réduis à zéro) vậy.

Hướng đến xã hội bền vững

Xã hội vốn mang nghĩa hài hòa. Với Tây phương là société, society, từ tiếng La-tinh socius, có nghĩa companion, bạn cùng sống, bạn đồng hành.

Vậy thì xã hội muốn bền vững phải hài hòa. Trước hết, là sự hài hòa trong từng bộ môn. Chẳng hạn, kinh tế phải tạo ra sự hài hòa trong chính nó: hài hòa giữa thành thị với nông thôn, hài hòa giữa giàu và nghèo, hài hòa với môi trường sinh thái, với địa lý tự nhiên, với tài nguyên… Hài hòa được như thế tức là kinh tế phát triển bền vững. Mỗi bộ môn cần có sự hài hòa trong chính ngành ấy.

Vậy lãnh đạo phải tốt và hiệu quả mới có xã hội hài hòa. Đức Phật từng dạy rằng khi người lãnh đạo chính phủ tham nhũng và bất công thì xứ sở trở nên tham nhũng, băng hoại, và đau khổ. Ngài chống lại sự tham nhũng và đã dạy rằng chính phủ phải biết quản trị dựa trên các nguyên tắc nhân ái.

Ngài nói: “Khi người lãnh đạo xứ sở có tính công bình và thiện ái thì triều đình có tính công bình và thiện ái. Khi triều đình có tính công bình và thiện ái thì các quan chức có tính công bình và thiện ái. Khi các quan chức có tính công bình và thiện ái thì các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái. Khi các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái thì người dân có tính công bình và thiện ái”. (Bình Anson, trích dịch Gems of Buddhist Wisdom). Chúng ta thấy trong xã hội Ấn Độ ngày xưa, một xã hội được thần cách hóa với bốn giai cấp chênh lệch. Trong một đoạn Thánh thi diễn tả về người nguyên thủy (purusha) chúng ta đọc thấy “Miệng của người nguyên thủy là giai cấp Giáo sĩ (brahman), hai cánh tay người ấy là vua chúa (Rajanya); hai bắp đùi người ấy là giai cấp thương nông (Vaisya); hai bàn chân người ấy là giai cấp công nhân, nô dịch (sudra). Với hiện trạng bất công xã hội ấy, Đức Phật mở đầu một cuộc cải tạo xã hội mới trong tinh thần công bình, tự do của giá trị việc làm hơn là những thần thoại di truyền để phân chia giai cấp. Ý niệm cao đẹp này là khởi điểm cho một cộng đồng xã hội Phật giáo, còn được chép lại trong kinh Vassal Sutra: “Không phải sự sinh ra tự nhiên làm cho người ta thành một tiện dân hay một giáo sĩ Bà la môn: chính thành quả của những việc làm mà người ta trở thành một tiện dân hay một giáo sĩ”. Đức Phật đã hình thành một xã hội tứ chúng (Tỳ kheo tăng, tỳ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di) và phổ biến bốn giới căn bản được áp dụng chung thời đó: không sát sinh / không trộm cướp / không tà dâm / không nói dối. Và ai vi phạm một trong bốn điều trên tùy mức độ có thể bị phạt hay miễn xá nếu biết sám hối. Xã hội ấy được trưởng dưỡng trong tinh thần lục hòa:

1. Thân thể sống chung hòa cảm (Thân hòa đồng trụ)

2. Miệng nói dung hòa không tranh chấp (Khẩu hòa vô tránh)

3. Ý chí hòa đồng trong niềm vui chung (Ý hòa đồng sự)

4. Ý kiến điều hòa trao đổi lẫn nhau (Kiến hòa đồng giải)

5. Giới luật cùng hòa hợp tu dưỡng tuân theo (Giới hòa đồng tu)

6. Quyền lợi cùng chia, hòa hợp với giá trị thực hành mỗi việc (Lợi hòa đồng quân)

Lời dạy của Ðức Phật về các bổn phận đạo đức của vua chúa để sử dụng công quyền, bảo đảm an sinh người dân, đã giúp cho vua A Dục (Ashoka), vào thế kỷ 3 trước Tây lịch, cai trị đất nước của ông…

Hôm nay, nhiều học giả xem Ðức Phật là một nhà cải cách xã hội vì Ngài đã lên án hệ thống giai cấp và công nhận quyền bình đẳng của con người. Ngài dạy rằng xã hội phải được điều hành trên trí tuệ và lòng từ bi, chứ không dựa vào lòng tham lam và si muội. Lòng từ bi nếu không có trí tuệ trở thành một thứ tình cảm mù quáng trái lại trí tuệ lẻ loi sẽ không thể là ánh sáng mát lành vì sự kết hợp cả hai giống như sự hòa hợp giữa con tim và khối óc. Cho nên chúng ta xác nhận tình thương vô biên và tri giác vô lượng bao giờ cũng là nòng cốt cho việc chuyển mình của xã hội, tôn giáo của đức Phật, mà nguyên nhân chính là hiện tượng bất công xã hội và độc quyền tôn giáo.

Đường vào Niết Bàn dưới chân chúng ta

Chúng ta không mong chờ vào ai đó, dù là bậc tu hành đức cao vọng trọng hay đấng giáo chủ nào phân phát cho chúng ta phép màu vào Niết Bàn vì Niết Bàn nằm ngay trong mỗi chúng ta, ở dưới chân chúng ta, ở trên bầu trời chúng ta đang sống, nơi con đường chúng ta đang đi nếu chúng ta vượt qua tham sân si trong chính lòng mình. Có người đã nói: “Giáo thuyết của Ðức Phật không dựa trên một “Triết lý Chính trị” nào cả. Giáo thuyết này không khuyến khích con người đi vào con đường hành lạc vật chất. Giáo thuyết này vạch ra con đường đưa đến giải thoát tối hậu, là Niết Bàn. Nói một cách khác, mục tiêu tối hậu của Giáo thuyết ấy là đoạn diệt lòng tham ái vốn đã cột chặt con người trong vòng trầm luân, khổ ải. Một câu kệ trong Kinh Pháp Cú (kệ 75) đã tóm tắt điều này: “Con đường đưa đến thủ đắc vật chất là một con đường, còn con đường đưa đến Niết Bàn là một con đường khác” (Bình Anson -sđd).

Và đấy chính là trung đạo - con đường nhân bản. Trung đạo là con đường để phục vụ, để dẫn dắt con người hướng thượng. Nếu có một xã hội mà trong đó người ta không những ít bị chướng ngại mà lại còn được giúp cho để tiến lên trong chính đạo, thì phải là một xã hội xây dựng trên căn bản trung đạo. Nó cũng là ước mơ muôn đời của nhân loại.

Hãy đi vào con đường đã vạch ra của Đức Phật. Và cùng chắp tay nguyện cầu trong mùa Phật đản 2565 để thấy Người đang đản sinh hàng ngày trong đời sống chúng ta!

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 28
    • Số lượt truy cập : 6057623