Thông tin

GIÁ TRỊ GIÁO DỤC TỪ CHƠN LÝ “TÁNH THỦY”

GIÁ TRỊ GIÁO DỤC TỪ CHƠN LÝ “TÁNH THỦY”

 

LIÊN HIẾU

 

 

Thông thường, khi nói đến giáo dục, người ta thường đề cập đến học đường, đến giáo án, đến phương pháp truyền đạt, v.v. Giáo dục Phật giáo theo nghĩa rốt ráo không giới hạn nơi học đường hay sách vở mà tất cả mọi sự, mọi việc xảy ra trong cuộc sống hằng ngày đều là những bài học để chúng ta trải nghiệm lời chư Phật, chư Tổ dạy. Nói cách khác, khi nói đến giáo dục Phật giáo là nói đến con đường Tu và Học thông qua Giới, Định và Tuệ. Hòa thượng Bobhi trong bài viết “Mục tiêu của giáo dục Phật giáo” đã khẳng định: Giáo dục Phật giáo trên bình diện rốt ráo đã áp dụng đúng nguyên nghĩa của từ “giáo dục”, vì “giáo dục” nghĩa đen là “sinh ra” hay là “mang đến”; ngụ ý rằng nhiệm vụ thật sự của nền giáo dục là khơi dậy trong tâm người học tiềm năng bẩm sinh cho sự hiểu biết và nhận thức thấu đáo vấn đề1. Nếu nhìn từ góc độ này, những lời dạy Tổ sư Minh Đăng Quang trình bày trong Chơn lý Tánh Thủy nói riêng và trọn bộ Chơn Lý nói chung chính là con đường giáo dục Phật giáo với những giá trị sống thực tế. Tổ sư với phương châm “Nối truyền Thích Ca Chánh Pháp” đã thắp sáng lên ngọn đuốc tuệ mà Đức Thế tôn đã khơi nguồn hơn 2.600 năm, Ngài đã mở ra một chân trời mới thông qua những ảnh dụ về Nước rất gần gũi và rất thực tế trong cuộc sống hằng ngày.

1. Tính thanh lọc của nước và bản tâm thanh tịnh

Hình ảnh dòng nước có ảnh hưởng khá lớn trong quá trình thành tựu đạo quả của Tổ sư Minh Đăng Quang. Đầu tiên, tại đầu gành bãi biển Mũi Nai, Hà Tiên, nhìn cảnh biển trời bao la, sóng biển vào ra, bọt nước tụ tán, Tổ sư đã ngộ lý vô thường, đầy vơi, còn mất, có không... của cuộc đời. Sau đó, trong bộ Chơn Lý, Tổ sư đã dành trọn một quyển (Chơn lý Tánh Thủy) để nói về đặc tính của nước, Tổ sư đã cụ thể hóa hoạt tính của nước qua những ví dụ thực tế và liên hệ đến phẩm chất tu tập của một vị xuất gia. Tổ sư giải thích: “Người ta giặt rửa cái dơ vào trong nước, thì với sự yên lặng, cái dơ lóng xuống đáy, hay cùng có sóng gió là cái dơ ấy bị tạt phải lên bờ. Sự điềm tĩnh của người tu cũng y như vậy, hạ bỏ tất cả phiền não xuống tận đáy lòng, cùng khi nói làm xô dẹp qua một bên, mà tánh người tu vốn thường trong sạch và yên lặng. Nước dơ thì nó tự rửa lấy nó bằng sự yên lặng chớ chẳng nhờ ai”2.  Một lần nữa, để nhấn mạnh tính thanh lọc cố nhiên của nước, Tổ sư nói: “Những khi bão tố, nước đục dâng lên, tràn vào ao nước trong cao ráo, khi đến đó rồi là ở yên đó và lần hồi phải tự lóng trong, theo như chất nước ao trong”3.

Cả hai lời dạy trên, Tổ sư đều đề cập đến tính chất thanh lọc của nước, nước bị đục là do vấy bùn, khi bùn lóng xuống thì nước tự nhiên trong. Tâm thanh tịnh lặng yên được Tổ sư ví như nước trong, và các phiền não chính là những bùn dơ, cáu bẩn. Nước có khả năng tự thanh lọc vì bản chất của nó vốn là trong sạch, chỉ vì bị những cái dơ bên ngoài khuấy động nên nước bị đục, nếu để yên bùn dơ và cáu bẩn lóng xuống thì nước sẽ trở lại sạch trong mà không cần phải nhờ ai giúp sức. Babu trong quyển “Cuộc sống - một điều bí ẩn” kể lại câu chuyện liên quan đến tính thanh lọc của nước. Ngày nọ, Đức Phật cùng các vị đệ tử trên đường du hóa, khi đi qua một hồ nước, Đức Phật và các vị đệ tử dừng lại nghỉ chân, khi ấy Đức Phật nói với một trong các đệ tử: “Ta thấy khát rồi, con hãy lấy một ít nước từ hồ lên cho ta uống”. Vị đệ tử đi đến hồ nước nhưng chẳng may có một chiếc xe bò vừa mới đi ngang nên nước trong hồ bị vấy bùn rất đục. Vị đệ tử nghĩ thầm: “Làm sao ta có thể đưa chỗ nước có bùn này cho Ngài uống được”. Vì vậy, vị ấy trở lại chỗ Đức Phật và thưa: “Kính bạch Thế tôn, nước trong hồ đó rất đục, con không nghĩ là Ngài có thể uống được”. Nửa tiếng sau, Đức Phật lại nói vị đệ tử ấy hãy quay lại hồ lấy ít nước cho Ngài uống. Lần này cũng vậy, nước vẫn đục nên vị đệ tử quay trở lại và nói với Đức Phật giống như trước. Lần thứ ba, Đức Phật lại bảo vị ấy đi lấy nước, lần này nước hoàn toàn trong sạch vì bùn đã lắng xuống, vị ấy lấy một ít nước vào bình và mang đến dâng Đức Phật. Nhìn bình nước sạch trên tay vị đệ tử, Đức Phật dạy: Nước bị vẫn đục là do bùn, nếu để yên cho bùn lóng xuống thì nước sẽ tự nhiên trong mà không cần phải dụng công, không cần phải nỗ lực. Bản chất của tâm cũng vậy, luôn thanh tịnh và trong sáng. Do đó, khi tâm phiền muộn, lo lắng hay bất an, đừng cố gắng, đừng nỗ lực loại bỏ các phiền não mà hãy học cách nhìn và quan sát, và cần có thời gian các phiền não sẽ tự lắng dịu và ổn định, như nước đục lóng bùn sẽ tự trong4

Trong cuộc sống hằng ngày, khi đối duyên tiếp cảnh tâm chúng ta thường phản ứng, thường chạy theo những cái thích ý vừa lòng và loại trừ những cái mình không ưa, không thích. Trong tu tập thì mong loại bỏ các phiền não, cố gắng hết sức để loại bỏ nó, và mong đạt được trạng thái tâm an tịnh. Thái độ tu tập này không đúng với lời dạy của chư Phật, chư Tổ. Trong Chơn lý Tánh Thủy, Tổ sư ví phiền não như bùn, tâm an tịnh ví như nước trong. Muốn có nước trong chúng ta không thể bỏ nước đục ấy, cũng không thể vớt bùn ra khỏi nước, cái có thể làm là biết nước bị đục vì bùn nên cứ để cho nước lặng yên, tự nó sẽ trong. Đối với phiền não cũng vậy, cố gắng muốn dẹp bỏ phiền não đồng nghĩa với sân, mong đạt được trạng thái yên tịnh đồng nghĩa với tham, vì tu không phải là đạt được mà là thấy ra được thực tánh của các pháp. Tại đây, nếu không khéo chúng ta sẽ đối diện với cái tham và sân mà không thấy được thực tánh pháp trong hiện tại, và như vậy chúng ta sẽ không bao giờ có được “hồ nước trong”. 

2. Đặc tính kết dính của nước và sự hòa hợp dung thông

Trong nhiều bài kinh, Đức Phật giải thích nước là một trong bốn đại (đất, nước, lửa, gió) hay là bốn yếu tố chính yếu tạo nên cơ thể vật lý của một chúng sanh. Theo Vi Diệu Pháp, đặc tính của nước là sự kết dính và chính nhờ đặc tính này mà mọi vật được kết giữ lại với nhau thành một khối gọi là cơ thể, là nhà, là bàn, ghế, v.v. Trong thực tế, chúng ta không thể dùng tay chạm vào đặc tính của nước mà chỉ có thể biết được đặc tính này thông qua suy luận từ sự kết dính của các vật chất xung quanh5. Tính kết dính của nước hiện hữu trong tất cả các vật chất từ lớn cho đến cực nhỏ, và điều đặc biệt là trong đất, trong lửa và trong gió đều có đặt tính của nước. Cả bốn yếu tố vật chất này hỗ tương với nhau để tồn tại và phát triển. Thế nên, Tổ sư viết: “Nước là một chất lỏng chan hòa với tất cả các chất, cũng như sự không xan tham, chan sớt sống chung cùng với chúng sanh”, và “nước không có hột phân tách, cũng như lòng sống chung từ bi bác ái, đại đồng, bình đẳng của nhà đạo đức, không chia rẽ phân biệt, ích kỷ riêng tư”6.

Điều đáng ghi nhận nơi đây là vào thập niên 1940-1950, Kinh - Luật - Luận của cả hai trường phái Nam truyền và Bắc truyền phần nhiều còn nguyên chữ Pāli và Hán, vả lại thời gian học đạo và hành đạo của Tổ sư cũng không dài lắm, thế mà Tổ sư đã hệ thống và trình bày một số phạm trù giáo lý căn bản liên hệ đến Vi Diệu Pháp bằng những ngôn từ rất giản dị, rất dễ hiểu để giới thiệu đến mọi tầng lớp quần chúng một cách hết sức khoa học. Từ tính chất kết dính, chan hòa của nước, Tổ sư liên hệ đến tâm từ bi bác ái, đại đồng, bình đẳng của nhà đạo đức; và các mối quan hệ trong cuộc sống, quan hệ giữa người với người, giữa quốc gia này với quốc gia khác, Ngài dạy: “Tuy nước ao này, ao kia cách khoảng, nhưng nó cũng có hang mạch thông đồng; cũng như xứ đạo đức bên này, nước quân tử bên kia, tuy xa cách nhưng lý trí điển lành lúc nào cũng dung hợp làm một, mà không ai ngăn cản được”7

Có thể nói một trong những đặc tính làm nên sức mạnh của nước chính là tính kết dính không phân rã và khả năng dung nạp rất lớn của nó; sự gắn kết như một động lực để chan hòa và cộng hưởng. Tổ sư giải thích: “Nước bao giờ cũng thấm nhuần trong đất làm cho đất dính liền không đến nỗi phải khô khan ra bụi. Cũng như giáo lý thánh hiền lúc nào cũng từ bi thương xót kẻ lợi danh ác quấy, ban bố dạy khuyên. Cảm hóa lần lần, chớ không nỡ để cho họ chia rẽ tương tàn sát hại lẫn nhau”8.  Nếu con đường giáo dục Phật giáo đặt nền tảng trên sự cộng hưởng và thẩm thấu như đặc tính của nước mà Tổ sư Minh Đăng Quang đã trình bày trong Chơn lý Tánh Thủy thì sẽ xóa bỏ được vách ngăn giữa các dòng tư tưởng, tông môn, hệ phái theo đúng tinh thần hòa hợp cộng trụ của Phật giáo.

3. Tính thích nghi của nước và sự tùy duyên thuận pháp

Một điều rất dễ thấy ở nước là tính thích nghi, dù tồn tại ở bất cứ môi trường nào nước luôn tương thích với vật chứa dù cho vật chứa đó là tự nhiên hay do nhân tạo, như chai nước, chén nước, thùng nước, lu nước, vòi nước, hồ nước, vũng nước, ao nước, v.v. Đây không phải là cách ứng xử ba phải, mà là khả năng thích ứng vô hạn của nước, và chính điều này đã làm nên sức mạnh vô song của nước. Dựa vào đặc tính này, Tổ sư liên hệ đến cách ứng xử tùy duyên thuận pháp, vô ngã vị tha của người đạt ngộ. Tổ sư nói: “Nước tuy dẻo dai mềm yếu nho nhã nhu hòa chan sớt theo hình lớn nhỏ, mà lại bền bỉ mạnh cứng to lớn… Tuy mềm yếu lỏng nhẹ trôi chảy chiều chuộng như sợ sệt, ai muốn sao theo vậy, cũng như không ta, không tự chủ, không nhứt định, là cái sống của chúng sanh, sống theo nhân duyên, mà như thế mới là một sức mạnh, to lớn, ích lợi bền dài sống mãi”9.

Nước nói riêng và mọi sự vật trên thế gian này nói chung luôn luôn biến đổi theo nguyên lý tự nhiên của nó hoặc theo tiến trình nhân quả sanh diệt. Như nước sông, nước biển nóng thì bốc hơi bay lên không trung thành mây, mây gặp điều kiện lạnh ngưng tụ lại và tạo thành mưa, mưa rơi trở lại sông ngòi, biển cả. Đây là sự tương giao hòa quyện của nước cũng như của mọi sự vật trên thế gian, nếu biết được nguyên lý này chúng ta sẽ dễ dàng sống thuận theo sự vận hành của pháp chứ không sống theo ý tư riêng của mình. Ai sống thuận theo pháp thì an vui, thuận theo ý riêng hay thuận theo bản ngã sẽ mãi khổ đau, phiền lụy. Thế nên, Tổ sư khẳng định “ai muốn sao theo vậy, cũng như không ta (không có tự ngã), và đó chính là cái sống của chúng sanh, sống theo nhân duyên, mà như thế mới là một sức mạnh, to lớn, ích lợi bền dài sống mãi”.

Lời dạy của Tổ sư về cách sống thuận theo nhân duyên, sống không chấp trước vào hình thức bên ngoài, có thể xem là đồng tư tưởng với câu nói cốt lõi trong kinh Kim Cang “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (nên không có chỗ trụ mà sanh tâm). Sống theo sự vận hành của pháp, sống theo sự việc xảy ra trong hiện tại mà không bám víu vào bất cứ một hình thái nào, vì không bám víu là tự tại giải thoát; bám vúi là ao tù và là tự cô lập mình. Có thể nói “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” hay “Sống theo nhân duyên” là chìa khóa để mở cánh cửa tâm an tịnh, giúp chúng ta sống trong trần mà không bị trần lôi kéo, vẫn thấy sắc, nghe tiếng, ngửi mùi, nếm vị, thân xúc chạm nhưng tâm vẫn không đắm nhiễm, vẫn an nhiên tự tại; và cũng chính nhờ cách sống này mà chúng ta có thể giữ tâm thăng bằng giữa những thăng trầm của cuộc sống. Giống như nước, một mặt có thể uốn cong theo mọi ngõ ngách, uyển chuyển theo địa hình, nhưng mặt khác bao giờ cũng vươn tới thế cân bằng. Nói cách khác, cân bằng là thế tồn tại ổn định của nước. Dựa vào đặc điểm này, Tổ sư đã đưa ra cách hành xử tuyệt vời giúp người hành pháp có thể sống thong dong tự tại giữa đời thường. Ngày nọ, Đức Phật đang ngự tại Tịnh xá Kỳ Viên, khi đêm gần mãn có một vị chư thiên đến bạch Đức Phật về phúc lành cao thượng, Đức Phật dạy: “Khi xúc chạm việc đời, tâm không động không sầu, tự tại và vô nhiễm, là phúc lành cao thượng”10

Đường đời muôn vạn nẻo, các pháp sanh khởi cũng muôn ngàn sai biệt, nếu chúng ta cứ áp dụng một bài học duy nhất hoặc cứ rập khuôn theo quan điểm của riêng mình, muốn sự việc hay muốn những người xung quanh mình phải như thế này hay phải như thế kia… thì chúng ta sẽ không bao giờ thấy được thực tánh của các pháp. Thế nên, phải biết tuỳ duyên, nói theo lời Tổ sư “là sống theo nhân duyên”, phải biết thích nghi như nước “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, có như vậy chúng ta mới có thể trải nghiệm được những vui buồn trong cuộc sống và có thể vượt qua chính mình.

4. Khả năng dung chứa của nước và thái độ sống chấp nhận

Mở đầu Chơn lý Tánh Thủy, Tổ Sư giải thích nghĩa của từ “quân tử” và sau đó Tổ Sư so sánh tâm của người quân tử giống như nước, nên gọi là “Tâm thủy, trôi bay khắp cùng thiên hạ, do đó mà được chỗ hơn người”11. Tổ sư dạy tiếp: “Người quân tử thắng được cái ý của mình, thắng được cái thô lỗ, cộc cằn, thắng được cái tự đắc, tự cao, kiêu hãnh, ngã mạn chấp ta, nên gọi là cái thắng hay, ít ai làm được mới là quý”12. Mỗi người sanh ra đều mang những đặc tính gần giống nhau, tuy nhiên trong quá trình tồn tại và phát triển mỗi người lại tự trang bị cho mình một thái độ sống khác nhau, và chính điều này đã tạo nên sự khác biệt lớn trong xã hội, nên có người được gọi là quân tử và có người bị nói là tiểu nhân… Nắm rõ nguyên lý này, Tổ sư giải thích rõ ràng những hoạt tính của nước, qua đó Tổ sư liên hệ đến cách sống, cách cư xử cần phải có của một người đệ tử Phật, Ngài dạy: “Nước bao giờ cũng mát, dầu có bị đốt nấu đi nữa, thì sau đó nó cũng mát trở lại tánh cũ. Cũng như người quân tử không bao giờ sân giận, dầu phải bị ai gây gổ khêu chọc”13;  và cũng “không ai chém giết đánh đập được nước, dầu sau cơn bị động rồi thì nước vẫn trở lại bằng phẳng như nhiên, như không có chi hề hấn. Người quân tử cũng vậy, chẳng bất bình ai cả, chẳng chi làm tổn hại xao xuyến tâm người”.

Trong Kinh Đại giáo giới La-hầu-la14, Đức Phật dạy La-hầu-la hãy học cách ứng xử như nước, dù cho người ta có đổ vào nước những thứ sạch sẽ, thơm tho… hay giặt, rửa trong nước những thứ bất tịnh, hôi hám…, thì nước cũng không vì thế mà đầy vơi hay dậy sóng. Vì sao? Vì nước có dung tích rộng lớn, có khả năng lưu chuyển, có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả những gì đã tiếp nhận. Chính vì thế nên Tổ sư dạy nước bao giờ cũng mát và có khả năng dung chứa tất cả, nếu tâm ai rộng lớn bao la, khoan dung độ lượng như nước, thì cũng có thể tiếp nhận và chuyển hoá tất cả mọi bất công, oan ức… và những thứ ấy sẽ không thể làm cho người ấy đau khổ hay phiền lụy được.

Có thể nói một trong những nguyên nhân chính làm cho cuộc sống của con người vốn đã khổ lại càng khổ thêm đó là thái độ không chấp nhận hay là dễ dàng phản ứng với những việc trái ý. Thông thường, khi những việc vừa ý, vừa lòng xảy ra thì hầu như ai cũng dễ dàng chấp nhận; nhưng khi đối diện với những việc trái ý nghịch lòng thì không dễ gì chấp nhận được, thế nên người ta thường có những thái độ phản ứng theo chiều hướng tiêu cực như bực mình, sân giận…, và khi phản ứng tức là bản ngã sanh khởi, có bản ngã thì có khổ đau. Trong giai thoại Thiền kể lại câu chuyện Thiền sư Bạch Ẩn, bị người ta vu oan và bồng đứa bé đến giao cho Ngài. Dù là việc không có nhưng Thiền sư không tranh cãi, không phản ứng mà chỉ đáp vỏn vẹn hai tiếng “Thế à”. Rồi sau đó, đương sự cảm thấy lòng ray rứt nên đến xin lỗi Thiền sư và bồng đứa trẻ về, giao đứa trẻ cho người, Ngài cũng chỉ thốt lên hai tiếng “Thế à”. Chuyện tốt hay xấu, khen hay chê, được người tán thán hay bị mất danh dự, đối với Thiền sư Bạch Ẩn chỉ là sự vận hành của pháp, nên Thiền sư đã chấp nhận để sống thuận theo pháp, sống thuận theo “Tâm thủy” của người quân tử.

William James - nhà triết học, tâm lý học lừng danh người Mỹ cũng đã phát hiện ra rằng con người có thể thay đổi cuộc đời bằng cách điều chỉnh thái độ sống của mình. Mac Anderson trong quyển “Điều kỳ diệu của thái độ sống”15  cũng đồng quan điểm trên, ông cho rằng thái độ sống là yếu tố vô cùng quan trọng đối với cuộc sống và công việc của mỗi người, bởi lẽ thái độ sống không chỉ ảnh hưởng đến hạnh phúc hay sự thành tựu của riêng mình, mà còn tác động đến người thân, đến bạn bè, đến những người cộng sự, những đồng nghiệp, và những người quanh mình. Thế nên, trong cuộc sống hằng ngày cho dù chúng ta sống với thái độ như thế nào khi tiếp xúc với ngoại cảnh, thì chúng ta vẫn có thể lựa chọn và hoàn toàn làm chủ thái độ sống của mình. Chúng ta không thể thay đổi quá khứ, không thể thay đổi người khác, cũng không thể làm thay đổi được những sự việc đã xảy ra hay sẽ xảy ra. Điều duy nhất chúng ta có thể làm được đó chính là thay đổi thái độ sống của mình.

Lời kết

 Có thể nói bao trùm toàn bộ Chơn lý Tánh Thủy là con đường giáo dục tâm, là bài học giữ tâm ý trong sạch và cao thượng mà Tổ sư Minh Đăng Quang muốn gửi đến những người học đạo; phải luôn trau dồi tâm thủy, tánh thủy, học tập đạo thủy để mà tu tâm và hành đạo vì “nước là đạo, là pháp, nước là thiện, là lành... Nước là quân tử, là Phật, mà các bậc đại hiền muốn cho tất cả đều tu và chỉ đạo cho ngó thấy, lấy nước mà so sánh dễ hiểu, mong cho cõi đời trở nên xứ Phật, xứ đạo đức, xứ hiền lương, chớ nào có bảo việc hơn thua tranh lợi”16. Các pháp thế gian luôn xoay vần biến đổi được mất hơn thua…, và chính nhờ những thăng trầm này mà đời sống của mỗi người được tồn tại, nếu nghiêng về một phía sẽ bị đỗ vỡ. Điều này đã được Tổ sư chỉ rõ với sự liên hệ đến đặc tánh của bốn đại trong phần kết luận Chơn lý Tánh Thủy, Ngài nói: “Sự nóng, lạnh, mát, nguội phải dung hòa, đừng cái nào nhiều ít mà mang khổ. Hay cũng như là ở đời phải có lỏng, có đặc, có hơi, có nóng, đều đủ mới không tai nạn. Nên nhớ rằng: Thái quá bất cập, nếu thiếu một pháp thì ba pháp kia cũng khó đặng bình yên đứng vững”17.


Chú thích:

1. Bhikkhu Bodhi, Aims of Buddhist Education (Sri Lanka: BPS, 1997), Newsletter Essay No. 35.

2. Tổ Sư Minh Đăng Quang, Chơn Lý, tập 1 (Hà Nội: Nxb Tôn giáo, 2009), tr. 436-437

3. Sđd, tr. 439.

4. Babu, Life- A Mystery (New Delhi: Education Publishing, 2011), tr. 126

Kinh Đại Bát Niết-bàn (HT. Thích Minh Châu dịch, Trường Bộ Kinh, Viện Nghiên Cứu PHVN, 1991, tr. 134-135) có nói đến việc Đức Phật dạy Tôn giả A-nan đi lấy nước cho Ngài uống, Tôn giả A-nan cũng đi lấy đến lần thứ ba mới có nước trong cho Phật uống, nhưng bài kinh này không đề cập đến lời Phật dạy sau khi có nước trong.

5. Bhikkhu Bodhi, A Comprehensive Manual of Abhidhamma (Sri Lanka: BPS, 1993), tr. 238.

6. Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý, tập 1 (Hà Nội: Nxb Tôn giáo, 2009), tr. 430, 431

7. Sđd, tr. 432.

8. Sđd.

9. Sđd, tr. 433-434.

10. HT. Viên Minh, Sách học Kinh Tụng Pali (Chùa Huyền Không ấn hành), tr. 52.

11. Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn Lý, tập 1 (Hà Nội: Nxb Tôn giáo, 2009), tr. 429.

12. Sđd, tr. 434.

13. Sđd, tr. 430-431.

14. HT. Thích Minh Châu dịch, Trung Bộ Kinh (Viện Nghiên Ccứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1992), tr. 129.

15. Mac Anderson, Điều kỳ diệu của thái độ sống (Nxb TP. Hồ Chí Minh, 2013), tr. 6.

16. Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn Lý, tập 1 (Hà Nội: Nxb Tôn giáo, 2009), tr. 436

17. Sđd, tr. 447.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 10
    • Số lượt truy cập : 6112214