Thông tin

GIẢI THÍCH SƠ LƯỢC BÁT NHÃ TÂM KINH

GIẢI THÍCH SƠ LƯỢC BÁT NHÃ TÂM KINH(1)

 

Đời Đường, Sa môn Pháp Tạng thuật

(theo bản Tâm Kinh của Ngài Huyền Trang)

MINH NGỌC dịch.

 

Phàm là nguồn chân thì mộc mạc thuần khiết, rỗng lặng cách biệt mọi giới hạn giỏ nơm, Diệu giác đạo huyền thì sâu rộng cao xa vượt lên trên ngữ ngôn hình tượng. Mặc dù Chân-Tục đều mất nhưng Nhị đế thường còn; Không-Có cùng bỏ mà một vị thường hiển lộ.

Bởi lẽ Chân Không thì chưa từng chẳng có, tức ngay nơi Có mà biện luận về Không; Huyễn Có thì chưa hề chẳng không, tức ngay nơi Không để làm sáng tỏ ở Có. Vì Có mà là Có trống rỗng nên là chẳng có; vì Không mà là có cái Không nên là chẳng không; Không của chẳng không nên tuy là Không mà chẳng phải đoạn diệt Không; Có của chẳng có nên tuy là Có mà chẳng phải thường hằng Có. Bốn thứ chấp đã diệt, trăm điều sai nhân đây cũng hết. Phải chăng là ý chỉ huyền diệu của Bát-Nhã Tâm Kinh đó ư!

Nếu tỏ bày đủ theo sự tướng, thì ngôn từ Bát-Nhã phải hơn  hai mươi ngàn (20.000) bài tụng; còn nếu nắm lấy nghĩa chính yếu, theo lý chỉ 114 hàng  (theo văn bản chữ Hán) đã là trọn đủ. Thế mới biết, tuyên bày Chân mà giáo thuyết tùy duyên có rộng có lược; vượt lên ngôn từ mà tông tánh viên mãn thông suốt đều bày.

Thật tình mà nói, Bát-Nhã Tâm Kinh quả là ngọn đèn trên cao soi sáng giữa giao lộ tối tăm, là chiếc thuyền tiến nhanh cứu vớt sinh linh trên biển khổ, đến bờ Giác, chẳng có pháp nào tốt hơn Tâm Kinh này. Thế thì, Bát-Nhã lấy thần trí soi xét làm thể, còn Ba-la-mật-đa lấy đi đến bờ Giác (đáo bỉ ngạn) làm công. Chữ Tâm là muốn chỉ rõ nơi mọi chính yếu, vi diệu quay về, chữ Kinh có nghĩa là xâu, kết lại những lời Phật dạy. Từ nơi Pháp đến Thí dụ mà đặt tên. Cho nên gọi là Bát-Nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh.

Giải thích Kinh này thông qua năm phần:


I/ Nguyên do phát khởi giáo thuyết Bát-Nhã: Theo Luận Đại Trí Độ nói: “Chẳng phải không có nhân duyên, chẳng phải một ít nhân duyên mà có thể làm cho núi Tu Di chấn động được”. Cũng vậy, giáo thuyết Bát-Nhã gồm nhiều nhân duyên lớn mới được Phật phát khởi ra:

1. Phật muốn phá các tà kiến của ngoại đạo

2. Muốn hàng Nhị thừa hồi tâm chuyển hướng vào Đại thừa.

3. Khiến hàng tiểu Bồ tát không mê đắm ở Không.

4. Khiến cho các Bồ tát sanh chánh kiến ngộ trung đạo của Nhị đế.

5. Làm rõ công đức thù thắng của Phật khiến chúng đệ tử sanh lòng tin thanh tịnh.

6. Muốn chúng đệ tử phát tâm Bồ-đề rộng lớn.

7. Muốn chúng đệ tử tu theo hạnh rộng sâu của Bồ tát.

8. Muốn chúng đệ tử đoạn hết các chướng nặng.

9. Muốn chúng đệ tử đắc đạo quả Niết-bàn.

10. Lưu hành đến đời sau làm lợi ích khắp chúng sanh.

II/ Bát-Nhã này thuộc tạng nào: Thuộc tạng Bồ tát, thuộc về Thật giáo.

III/ Tông (gốc) và Thú (mục tiêu hướng đến): Mọi diễn đạt của ngôn ngữ gọi là Tông; chổ Tông quay về gọi là Thú. Gồm hai phần:

1. Tổng: Lấy ba loại Bát-Nhã làm Tông:

a/- Thật tướng Bát-Nhã: Chân tánh được quán chiếu (sở quán).

b/- Quán chiếu Bát-Nhã: Trí tuệ vi diệu (năng quán).

c/- Văn tự Bát-Nhã: Tuyên bày diễn đạt những giáo lý nêu trên (a,b).

2. Biệt: Cũng có ba loại:

a/- Một cặp Giáo-Nghĩa: Lấy giáo thuyết văn tự làm Tông, nghĩa Thật tướng, Quán chiếu làm Thú.

b/- Một cặp Cảnh-Trí: Lấy cảnh Chân Không làm Tông, trí quán chiếu làm Thú.

c/- Một cặp Nhân-Quả: Lấy hành nhân Bồ-đề làm Tông, đức quả Bồ-đề làm Thú.

IV/ Giải thích đề Kinh:Có ba phần:

1. Phân ra Giáo-Nghĩa: Bát-Nhã Ba-la-mật-đa Tâm là Nghĩa sở thuyên (cái được giải thích), chữ Kinh là Giáo năng thuyên. Tức là Kinh Bát-Nhã dựa vào nghĩa mà đặt tên.

2. Phân ra Pháp-Dụ: Bát-Nhã Ba-la-mật-đa là Pháp, chữ Tâm là Thí dụ. Tức là bên trong Bát-Nhã này nắm lấy hết những diệu nghĩa chính yếu, ví như quả tim là tạng phủ chính, căn bản thống lãnh hết cơ quan con người.

3. Phân ra Thể-Dụng: Bát-Nhã là Thể, Trung Hoa dịch là Trí tuệ, tức là thần trí tỏ ngộ lẽ huyền diệu, sâu rộng chứng nhập nguồn Chân. Ba-la-mật-đa là Dụng, Trung Hoa dịch là Đáo bỉ ngạn, nghĩa là nhờ có trí tuệ vi diệu này có thể vượt dòng sanh tử trọn vẹn, đến bờ Chân Không, cũng chính là buông bỏ thứ trí tuệ không dẫn đến bờ Giác ngộ.

Vì Thể tức là Dụng, vì là Dụ của Pháp, vì là Giáo của Nghĩa nên đặt tên là Bát-Nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh.

V/ Giải thích văn Kinh: Chia làm hai phần: Một là từ câu:Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát-Nhã” đến…“chân thật bất hư” gọi là phần Bát-Nhã Hiển giáo; hai là từ: “Cố thuyết Bát-Nhã Ba-la-mật-đa chú” đến “tát bà ha” gọi là phần Bát-Nhã Bí mật. Vì đây là Tâm Kinh nên không có phần Tựa và Lưu thông. Tại sao lại chia làm hai phần Bát-Nhã? Vì dùng Hiển giáo nói khiến sanh trí tuệ hiểu biết, diệt trừ phiền não chướng; còn Bí mật nói chú khiến cho tụng, đọc sanh phước diệt trừ tội nghiệp chướng. Do diệt hai chướng này, thành tựu hai nghiêm: Phước Tuệ , cho nên chia hai.

PHẦN MỘT: Lại chia làm hai:

A- “Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm… độ nhất thiết khổ ách”: Nêu sơ lược cương yếu của Kinh. Gồm 4 đoạn nhỏ:

1- Quán Tự Tại Bồ tát là năng quán, người có khả năng quán sát thấu suốt tự tại cảnh sự và lý một cách vô ngại, đây là giải thích theo Trí. Người có khả năng quán sát khắp căn cơ của chúng sinh, đến để cứu giúp một cách tự tại vô ngại, đây là giải thích theo Bi.

Chữ “Bồ” là Bồ-đề, Trung Hoa dịch là Giác; chữ “Tát” là Tát-đỏa, Trung Hoa dịch là Chúng sanh. Nghĩa là chúng sanh này dùng Trí hướng lên trên cầu quả vị Bồ-đề; dùng Bi hướng xuống dưới cứu độ chúng sanh. Đây là từ cảnh mà đặt tên Bồ-tát.

2-  Hành thâm Bát-Nhã Ba-la-mật-đa thời:  Nói hạnh của Bồ-tát đã thực hành. Diệu hạnh Bát-Nhã có hai loại: a) Cạn: Bát-Nhã Nhân (người) không. b) Sâu: Bát-Nhã Pháp không. Ở đây nói loại sâu (thâm).

Chữ “Thời” nghĩa là lúc, có khi… Khi Bồ-tát này quán về người thì cũng giống như khi hàng Thanh văn nhập quán Nhân (người) không. Cho nên Kinh Pháp Hoa nói: “…nên dùng thân Thanh văn để độ, thì Bồ-tát liền hiện thân Thanh văn…”. Nay nói không phải vậy mà là “lúc hành sâu Bát-Nhã Ba-la-mật-đa”.

3- Chiếu kiến ngũ uẩn giai không:  Nói cảnh của Bồ-tát thực hành quán sát. Thấy thấu suốt tự tánh của năm uẩn đều không, tức Bồ-tát dùng trí tuệ nhìn sâu thấy Pháp và Người đều là không.

4- Độ nhất thiết khổ ách: Nói lợi ích. Nhờ chứng thấy Chân Không nên khổ não từ đây dứt hết, rồi sẽ được rời xa hai thứ sanh tử: Phân đoạn và Biến dịch, chứng quả Bồ-đề Niết-bàn rốt ráo an vui.

B- Từ “ Xá-lợi tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc” cho đến… “cố tức thuyết chú viết”: Trình bày rộng nghĩa thật, gồm 5 đoạn:

1- “Xá-lợi tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng, hành, thức diệc phục như thị”: Rủ bỏ các mối nghi, gồm có 4 giải thích:

a) Chính bỏ mối nghi của Tiểu thừa: Xá-lợi tử là Xá-lợi-phất, tên của người nghi. Chữ “Xá-lợi” là tên của một loài chim, Trung Hoa dịch là Thu Lộ. Vì mẹ của ngài thông minh lanh lợi, mắt đẹp như mắt loài chim kia. Chữ “Tử” là con. Ngài theo họ mẹ nên gọi là Xá-lợi tử, hay Thu (Thu Lộ) tử, là vị đại đệ tử Phật có trí tuệ thông minh bậc nhất, đứng đầu trong chúng. Cho nên đối ngài mà Phật giải thích nghi.

-Xá-lợi tử nghi: “ Mình trong địa vị Tiểu thừa Hữu dư, đã thấy năm uẩn là không có người (Nhân không), cũng nói Pháp không rồi, có khác gì đây nói “Sắc chẳng khác không” đâu?

-Nay giải nghi: Tôn chỉ của ông là thấy trong uẩn không có người (Nhân không) mới gọi là uẩn không, đó tức là uẩn khác với không, nhưng không phải uẩn tự nó là không. Còn đây nói tự tánh của các uẩn vốn là không, nên có khác. Vì thế nói là “sắc chẳng khác không”.

-Xá-lợi tử lại nghi: “Mình trong Tiểu thừa đã bước vào địa vị Vô dư, thân và trí đều trọn vẹn chấm dứt, cũng là không và không có sắc bằng nhau, khác gì đây nói: “sắc tức là không” đâu?

-Nay giải nghi: Tôn chỉ của ông là ngay nơi sắc vốn chẳng phải không, phải diệt hết sắc mới thành không. Còn đây nói ngay nơi sắc vốn đã là không, chẳng phải diệt hết sắc mới không, nên có khác. Vì thế nói: “sắc tức là không” hàng Nhị thừa không ngoài hai mối nghi này.

b)  Kiêm bỏ mối nghi của Bồ-tát: Theo Luận Bảo Tánh nói: Bồ-tát bị Không làm loạn tâm ý, phát sinh ba mối nghi:

-Một, nghi Không khác với Sắc, nên chấp có cái Không ở ngoài Sắc. Nay nói: “Sắc chẳng khác không” để dứt nghi này.

-Hai, nghi Không là diệt hết Sắc, nên chấp có cái Không đoạn diệt. Nay nói: “Sắc tức là không” chứ không phải sắc diệt hết mới thành không, để dứt nghi này.

-Ba, nghi Không là một vật thể bèn chấp nó là có. Nay nói: “Không tức là sắc” chứ không thể lấy Không mà nắm lấy một vật Không nào, để dứt nghi này.

Ba nghi đã hết thì Chân Không tự hiển hiện.

c) Làm rõ nghĩa chính: Nhưng sắc và không so sánh nhau, có ba nghĩa:

-Một, nghĩa trái nhau: Như văn Kinh nói: “Thị cố không trung vô sắc” (Vì thế trong Không không có Sắc) Bởi lẽ, Không thì tổn hại Sắc. Theo đây tương ứng nói: “trong Sắc không có Không”, vì Sắc thì trái ngược Không. Nếu chúng cùng tồn tại thì ắt cùng mất hết.

-Hai, nghĩa không trở ngại nhau: Vì Sắc là Huyễn sắc (Sắc giả tạm) nên ắt không trở ngại Không; vì Không tức là Chân Không nên ắt không trở ngại Huyễn sắc. Nếu trở ngại đến sắc thì đó là cái Không đoạn diệt, chẳng phải Chân Không, nếu có trở ngại đến Không thì đó là sắc thật chứ không phải Huyễn sắc.

-Ba, nghĩa tương tác: Nếu thể của Huyễn sắc này chẳng phải Không, thì không thành Huyễn sắc. Thế nên, do Sắc tức là Không, mới được có sắc. Kinh Đại Phẩm nói:” Nếu các pháp chẳng không, thì tức là không có đạo, không có quả…”. Trung Luận nói: “Vì có nghĩa Không, nên tất cả pháp được thành”. Suy từ đây, nghĩa Chân Không nên biết. Vì thế, Chân Không thông suốt 4 nghĩa:

* Phế bỏ mình, thành tựu người: Bởi Không tức là Sắc nên Sắc hiển hiện, thì Không tàng ẩn.

* Mất người mà hiển lộ mình: Bởi Sắc tức là Không, nên Sắc mất hết thì Không hiển hiện.

* Mình và người đều cùng tồn tại: Vì hiển hiện và tàng ẩn vốn không là hai thứ, chính là Chân Không. Nghĩa là Sắc chẳng khác Không tức là Huyễn sắc, thì Sắc tồn tại; Không chẳng khác Sắc gọi là Chân Không thì Không hiển hiện. Chúng không trở ngại nhau mà đều cùng tồn tại.

* Mình và người đều mất hết: Vì nêu ra Thể vốn là lẫn nhau (tương tức) thì cái này hoàn toàn đoạt cái kia, cái kia hoàn toàn đoạt cái này, cả hai đều mất hết, đoạn tuyệt hẳn hai bên (Nhị biên) không còn.

Sắc so với Không cũng có 4 nghĩa như vừa nêu. Vậy thì, Huyễn sắc còn, mất vô ngại, Chân Không hiện, ẩn tự tại, kết hợp làm một vị không khác. Đó chính là Pháp Bát-Nhã Ba-la-mật-đa.

d) Giải thích theo hạnh Quán, có ba thứ:

* Quán Sắc tức là Không, để thành tựu hạnh Chỉ; quán Không tức là Sắc để thành tựu hạnh Quán; quán Không và Sắc là không hai, chỉ một niệm tức khắc hiện ra, nghĩa là Chỉ và Quán đều cùng lúc thực hành mới là cứu cánh.

* Thấy Sắc tức là Không, để thành tựu đại trí mà không trụ ở sanh tử; thấy Không tức là Sắc, để thành tựu đại bi mà không trụ ở Niết-bàn; thấy cảnh Sắc Không chẳng là hai, Bi Trí nghĩ đến không khác mà thành, không có trụ xứ mà hành.

* Trí Giả Đại sư dựa theo Kinh Anh Lạc lập ra nghĩa nhất tâm ba quán: Một là quán từ Giả vào Không, nghĩa là Sắc tức là Không; hai là quán từ Không vào Giả, nghĩa là Không tức là Sắc; ba là quán Không-Giả bình đẳng, nghĩa là Sắc Không không có khác nhau.

2-   “Thị chư pháp không tướng” đến “bất tăng bất giảm”: Nêu rõ thể của pháp. Có hai phần:

a) Tổng: “ Chư pháp” tức là uẩn v.v... Tướng trạng của Không gọi là Không tướng. Luận Biện Trung Biên nói: “Không có hai, có không hai, không có hai thứ này gọi là Không tướng. Nói không có hai tức là không có cái Có năng thủ, sở thủ; nói có không hai tức là có cái Không năng thủ, sở thủ; hai thứ nảy chẳng hai (Bất nhị) gọi là Không tướng”.

b) Biệt: “Bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm” gồm ba cặp sáu thứ Bất (chẳng), có ba giải thích:

-Thứ nhất, giải thích theo địa vị: Bất sanh bất diệt, đối với địa vị phàm phu, chưa kiến đạo còn chết đây, tái sanh kia, lưu chuyển nhiều kiếp, gọi là địa vị sanh diệt. Chân Không đã thoát lìa sanh diệt, gọi là bất sanh bất diệt.

Bất cấu bất tịnh: Các vị Bồ-tát trong khi tu đạo chướng nhiễm chưa hết, đồng lúc ấy tịnh hạnh cũng đã tu tập, gọi là địa vị cấu tịnh. Chân Không thì đã thoát lìa cấu tịnh này, gọi là bất cấu bất tịnh.

Bất tăng bất giảm: Trong các quả vị Phật, sau khi chứng đạo, thì hoặc chướng xưa kia chưa hết, mà nay dứt hết tức là có giảm; tu vạn hạnh công đức xưa kia chưa mãn, mà nay viên mãn tức là có tăng. Chân Không thì thoát lìa tăng giảm này, gọi là bất tăng bất giảm.

Trong Luận Phật Tánh, nói có ba loại Phật tánh: (1) Trước kiến đạo gọi là Phật tánh còn trụ ở tự tánh. (2) Trong khi tu đạo gọi là Phật tánh dẫn xuất ra. (3) Sau chứng đạo gọi là Phật tánh đến chổ đắc quả. Phật tánh chỉ có một, nhưng xét theo địa vị thì phân ba. Nay Chân Không vốn không có khác mà theo địa vị phân ra khác.

Trong Luận Pháp Giới Sai Biệt thì nói loại đầu là vị nhiễm, loại hai là vị nhiễm tịnh, loại ba là vị thuần tịnh, cũng giống như Luận trên nói.

-Thứ hai, giải thích theo pháp: Chân Không này mặc dù tức là sắc… nhưng sắc theo duyên mà sanh khởi, còn Chân Không thì chẳng sanh; sắc theo duyên mà tàn diệt, còn Chân Không thì chẳng diệt, hơn nữa Chân Không trôi theo dòng sanh tử mà chẳng nhiễm (bất cấu), ra khỏi chướng ngại mà chẳng tịnh (bất tịnh), chướng diệt hết mà chẳng phải giảm (bất giảm), đức viên mãn mà chẳng phải tăng (bất tăng). Mọi sanh diệt… là tướng của pháp hữu vi, trái ngược đây để làm rõ tướng Chân Không. Cho nên nói là Không tướng.

-Thứ ba, giải thích theo hạnh Quán: Đối ba tánh mà lập quán ba Vô tánh. (1) Ở Biến kế sở chấp tánh lập quán Vô tướng. Nghĩa là các uẩn…kia vốn do biến kế mà chấp tức là không thì không có thể sanh diệt. (2) Ở Y tha tánh lập quán Vô sanh. Nghĩa là dựa vào các pháp khác mà nhiễm tịnh tùy duyên sanh, chứ không có tự tánh sanh. (3) Ở Viên Thành thật tánh lập quán Vô tánh. Nghĩa là hai tánh trước đã chẳng có mà chẳng phải giảm, nay trí quán chiếu hiển hiện mà chẳng là tăng. Lại ở tại triền (phiền não ràng buộc), vượt ra chướng ngại mà tánh không có tăng giảm; pháp hư vọng mà không có sanh diệt; duyên khởi mà chẳng phải nhiễm tịnh, Chân Không thì chẳng có tăng giảm. Đem ba thứ Vô tánh này để làm rõ Không tướng.

3- “Thị cố không trung vô sắc” đến “…vô trí diệc vô đắc”: Nêu đối tượng được lìa của Chân Không, trải theo pháp thì có nhiều cách, nhưng tóm lược có 4:

a) Pháp tướng khai hợp: thị cố không trung (cho nên trong Không) là nói Chân Không bất sanh, bất diệt… ở trên. Vô sắc… là trong Không không có các pháp năm uẩn… Đây là căn cứ nghĩa trái nhau (trước đã nói) mà nói là không có sắc,… Thật ra, theo lý thì Chân Không không làm hoại sắc, vì tự tánh vốn không, chẳng đợi sắc hoại mới thành không. Vô thọ, tưởng, hành, thức theo nghĩa vô sắc tự hiểu. Trong đây nói năm uẩn, thì một uẩn sắc, bốn uẩn kia là tâm.

“vô nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp”: Chân Không không có 12 xứ, tức hợp tâm làm một xứ rưỡi gồm một phần ý xứ và nửa phần pháp xứ, cộng với mười xứ rưỡi thuộc sắc gồm 5 căn, 5 cảnh và nửa phần pháp xứ.

“vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới” tức nói 18 giới, giải thích tương tự như 12 xứ. Về uẩn, xứ, giới có nói rất đầy đủ trong các Luận Đối pháp…

b) Duyên khởi nghịch thuận: “vô vô minh, diệc vô vô minh tận nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận”: Không có vô minh là quán thuận vô minh lưu chuyển đi, bởi tánh nó không nên nói không có vô minh. Cũng không có cái vô minh tận (hết) là quán nghịch vô minh diệt lui trở lại, vì là Chân Không nên không có thể tận. Đây nêu chi đầu làm chuẩn, 11 chi còn lại giải thích y cứ theo đây.

c) Nhiễm tịnh nhân quả: “vô khổ, tập, diệt, đạo”: Khổ, Tập là nhân quả thế gian. Khổ là quả báo sanh tử, nêu ra trước để sinh lòng chán ghét; Tập là nhân sanh tử, tức phiền não nghiệp. Chán Khổ đoạn Tập là trước quả, sau nhân. Diệt, Đạo là nhân quả xuất thế gian. Diệt là quả Niết-bàn nêu trước khiến ham thích, Đạo là nhân đưa đến Niết bàn, tức Bát chánh đạo. Tu theo đây cho đến rốt sau đều là rổng không không và có.

d) Cảnh trí năng sở: “vô trí diệc vô đắc” không những trong Không không có các pháp nêu trên mà cái trí biết Không kia (năng trí) cũng không thể đắc được. Cho nên nói “vô trí”; và ngay nơi cái lý Không được biết này (sở trí) cũng không thể có được. Cho nên nói là “vô đắc”.

Hỏi: Ở trước nói: Không tức là sắc… nói sắc… chẳng mất, vì sao đoạn kinh đây nói tất cả đều không có (bất khả đắc)? Há chẳng phải Không này là diệt sắc ư?

Đáp: Trước nói tuy chẳng trở ngại tồn tại nhưng chưa từng nói chẳng tận, nay đây nói tất cả đều không nhưng chưa từng nói chẳng lập. Cho nên Kinh Đại Phẩm nói: “Các pháp vốn không có gì có cả (vô sở hữu)”. Có như thế mà đây nói là không, bởi đây căn cứ nghĩa “không có gì có cả”, theo nghĩa tương hại; còn trước thì căn cứ ở nghĩa “có như thế”, theo nghĩa tương tác. Một pháp hai nghĩa tùy chổ nói không mâu thuẫn nhau.

4- “dĩ vô sở đắc cố” đến “tam-miệu tam-bồ-đề”: Nói về sở đắc. Có hai phần:

a) Chữ “dĩ” nghĩa là do, là nhờ, là nhân. Do “vô sở đắc” (không có gì đắc được cả) ở trước làm nhân khiến cho sau có sở đắc. Kinh Đại Phẩm nói: “Vì vô sở đắc cho nên mà lại có đắc”


b) “Bồ-đề tát-đỏa y Bát-Nhã Ba-la-mật-đa cố” : Lại chia làm hai phần nhỏ:

*Một, nói Bồ-tát đắc quả Đoạn Niết-bàn: Bồ-đề-tát-đỏa là nêu người (như trước có giải thích). Bát-Nhã Ba-la-mật-đa là Pháp. Nghĩa là vì Bồ-tát hành nương theo pháp Bát-Nhã Ba-la-mật-đa này nên…Đây là nêu trước để phát khởi sau.

“tâm vô quải ngại” là nói Bồ-tát đoạn chướng đắc quả. Tâm không còn trở ngại thì công hạnh thành tựu: Hoặc không trở ngại tâm mình, Cảnh không trở ngại trí mình

“vô quải ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng”, vì tâm không còn trở ngại nên không có sợ hãi, nghĩa là bên ngoài không bị ma oán làm cho sợ hãi, mọi ác duyên dứt hết; bên trong không bị Hoặc chướng làm cho đảo điên, ảo tưởng, mọi nhân ác mất sạch.

“cứu cánh Niết-bàn” là nói Bồ-tát đắc quả Niết-bàn. Chữ Niết-bàn, Trung Hoa dịch là Viên tịch. Đức viên mãn là Viên, chướng hết sạch là Tịch. Khác với Tiểu thừa là Hóa thành lập Quyền (phương tiện), nay là vĩnh viễn thường hằng gọi là cứu cánh; cũng giải thích là trí có thể rốt ráo đến tận cùng biên tế Niết-bàn gọi là cứu cánh.

*Hai, nói Bồ-tát đắc quả Trí Bồ-đề: “Tam thế chư Phật y Bát-Nhã Ba-la-mật-đa cố”. Ba đời chư Phật là nêu người. Không có pháp nào khác, chỉ nương theo một pháp Bát-Nhã Ba-la-mật-đa này.

“đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề” là nêu đắc quả. Chữ “A-nậu-đa-la”, Trung Hoa dịch là Vô thượng, “Tam miệu”, dịch là Chánh, “Tam-bồ-đề” dịch là Đẳng giác. Giác có hai nghĩa: Một là Chánh giác, tức Như lý trí, chánh quán Chân đế, hai là Như lượng trí, tức khắp quán Tục đế; đều đạt đến chổ rốt cùng không có giới hạn gọi là Vô thượng.

5- “Cố tri Bát-Nhã” đến “chân thật bất hư” là khen ngợi công năng thù thắng của Bát-Nhã Ba-la-mật-đa. Khen tóm lược bốn đức, nhưng có ba giải thích:

a) Giải thích theo pháp: Một, vì trừ chướng ngại thật sự không sai, nên gọi là Thần chú. Hai, vì trí sáng không mê muội nên gọi là Minh chú. Ba, vì không có gì vượt qua nó nên gọi là Vô thượng chú. Bốn, vì độc nhất không có gì sánh bằng nên gọi là Vô đẳng đẳng chú.

b) Giải thích theo công năng: Một, có thể phá phiền não. Hai, có thể phá vô minh. Ba, khiến cho Nhân hạnh viên mãn. Bốn, làm cho Quả đức viên mãn.

c) Giải thích theo địa vị: Một, vượt qua phàm phu. Hai, vượt qua Tiểu thừa. Ba, nhân siêu việt. Bốn, bằng ở quả. Nghĩa là bằng ở địa vị vô đẳng (không còn cấp bậc nào sánh bằng). Cho nên, nói là vô đẳng đẳng.


Luận Thập Địa nói Vô đẳng nghĩa là Phật so sánh với chúng sanh thì không thể bằng. Nói thêm chữ đẳng nữa là vì pháp thân của Phật và chúng sanh vốn bằng nhau. Cớ sao không nói Vô đẳng mà nói vô đẳng đẳng? Vì thị hiện Đẳng Chánh giác đó vậy.

“năng trừ nhất thiết khổ chân thật bất hư”: Câu này là tổng kết công năng thù thắng của Bát-Nhã Ba-la-mật-đa. Ba khổ, tám khổ, phân đoạn, biến dịch sanh tử là tất cả khổ. Vì chắc chắn diệt trừ hết mọi khổ, nên nói là chân thật chẳng sai.

PHẦN HAI: Từ “Cố thuyết Bát-Nhã” đến “tát-bà-ha” (hết kinh) là phần Bát-Nhã Bí mật. Vì trước nói là thần chú… nhưng chưa nói lời chú, nên nay sẽ nói ra.

Yết-đế… tát-bà-ha” có hai ý nghĩa. Một, không thể giải thích, vì là mật ngữ của chư Phật hiểu với nhau, không thể ở địa vị nhân tu hành có thể hiểu. Chỉ nên tụng, trì diệt trừ tội chướng, tăng trưởng phước báo, không cần miễn cưỡng giải thích. Hai, nếu gắng gượng giải thích thì chữ Yết đế Trung Hoa tạm dịch là đến, là qua, chỉ công năng trí tuệ thâm sâu. Yết-đế yết-đế: Đến rồi lại đến, qua rồi lại qua, nghĩa là mình đến và người đến (tự độ và độ tha) Ba-la yết-đế, thì chữ Ba-la nghĩa là bỉ ngạn (bờ bên kia sanh tử) nghĩa là đến chỗ cần đến. Ba-la tăng yết-đế, chữ tăng nghĩa là tổng, là khắp. Tức là mình và chúng sanh khắp tất cả đều qua bờ bên kia. Bờ bên kia là bờ gì? Đó là Bồ đề tức là giác ngộ. Qua như thế nào? Đó là tát bà ha, chữ tát-bà-ha nghĩa là nhanh chóng, tức khiến cho mọi công hạnh tu hành trước đây được nhanh chóng thành tựu vậy.

Giải thích tóm lược xong, dứt bút, chợt lòng đầy cảm xúc có lời tụng rằng:

Bát-Nhã tâm kinh nghĩa nhiệm mầu,

Nhiều đời sanh tử khó tìm cầu,

Nay xin giải thích và khen ngợi

Mong hiểu phần nào lý diệu sâu.


(1) Số 1712 Quyển 33 Đại Chính Tân Tu

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 14)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 349
    • Số lượt truy cập : 7079802