GIỚI THIỆU THIỀN LÝ TÀO ĐỘNG
QUA THUYẾT MINH CỦA ĐẠO NGUYÊN
TS. LÝ KIM HOA (NGUYÊN HỒNG)
Thiền tông là tông phái nắm vững Phật tâm, tự nhiên tự chủ, được gọi là Phật tâm tông, một tông phái dùng tâm truyền tâm, truyền riêng ngoài giáo, ấn chứng từ thầy qua trò. Yếu chỉ của thiền là không lập văn tự, lìa ngôn thuyết, diệt chỗ tâm hành, xuất phát từ câu nói của Đức Thế Tôn khi đưa cành hoa trong pháp hội Linh Sơn. Trong lúc cả pháp hội còn đang ngơ ngác thì chỉ một mình Ma-ha Ca-diếp động dung mỉm cười. Thế Tôn nói: “Ta có pháp môn vi diệu là chính pháp nhãn tạng Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, không lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo. Nay trao pháp môn này cho Ma-ha Ca-diếp” (Kinh Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi). Ma-ha Ca-diếp trở thành sơ tổ, tương thừa đến Bồ-đề Đạt-ma thì thiền pháp được truyền sang Đông thổ. Đến đời tổ Huệ Năng sau đó nhất hoa khai ngũ diệp phân thành Tào Động, Lâm Tế, Vân Môn, Qui Ngưỡng và Pháp Nhãn, năm chi phái thiền được gọi là Ngũ gia.
Tào Động tông là thiền phái từ Lục Tổ Huệ Năng truyền xuống đệ tử Hành Tư → Hi Thiên → Dược Sơn → Vân Nham → Lương Giới → Bản Tịch. Nhánh thiền do hai thầy trò Lương Giới (807-869) ở Động Sơn và Bản Tịch (840-901) ở Tào Sơn gọi là thiền Tào Động. Trước có tên Động Tào, sau gọi là Tào Động. Người ta nói Động là gọi tắt của Động Sơn, nơi hoằng dương thiền pháp của thầy, Tào là gọi tắt của Tào Sơn, nơi hoằng dương thiền pháp của trò, nên có tên Động Tào nhưng sau do âm vận không thuận được đổi là Tào Động. Nhưng cũng có thuyết nói chữ Tào lấy từ nguồn gốc tổ Tào Khê Huệ Năng.
Uyên nguyên của tư tưởng thiền Tào Động có thể ngược lên đến Thạch Đầu Hi Thiên. Đó là kiến giải gọi là “tức sự nhi chân” 即事而真. Nghĩa là từ trên cá biệt là sự mà hiển hiện ra cái toàn thể là lý tức là chân. Tư tưởng này chỉ đạo mọi thực tiễn tu hành. Hi Thiên do đọc một câu trong Triệu Luận: “Hội vạn vật vi kỷ giả, kỳ duy thánh nhân hồ.” 會萬物爲己者其惟聖人乎 mà thấu triệt viết thành tác phẩm Tham Đồng Khế參同契 thuyết minh lý sự đồng tham hợp, mỗi cửa ngõ vào đều có tất cả cảnh giới trong đó. Do đó thấy rằng tất cả sự tướng tự nó có thể chuyển đổi hoàn toàn không trở ngại, mà hành vi con người có thể theo duyên mà được giải thoát hay bị trầm luân. Hi Thiên truyền Dược Sơn Duy Nghiễm, Duy Nghiễm truyền Vân Nham Đàm Thịnh. Đàm Thịnh lại đề xuất pháp môn Bảo kính Tam-muội, ý nói con người xem muôn tượng giống như soi mặt trước một tấm gương báu. Bóng ở trong gương chính là hình ở ngoại cảnh hiển hiện. Từ đó thuyết minh rằng: Do trên sự tướng có thể hiển xuất cảnh giới của lý thể. Về sau các tư tưởng như Ngũ vị công huân, thiên chính hồi hỗ 五位功勳,偏正回互 đều phát xuất từ đây. Đó là yếu chỉ mật truyền của Tào Động tông.
Tào Động tông nói ngũ vị có 4 thứ: chính thiên, công huân, quân thần, vương tử. Trong đó Chính thiên ngũ vị và Công huân ngũ vị là do Lương Giới sáng thuyết. Theo Bản Tịch giải thích thì: Chính là thể, là không, là lý. Thiên là dụng, là sắc, là sự. Chính trung thiên là bối lý tựu sự, tùng thể khởi dụng. Thiên trung chính là xả sự nhập lý, nhiếp dụng quy thể. Kiêm là chính thiên kiêm đới, sự lý hỗn dung, nội ngoại hòa hợp, phi nhiễm phi tịnh, phi chính phi thiên. Công huân ngũ vị là năm vị : hướng, phụng, công, cộng công và công công, do tổ Lương Giới phân chia năm giai đoạn tu hành để phán đoán chỗ cạn sâu của tu chứng.
Thiền lý Tào Động được Đạo Nguyên làm tỏa sáng. Theo Đạo Nguyên triển khai thì Phật không phải một khái niệm, một ý tưởng, một hữu thể nào khác, mà cứu cánh Phật là ở nơi con người. Con người là vô cùng tôn nghiêm. Con người là Phật. Ngoài con người không có tính Phật. Con người và Phật tính thống nhất, tuyệt dứt ý niệm nhị nguyên. Đó là tư tưởng nhất thừa tuyệt đối bình đẳng, không phân biệt, là phổ biến và luôn luôn tồn tại. Câu nói trong Kinh Niết-bàn “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính” được Đạo Nguyên nói lại là “Nhất thiết chúng sinh tất hữu Phật tính”. Cái Phật tính tất hữu ấy tồn tại trong tất cả chúng sinh như ngọc trong đá, như hạt gạo trắng nằm trong vỏ trấu, như kho tàng chôn giấu trong nhà người nghèo, như tượng vàng gói trong vải rách, như người con gái nghèo mang thai một Chuyển luân thánh vương. Cho nên tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật.
Tác dụng Phật tính của con người liễu đạt không ra ngoài bách ban vạn sự trong cuộc sống hằng ngày. Phật và người không hai, Đạo Nguyên nói “Tức tâm thị Phật”. Cái tâm Đạo Nguyên nói đây không phải cái tâm ý thức của nhà Tâm lý học mà tức tâm thị Phật là phát tâm tu hành Bồ-đề Niết-bàn của chư Phật. Chưa phát tâm tu hành Bồ-đề Niết-bàn là không thể nói tức tâm thị Phật[1]. Theo Đạo Nguyên, chúng sinh và Phật, thế giới nhân gian và Phật quốc, mê và ngộ, tội và phúc, động và tĩnh, sống và chết là một quan hệ tương tức. Chỉ thấy tính khi giải quyết được cái tương tức này. Kiến tính liễu đạt là khi nhìn nhận thấu triệt cái mặt mũi nguyên xưa (bản lai diện mục). Bấy giờ sẽ như một nhát dao hạ xuống chặt đứt vạn triệu mối tơ. Thấy tính thành Phật có thể nói cách khác là hoàn thành cái đạo trình tiến hóa của sự tu tập.
Quan niệm về con người theo thiền tông nói chung, theo Tào Động nói riêng và được phát huy bởi Đạo Nguyên qua tư tưởng Bản chứng. Nhưng trong khi chưa thấy tính thì trong quá trình công phu tu tập để liễu đạt Phật tính phải Diệu tu (Biện Đạo Thoại). Cho nên việc trì trai giữ giới niệm Phật tụng kinh không phải không cần thiết. Nói tu thiền hoàn toàn không cần giới hạnh là sai lầm. Với Thiền tông, giới làm cơ sở cho muôn hạnh lành và hết sức được coi trọng. Bồ-tát phải kiên trì 3 tụ tịnh giới và thực hành 6 Ba-la-mật. Với Tào Động và đặc biệt đến Đạo Nguyên thì việc hành trì vô cùng nghiêm mật. Trong Hưng Thiền Hộ Quốc, cũng như Thiền Uyển Thanh Quy đều có dẫn và nhấn mạnh các câu trong Luật Tăng-kì như : “Phật ngôn: Chư Phật bất kết giới, kỳ chính pháp bất cửu trụ.”
Về câu nói của Thích Tôn khi truyền pháp môn vi diệu cho Ma-ha Ca-diếp thì “không lập văn tự truyền riêng ngoài giáo” là yếu chỉ của thiền được xuyên suốt trong quá trình hình thành và phát triển của Thiền tông. Đạo Nguyên đã cho ta một cách giải thích vô cùng tuyệt mỹ từ trước chưa từng gặp. Nếu theo cách giải thích thông thường là nói không dùng văn tự ngôn ngữ không dùng kinh giáo. Thế sao chư tổ Thiền tông đã lưu lại hậu thế bao nhiêu ngữ lục, không dùng kinh giáo sao Đạt-ma sư tổ sang Đông thổ đã mang theo Kinh Lăng-già và tư tưởng Lăng-già đã theo suốt con đường truyền cho đến ngũ tổ lại chuyển sang tư tưởng Kim Cương Bát-nhã? Đạo Nguyên đã diễn tư tưởng này như sau[2]: Tu tri Phật pháp đáo tâm không. Bất thị ngữ ngôn thuyết khả cùng. Kiến sắc văn thanh câu thoát lạc. Đông Tây Nam Bắc tự lưu thông. Bất lập là không lập. Hai chữ này thường được hiểu về mặt ngữ pháp như một phủ định thể của động từ hành động. Đạo Nguyên đã diễn dịch ra mặt khác bao la hơn, hàm tàng hơn khi hai chữ bất lập đóng vai một hình dung từ. Bất lập văn tự là một thứ văn tự bất lập. Theo đó thì Thiền học không hoàn toàn phủ nhận văn tự. Thiền học đọc diệu nghĩa của thế giới hiện tượng mà thấy được thế giới chân như. Đọc diệu nghĩa của thế giới hiện tượng bằng thứ văn tự bất lập đó. Đó là văn tự lớn của vũ trụ, bao gồm văn tự thắng nghĩa đế và văn tự thế tục đế, là văn tự của thiên thượng, của nhân gian, của súc sinh, A-tu-la, của trăm cỏ ngàn cây. Cho nên nói tận thập phương sum sê la liệt dài ngắn vuông tròn xanh vàng đỏ trắng, tất cả là văn tự của kinh quyển. Lấy đó mà điều đạc đại đạo tức là kinh quyển của Thiền học. Ở thiền, khái niệm bị bác bỏ. Bác bỏ không phải chỉ có bác bỏ mà thông qua cái phủ định này vượt lên một khẳng định. Nên bất lập văn tự là tất cả văn tự.
Nếu trong cái phủ định mà không thấy được cái khẳng định, tức chưa hiện thành cái thế giới linh diệu của thiền, vượt lên sinh thành cái thế giới tự do vô ngại. Nên cũng bằng cách đó, “ngôn ngữ đạo đoạn” là tất cả ngôn ngữ, là thế giới chân thật của cảnh địa tuyệt đối bất lập tức lập[3]. Tô Đông Pha có bài kệ ngộ đạo như sau: Khê thanh tiện thị quảng trường thiệt. Sơn sắc vô phi thanh tịnh tâm. Dạ lai bát vạn tứ thiên kệ. Tha nhật tương hà cử tự nhân?
Đặc biệt thiền pháp Chỉ quản đả tọa của Đạo Nguyên, nghe qua tưởng như có điểm hoài nghi, như khi Xá-lợi-phất tĩnh tọa trong rừng bị Duy-ma quở trách. Hay trong phẩm Định tuệ Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng răn dạy đệ tử: “Lại có người dạy ngồi để quán tâm quán tĩnh, không động thân không khởi niệm để từ đó tạo công lực. Người mê không hiểu trở lại chấp cái ngồi mà thành khùng thành điên.”( Kinh Pháp Bảo Đàn, Nguyên Hồng dịch) Huệ Năng nói kệ: Khi sống ngồi không nằm. Thác rồi nằm không ngồi. Gốc thiệt đầu xương thúi. Làm sao lập công tội? (Phẩm Đốn tiệm, Kinh Pháp Bảo Đàn, Nguyên Hồng dịch). Việc hành thiền vốn trong 4 oai nghi đi đứng ngồi nằm đều có thể hành thiền. Tuy nhiên trong 4 tư thế đó, ngồi là tư thế thích hợp nhất. Cho nên Đạo Nguyên chọn tư thế ngồi để dạy đệ tử. Chỉ quản đả tọa là pháp tọa thiền Đạo Nguyên đã tiếp nhận và triển khai từ Thiền Mặc chiếu của thiền sư Trí Hoằng Chính Giác thời Nam Tống. Đó là buông bỏ tất cả chẳng quản việc gì khác, tọa thiền trên lập trường vô sở đắc vô sở ngộ. Người ngồi thiền phải thân tâm thoát lạc[4], do công phu sẽ được hồi quang phản chiếu, quán sát tự kỷ buông bỏ tất cả các duyên, trường kỳ như vậy tự nhiên có thể đạt tới cảnh địa thân tâm thoát lạc, bản lai diện mục hiện tiền (Học Đạo Dụng Tâm Tập). Đây là chỗ giác ngộ của Đạo Nguyên sở đắc từ thầy mình là Thiên Đồng Như Tịnh. Chính Pháp Nhãn Tạng Q.72. ĐTK 32, 243 hạ viết:
先師古佛云:參禪者、身心脫落也。只管打坐始得、不要燒香、禮拜、念佛修懺、看經。[5].
Tóm lại thiền lý Tào Động qua các thuyết minh của Đạo Nguyên trên đây ta thấy được một sốđặc điểm như sau:
1. Tin một cách sâu sắc rằng tất cả mọi người sinh ra vốn đầy đủ tính Phật và có thể giác ngộ cái tính vốn có ấy. (Tất hữu Phật tính)
2. Do công phu tọa thiền ánh sáng trí tuệ của tính Phật sẽ chiếu phát. (Chỉ quản đả tọa – Thân tâm thoát lạc)
3. Hành giải tương ưng, thực tiễn và tri thức là một. (Bản chứng diệu tu)
4. Hành trì nghiêm mật là tôn chỉ, cụ thể hóa qua sinh hoạt hằng ngày. (Hành nãi chứng tại kỳ trung – Học Đạo Dụng Tâm Tập, tr.473).
[1] Tức Tâm Thị Phật, tr. 40.
[2] trong Vĩnh Bình Quảng Ký, tr. 1605.
[3] Vĩnh Bình Quảng Lục, q.10, tr.603.
[4] Chính Pháp Nhãn Tạng, q.72, ĐTK 32, tr.243 hạ.
[5] Chính Pháp Nhãn Tạng Q..72. ĐTK 32, 243 hạ
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết