Thông tin

HÒA THƯỢNG THÍCH PHÁP DÕNG (1915-1982)

 

 

Hòa thượng Thích Pháp Dõng, thế danh là Trần Quang Lực, ngài còn có tên gọi khác là Trần Quang Phải, sinh ngày 16 tháng 5 năm Ất Mão 1915, tại làng Hanh Phú, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định, nay là phường An Phú Đông, quận 12, TP. Hồ Chí Minh. Thân phụ của ngài là cụ ông Trần Quang Tú, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Hài. Ngài là người con thứ 6 trong gia đình có 7 anh, chị em (2 gái 5 trai).

Được sinh ra và lớn lên trong một gia đình trung lưu, mộ đạo thành kính. Thân phụ mất lúc ngài vừa 7 tuổi, được người mẹ và người cô pháp danh Diệu Thiện chăm sóc và nuôi dưỡng. Thuở nhỏ, ngài được đến trường làng học chữ Quốc ngữ, riêng chữ Hán, gia đình rước cụ đồ về nhà dạy thêm. Những khi Rằm vía Sóc vọng, ngài được mẫu thân và người cô ruột đưa đi bằng xe ngựa xa xôi hàng trăm cây số để đến chùa Thiên Thai - Bà Rịa, lễ Phật và cúng dường Tam bảo. Duyên lành chớm nở, ngài được Tổ Huệ Đăng dạy bảo và hướng thiện, nên sớm có ý nguyện mong được xuất gia tu học được hình thành trong tư tưởng.

Năm 19 tuổi (1934), mặc dù gia đình rất đơn chiếc do các anh chị lần lượt qua đời, chỉ còn mẹ già và 2 em trai kế, ngài đã xin phép mẫu thân được xuất gia đầu Phật với Tổ Huệ Đăng, trụ trì chùa Thiên Thai-Bà Rịa và được Tổ thọ ký, đặt pháp danh là Thiện Dõng. Sau 3 năm tu học, ngài có nhiều nỗ lực tinh tấn chuyên cần, được Tổ truyền trao giới pháp Sa di tại phương trượng Thiên Thai.

Từ năm 1931-1939, Tổ Huệ Đăng mở trường Gia giáo tại chùa Thiên Thai, ngài tu học ở đây trong 8 năm, cùng với các huynh đệ trong tông phái. Ngoài những khóa tu học như tọa thiền, lạy pháp Ngũ hối, trì tụng kinh Pháp Hoa, chấp tác hầu cận Tổ, ngài thường được nghe Tổ giảng pháp, vấn đáp với các bậc trí thức, mạn đàm cùng các chí sỹ yêu nước về ý thức dân tộc, lòng yêu nước, sự đọa đày của một dân tộc bị mất nước dưới chế độ của thực dân Pháp nên ngài sớm mõ chiều kinh, hằng nguyện đất nước được thái bình, nhân dân được an lạc.

Đầu năm 1941, Tổ Huệ Đăng thấy ngài tư chất nghiêm minh, chí thành đạo hạnh, đã cho phép ngài đăng đàn thọ Cụ túc giới tại giới đàn chùa Long Hòa- Bà Rịa, nhằm truyền mạng mạch hoằng dương chánh pháp sau này. Sau khi thọ giới, Tổ đã truyền pháp tu Tịnh độ-Thiền quán của môn phái cho ngài, đặt pháp tự là Trừng Lực, pháp hiệu là Pháp Dõng, nối pháp đời thứ 42 dòng Tế Thượng, thuộc tông Lâm Tế, nay gọi là Thiên Thai Thiền giáo tông.

Tổ phú pháp bài kệ:

“Trừng tâm tịnh lự nhậm hồi quang

Lực tín tinh cần định huệ an

Pháp bổn toàn chân như thị pháp

Dõng khai cực lạc tại nhân gian”.

Ngày Rằm tháng 2 năm Tân Tỵ (12.3.1941), ngài làm lễ động thổ khởi công xây dựng chùa Tường Quang (hiệu chùa Tường Quang được Tổ Huệ Đăng chỉ giáo) trong khuôn viên 11.500m2 đất, do người cô ruột, cụ bà Trần Thị Trà cúng 6.700 m2; cụ bà Nguyễn Thị Hải cúng 4.500 m2.

Chùa cách trung tâm Sài Gòn 6 km về phía Đông Bắc, tọa lạc ven ngả ba sông Sài Gòn và sông Vàm Thuật. Buổi lễ được chư tôn thiền đức chứng minh như Hòa thượng Minh Tâm- chùa Thiên Quang, Hòa thượng Bửu Đăng- chùa Linh Sơn Hải Hội, Hòa thượng Pháp Hiển- chùa Thiên Đức, Hòa thượng Thiện Hào- chùa Thiên Vân, Hòa thượng Pháp Châu- chùa Tịnh Độ… và tất cả gia tộc, cùng dân làng Hanh Phú.

Đến ngày 17 tháng 11 năm Nhâm Ngọ (1942), đông đảo dân làng tập trung về chùa Tường Quang khánh lễ Phật Di Đà và dự lễ Khánh thành chùa. Ngài chính thức được Tổ cho phép trở về cùng Hòa thượng Thiện Hào trụ trì và hoằng đạo tại ngôi chùa mới này.

Mùa đông, ngày 20.12.1945, các vị chức sắc Phật giáo, các nhà trí thức trong phong trào yêu nước về chùa Tường Quang dự hội nghị quan trọng để thành lập Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Gia Định, dưới sự chủ trì của Hòa thượng Thích Minh Nguyệt (Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc Nam Bộ). Hội nghị đã thống nhất thành lập Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Gia Định, trụ sở đặt tại chùa Tường Quang – An Phú Đông – Gia Định. Hội có cơ cấu nhân sự và hành chánh như sau:

1) Hòa thượng Thích Bửu Đăng (thế danh Nguyễn Ngọc Lang, 1907-1947) - Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Gia Định.

2) Hòa thượng Thích Pháp Dõng (thế danh Trần Quang Lực, 1915-1982) - Hội phó Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Gia Định.

3) Hòa thượng Thích Bửu Ý (thế danh Nguyễn Văn Đặc), giữ chức vụ Thư ký.

4) Hòa thượng Thích Thiện Hào (thế danh Trương Minh Đạt), giữ chức vụ Thủ quỹ.

5) Thầy Thích Thiện Hậu (thế danh Phạm Văn Hùng) - Trưởng ban Tiếp tế lương thực .

6) Hòa thượng Thích Minh Giáo, giữ nhiệm vụ liên lạc (giao liên).

Sau khi Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Gia Định đi vào hoạt động, nhiều Tăng ni, Phật tử trong tỉnh đã hưởng ứng đóng góp tích cực cho hoạt động của Hội như tham gia trực tiếp đấu tranh, đình công, bãi thị chống thực dân Pháp.

Mùa thu năm 1946, ngài cùng với Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Gia Định tham gia nhiều phong trào vận động lương thực, y dược, vũ khí… để trang bị cho chi đội 6 Vệ Quốc đoàn, đang đóng quân tại An Phú Đông.

Năm 1946-1947, do chiến khu An Phú Đông bị tàn phá dữ dội, là nơi càn quét ác liệt của quân đội viễn chinh Pháp. Có ngày chúng mở hai cuộc ruồng bố chà đi xát lại không ngớt tiếng súng nổ ở khắp vùng… Đường làng vắng lặng, cảnh giết chóc diễn ra thường xuyên, chùa cùng chịu chung số phận với dân làng. Thấy cảnh xót xa ấy, lòng nhân từ trỗi dậy, Hòa thượng nói với người thân và huynh đệ trong chùa: “Tôi không thể nào yên tâm tụng niệm kinh kệ được, khi đất nước chưa yên bình con người chưa hết cảnh bị bắn giết”. Với cương vị Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Cứu quốc, ngài được cách mạng cử nhiệm vụ đi về An Nhơn Tây - Lộc Ninh, tìm địa điểm mới để xây dựng chiến khu cách mạng, làm căn cứ địa cho Mặt trận Liên Việt về đây trú ẩn. Ngôi chùa được giao lại cho huynh đệ và người thân trông coi nhang khói, những ngày Rằm vía Phật, không ai dám tụ tập làm lễ ban ngày, chùa như vắng lạnh. Chỉ khi đêm đến, dân làng đốt đuốc bằng lá dừa để đi đến chùa lạy sám hối và tụng kinh.

Ngày 3.7.1951, Đại hội toàn quốc Việt Minh - Liên Việt đã thống nhất thành Mặt trận Liên hiệp Quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Mặt trận Liên Việt-Việt Minh. Hòa thượng được bầu giữ chức vụ Chủ tịch của Mặt trận Liên Việt-Việt Minh tỉnh Gia Định Ninh (Gia Định-Tây Ninh), ngài lấy bí danh là Thích Quang Minh, cơ quan đóng tại ấp Xóm Chùa – xã An Nhơn Tây. Sau đó do giặc Pháp càn quét dữ dội, cơ quan chuyển sang đóng ở rừng An Thành - Bến Cát - Bình Dương.

Đến năm 1953, chiến trường diễn biến, liên tục thay đổi nhân sự chuẩn bị cho hiệp định Genève, cơ quan tách ra, một phần tỉnh Gia Định sáp nhập với tỉnh Tây Ninh, Hòa thượng cùng với bộ phận kinh tài của tỉnh về căn cứ chiến khu Đ Tây Ninh (tỉnh Gia Định Ninh).

Tuy làm nhiều việc cho cách mạng, cho đất nước, nhưng trong 9 năm kháng chiến, ngài vẫn không xa rời cuộc sống tu hành, đó là tinh thần nhập thế của người con Phật.

Có một câu chuyện đầy lòng nhân từ của Hòa thượng ở chiến khu Đ vào năm (1951-1952). Thực dân Pháp mở nhiều mặt trận càn quét, tấn công ác liệt để tiêu diệt cách mạng, sự hy sinh và mất mát thường xuyên, thấy đó rồi mất đó. Hòa thượng đã đề nghị ý kiến của mình với lãnh đạo Mặt trận Liên Việt-Việt Minh tỉnh Gia Định Ninh: “Ở cơ quan của chúng tôi, có một chiến sĩ giao liên dũng cảm, nhanh nhẹn, tư chất thông minh, năng nổ trong công việc, tuổi đời còn quá trẻ (khoảng 14 đến 15 tuổi), nên đưa về miền Bắc học để làm lực lượng thừa kế cho cách mạng miền Nam sau này". Chiến sĩ trẻ đó, sau này là Thủ tướng Phan Văn Khải.

Năm 1954, Hòa thượng không tập kết ra miền Bắc, mà nhận nhiệm vụ ở lại miền Nam để hoạt động nội thành, nuôi dưỡng đùm bọc nhiều cán bộ, vận động tài chánh lương thực cho cách mạng.

Năm 1955, ngài trở về quê hương An Phú Đông, cho trùng tu sửa chữa lại chùa Tường Quang lần thứ nhất. Hòa thượng cho khai hoang phá rừng trồng trọt lại hoa màu cây ăn trái, đắp bờ bao trồng 4.000 m2 hoa lài ở phía sau chùa, vận động nhân dân sửa chữa lại đường, bắc cầu qua sông rạch, kiến tạo quê hương.

Ngày 23 tháng 10 năm 1955, gia đình họ Ngô lên cầm quyền ở miền Nam, tiếp tục có những thủ đoạn dã man, sát hại, bắt bớ những người tham gia kháng chiến. Tình hình xã hội miền Nam lại có diễn biến phức tạp khó lường. Trước sự việc ấy, ngài lại chuẩn bị lui vào bí mật.

Tháng 3 năm 1957, ngài lánh về lại chùa Thiên Thai với danh nghĩa là người thợ mộc, công quả đóng sửa lại những vật dụng bàn ghế cho chùa Thiên Thai và trú tại đây.

Năm 1958-1959, chùa Thiên Thai lại bị mật thám theo dõi gắt gao. Hòa thượng về Gò Công Đông ở nhà Phật tử Lý Thị Nhựt, thời gian ở đây, ngài đã làm lễ quy y cho một số Phật tử, sau này có vị xuất gia và cất chùa tu học (chùa Phước Thạnh).

Năm 1960-1974, Hòa thượng về chùa Thiên Trường, quận 8 Sài Gòn, chuyên trì và lạy kinh Pháp Hoa, lạy Tam Thiên Phật, nhập được 15 thất tại chùa Thiên Trường quận 8.

Xuân Mậu Thân 1968, An Phú Đông là điểm tập kết để quân cách mạng đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất. Khi quân giải phóng rút về chiến khu ngang qua đường làng của chùa, bị sự truy kích của máy bay, chùa Tường Quang lại một lần nữa hứng chịu bom đạn của Mỹ, hư hại rất nặng, hầu như không còn gì. Trong thời gian này, Hòa thượng làm trụ trì chùa Thiên Trường (quận 8).

Năm 1970, ngài đảm nhiệm trụ trì danh dự chùa Thiên Phật (Thủ Dầu Một – Lái Thiêu) cho đến năm 1976.

Năm 1973, Hòa thượng về lại An Phú Đông, ấp 5 của xã An Phú Đông điêu tàn quạnh quẻ, cả một vùng đất rộng lớn chỉ có cỏ và cây ráng rừng, nước ngập không nhìn thấy mặt đất, rải rác những cây dừa thưa thớt đầy vết tích bom đạn của chiến tranh. Tháng 2 năm 1973, ngài làm lễ khởi công xây dựng lại chùa Tường Quang lần thứ hai.

Đầu năm 1974, lễ Tạ Tam bảo-An vị Phật chùa Tường Quang lần thứ hai được tổ chức. Sau khi an vị Phật, ngài và các đệ tử lại về trùng tu chùa Thiên Thai lần thứ nhất (tháng 4.1974).

Mùa Xuân năm 1975, Nam Bắc thống nhất một nhà, non sông liền một dải. Sau chiến tranh, nhiều vị lão thành cách mạng thân hữu năm xưa lần lượt trở về thăm chiến khu An Phú Đông, họ đều đến chùa Tường Quang thăm Hòa thượng, chúc mừng ngài hoàn thành hạnh nguyện đạo - đời vẹn toàn trong cuộc trường kỳ kháng chiến 30 năm vệ quốc.

Từ năm 1975 đến 1982, ngài mở phòng thuốc Nam và châm cứu từ thiện tại chùa Tường Quang. Năm 1976, ngài được mời làm Trưởng Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước huyện Hóc Môn. Để phát huy kinh tế nhà chùa, ngài cho xây dựng lò tương Kim Cang tại chùa Thiên Quang, Hóc Môn. Đến năm 1981, khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời, ngài hiến cơ sở này cho Hợp tác xã Hoa Sen của Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước TP. Hồ Chí Minh.

Năm 1977, Hòa thượng lại đứng ra chủ trì việc trùng tu ngôi tổ đình Thiên Thai lần thứ hai để báo đáp thâm ân bổn sư và củng cố sơn môn. Cùng năm, ngài đảm nhiệm trụ trì danh dự chùa Phước Thiên (Hóc Môn).

Năm 1979; Chính phủ mời Hòa thượng về thủ đô Hà Nội, đích thân Thủ tướng Phạm Văn Đồng tặng ngài xấp vải lụa vàng may chiếc y Cụ túc để lễ Phật. Cùng thời gian này, ngài được các vị tôn túc Phật giáo mời tham gia thành viên Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam.

Năm 1981, tại đại hội Đại biểu toàn quốc thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, Hòa thượng được cung thỉnh làm thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Đến thời điểm thống nhất Phật giáo trọn vẹn này, như là hạnh nguyện độ sanh đã viên mãn, sức khỏe ngài dần suy giảm. Đầu năm 1982, Hòa thượng trở bệnh, bác sĩ phát hiện ngài có triệu chứng của bệnh gan do ở rừng sâu nước độc nhiều năm; tháng 4 năm 1982 bệnh của ngài chuyển qua giai đoạn tai biến. Nhiều vị cách mạng lão thành và chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh quan tâm, các vị giáo sư, bác sĩ tại Bệnh viện Chợ Rẫy tận tình điều trị. Sau hai tháng nhập viện, sức khỏe của ngài được hồi phục nhẹ, đến ngày mùng 2 tháng 9 năm Nhâm Tuất (1982) Hòa thượng chỉ định về chùa.

Ngày mùng 3 - 4 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1982), Hòa thượng yếu hẳn. Sáng mùng 5 tháng 10 năm Nhâm Tuất, Ban Trưởng tử tổ chức lễ Cầu an luân phiên tụng niệm cầu nguyện cho ngài. Gió chiều đông đầu tháng mười nhẹ thổi, ngài nằm thanh thản như giấc ngủ của mọi ngày, Ban Trưởng tử cũng hiểu và biết rằng thân ngũ uẩn rồi sẽ trả về tứ đại.

Vào lúc 12 giờ 15 phút ngày mùng 5 tháng 10 năm Nhâm Tuất (1982), Hòa thượng an nhiên thâu thần viên tịch, hưởng thọ 68 tuổi đời và có 42 tuổi đạo.

Đúng 10 giờ ngày mùng 06 tháng 10 Nhâm Tuất, Hòa thượng Thích Trí Thủ - Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tuyên pháp ngữ lễ nhập Kim quan nhục thân Hòa thượng Thích Pháp Dõng.

Từ mùng 06 đến mùng 08 tháng 10 năm Nhâm Tuất, đông đảo chư tôn đức từ Trung ương đến địa phương, các cấp chính quyền, đoàn thể cả nước cùng Phật tử xa gần đến viếng giác linh Hòa thượng.

Lễ Trà tỳ và Kim quan của Hòa thượng được nhập tháp tại chùa Tường Quang lúc 10 giờ sáng ngày mùng 9 tháng 10 năm Nhâm Tuất. Đây là nơi ngài đã cất tiếng khóc chào đời và cũng chính nơi đất mẹ thân yêu đã khép lại để sưởi ấm hình hài của ngài với tâm hồn bất diệt như ngọc lưu ly tỏa sáng.

Đối với đất nước, ngài là người con ưu tú với cả cuộc đời vì quê hương nhất là trong thời loạn lạc, chiến tranh trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Đối với đạo pháp, Hòa thượng là một vị chân tu, lời dạy chân phương mộc mạc của ngài lúc sanh tiền “Tu hành rất là khó, muốn làm được người tu thì điều trước tiên phải là con người đúng nghĩa” đã khiến bao lớp người đã từng gặp gỡ ngài ghi khắc mãi.

Công đức của ngài rất lớn đối với làng An Phú Đông, là người khai sơn ngôi chùa lịch sử Tường Quang để truyền thừa mạng mạch của Phật giáo ở tại nơi này. Hòa thượng tuy đã khuất bóng, nhưng công trạng sự nghiệp của ngài luôn là niềm tự hào của các thế hệ kế thừa tinh thần yêu nước Phật giáo Việt Nam.

NAM MÔ TỪ TẾ THƯỢNG CHÁNH TÔNG, TỨ THẬP NHỊ THẾ, HÚY TRỪNG LỰC, HIỆU PHÁP DÕNG, TRẦN CÔNG HÒA THƯỢNG GIÁC LINH. 

 


- Đại đức Thích Phước Triều, đệ tử HT Thích Pháp Dõng.

- Cư sĩ Lê Văn Tiếu (đạo hữu Phước Duyên), Trưởng tử của HT Pháp Dõng.

- Cư sĩ Trần Tấn Hoàn, pháp quyến của HT Pháp Dõng.

- Chư Tăng môn đồ pháp quyến chùa Tường Quang, Hóc Môn.

- Truyện “Làng nhỏ ven sông” của Diệp Hồng Phương, NXB Trẻ 2002

- Đại đức Thích Phước Nhân, Tăng sinh khóa 6 Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM.

- Tỳ kheo Thích Đồng Bổn sưu tầm và biên tập.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 18)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 17)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 16)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 266
    • Số lượt truy cập : 7269271