Thông tin

HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN THÔNG (1913-2001)

 

 

Hòa thượng Thích Thiện Thông, nguyên quán tại huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Từ thuở lên 7 tuổi, do tấm lòng thiết tha mộ đạo, nên ngài được song thân cho vào chùa Long Phước cầu xin tu học. Năm 13 tuổi, sau khi thọ tang thân phụ, ngài rời quê hương Bến Tre lên Sài Gòn, đến đất Phú Nhuận và trú xứ tại chùa Phổ Quang.

Đến năm 1938, mặc dù vẫn còn là cư sĩ, nhưng ngài đã đứng ra vận động xây dựng ngôi chùa Phổ Quang và thỉnh sư cụ Hải Tràng về trụ trì để hướng dẫn Phật tử tu học. Thọ ân đức giáo dưỡng của Sư cụ Hải Tràng, năm 1947, một lần nữa ngài phát tâm xuất gia tu học.

Năm 1950, Hòa thượng được đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn chùa Thanh Trước, do Tổ Hải Tràng làm Đàn đầu Hòa thượng. Từ đó, ngài được xem như là trưởng tử của Sư cụ Hải Tràng, cùng với Tổ chăm lo Phật sự. Cũng thời gian này, Hòa thượng xin phép Sư cụ Hải Tràng đến thọ pháp Mật Tông với Hòa thượng chùa Kỳ Quang, ngõ hầu sau ứng dụng vào việc chữa bịnh độ đời và nuôi trẻ em bệnh tật.

Năm 1962, Hòa thượng mở Phật học viện Phổ Quang, đến năm 1969 là Phật học viện Hải Tràng. Ngài được suy cử làm Giám viện và đã đào tạo trên 200 Tăng phục vụ cho Giáo hội và tự viện.

Ngoài việc tiếp Tăng độ chúng, kiến tạo chùa cảnh, Hòa thượng còn thể hiện trọn vẹn tinh thần hộ quốc an dân, phát huy tinh thần đạo Phật qua những hoạt động và với những phong trào cứu dân giúp nước như tham gia cách mạng, nuôi giấu cán bộ, vận động quần chúng ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Với đức tính vị tha, từ hòa hỷ xả, nhiếp hóa mọi người, Hòa thượng đã dìu dắt Tăng Ni Phật tử phát khởi tín tâm, tu hành tinh tấn. Ngoài ra, Hòa thượng còn phát huy mối đạo bằng cách mở đạo tràng tu Bát quan trai, Bồ tát giới tại tổ đình Phổ Quang. Khởi nguyên năm 1985, chỉ có 12 Phật tử sinh hoạt. Sau 18 năm, số lượng Phật tử đã là 400 vị, thêm vào đó, Hòa thượng còn đăng đàn truyền pháp, thuyết giảng giáo lý Phật đà cho tứ chúng học đồ và Phật tử gần xa.

Bằng thân giáo, khẩu giáo, ý giáo uy nghiêm, Hòa thượng đã khuyến hóa Tăng ni Phật tử tăng cường đạo lực trên ý nghĩa trang nghiêm ngôi Tam bảo là trang nghiêm Tịnh độ tại thế gian. Năm 1970, Hòa thượng đã nỗ lục trùng tu ngôi tổ đình Phổ Quang (Quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh), xây ngôi bảo tháp 7 tầng, cao 18m để thờ chư Tổ, sau này xứng đáng là Tổ của Tông phong, là cơ sở của Giáo hội tại địa phương, nơi tu học, chiêm bái của Tăng ni và Phật tử khắp nơi.

Ngoài ra, Hòa thượng còn xây dựng và trùng tu một số ngôi chùa, như: chùa Phước An ở Tân Lập; Phổ Minh ở Bàu Sen (Xuân Lộc-Long Khánh-Đồng Nai); chùa Phổ Ứng ở Buôn Ma Thuột; chùa Vạn Phước ở Chợ Lách-Bến Tre; chùa An Lạc ở xã Lạc Nghiệp-Đơn Dương-Lâm Đồng; chùa Kim Quang ở Tân Thới Hiệp - Hóc Môn-TP. Hồ Chí Minh.

Năm 1993, Hòa thượng được cung thỉnh vào cương vị Thập sư tại Giới đàn Thiện Hòa. Năm 1997, Hòa thượng được cung thỉnh vào cương vị Hòa thượng Đàn đầu tại Giới đàn tỉnh Bến Tre.

Trong suốt gần 51 năm trong vai trò mô phạm chốn rừng thiền, là vị giáo phẩm lãnh đạo của Tăng ni tại địa phương, Hòa thượng đã đảm trách nhiều cương vị:

- Phó Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tỉnh Gia Định;

- Ủy viên Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước TP. Hồ Chí Minh.

- Trưởng ban Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước quận Phú Nhuận;

- Ủy viên Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh;

- Chứng minh Ban Đại diện Phật giáo quận Phú Nhuận;

- Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Do những cống hiến to lớn cho đạo pháp và dân tộc, Hòa thượng đã được Nhà nước trao tặng nhiều huân, huy chương cao quý:

- Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng I;

- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng I;

- Huy chương Vì sự nghiệp Đại đoàn kết toàn dân;

- Kỷ niệm chương Những người có công với Cách mạng.

Ngài được Giáo hội Phật giáo Việt Nam trao tặng bằng Tuyên dương công đức... Ngoài ra, còn nhiều bằng khen và giấy khen của cơ quan chính quyền các cấp ở TP. Hồ Chí Minh.

Ngài thị tịch lúc 18 giờ 30 ngày 9 tháng 4 năm Tân Tỵ, tức ngày 31.5.2001, trụ thế 88 tuổi, hạ lạp 51 năm, để lại nhiều tiếc thương cho Giáo hội địa phương và Tăng ni, tín đồ Phật tử, cùng sơn môn tổ đình Phổ Quang.

 


-Tiểu sử đăng trên báo Giác Ngộ số 179 năm 2003

- Một bản đăng ở số 219

- Tỳ kheo Đồng Bổn biên tập lại.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 18)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 17)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 16)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 137
    • Số lượt truy cập : 7268782