Thông tin

KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY DÒNG THIỀN TÀO ĐỘNG VIỆT NAM

 

Tỷ kheo THÍCH THỌ LẠC*

 

1.Sự hình thành thiền Tào Động tại Việt Nam

Thiền phái Tào Động được sáng lập bởi hai Thiền sư Động Sơn Lương Giới (807 – 869) và Tào Sơn Bản Tịch (840 – 901). Nơi hành đạo của hai Thiền sư chủ yếu ở Động Sơn và Tào Sơn - Trung Quốc, nên thiền phái này được gọi là Thiền Tào Động.

Chủ trương của Thiền Tào Động là nguyên tắc năm vị, xoay quanh ý niệm chính (thẳng) và thiên (nghiêng), do thiền sư Động sơn Lương Giới thiết lập. Chính là biểu thị cho Tĩnh; Thể; Không; Lý; Bình đẳng; Tuyệt đối; Bản thể; Chân như, còn Thiên là biểu thị cho Động; Dụng; Sắc; Sự; Sai biệt; Tương đối; Bất giác; Sinh diệt. Cho nên nói Chính Thiên bổ sung cho nhau mà phát sinh ra ngũ vị. Thiền sư Động Sơn Lương Giới từng nói: “Có một vật trên thì chống trời, dưới thì đỡ đất. Nó đen như sơn, luôn luôn chuyển dịch và hoạt động”[1] . Đó là Chính (thẳng), cái không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ, nắm bắt được bằng khái niệm. Khi cái Chính diễn bày trong thế giới hiện tượng, thế giới sự vật thì thành ra Thiên (nghiêng). Mối tương quan giữa Chính và Thiên, giữa Thẳng và Nghiêng là mối quan hệ biện chứng, song hành cùng tồn tại, không cái nào có trước cái nào, như sóng và nước, như bản chất và hiện tượng. Đây cũng chính là 5 giai đoạn khai ngộ của hành giả trong quá trình tu tập.

1.1. Chính nằm trong Thiên (Chính trung Thiên正中偏):

Động Sơn nói“Trong cái Tuyệt đối đã có cái Tương đối rồi, nếu không thì hóa ra cái Tuyệt đối có trước cái Tương đối sao?”[2] Nghĩa là cái Tuyệt đối nằm trong cái Tương đối, điều đó cũng có nghĩa là tuy cái Tuyệt đối là cái không thể nắm bắt được bằng khái niệm, nhưng ta có thể hiểu cái Tuyệt đối thông qua cái Tương đối, nghĩa là thông qua những sự vật hiện tượng cụ thể.

Đây cũng chính là giai đoạn chứng ngộ đầu tiên của hành giả trong quá trình tu tập. Bài kệ tụng của Thiền Sư Động Sơn:

Tam canh sơ dạ nguyệt minh tiền

Mạc quái tương phùng bất tương thức.

Ẩn ẩn du hoài cựu nhật hiềm.[3]

Thiền sư Thanh Từ dịch:

Đêm tối canh ba trăng rọi hiên

Lạ chi cùng gặp chẳng cùng biết

Ẩn ẩn vẫn còn ôm hận phiền.[4]

Trong câu kệ, ta thấy “Tam canh sơ dạ” đó là Chính hay là Lý, “ minh nguyệt” là Thiên hay chính là ngộ. Do vậy khi Lý hiển bày thì ngộ sáng, mà ở đây Thiền sư cho hành giả thấy Lý chưa được sáng tỏ rõ ràng nên tuy “ tương phùng bất tương thức”. Ý chỉ của Thiền sư cho chúng ta thấy hành giả ở giai đoạn này vẫn chưa nhận thức được tự ngã cũng chính là bản thể, mà nghiêng về thế giới hiện tượng bên ngoài đi tìm Bản Lai Diện Mục. Tức giai đoạn đầu hành giả nhận thức thế giới Hữu vi nắm phần trên nhưng được nhận diện là xuất phát từ Chân như, tính Không. Hành giả mới nhận được dụng đủ nơi thể.

1.2.Thiên nằm trong Chính (Thiên trung Chính偏中正). 

Động Sơn nói “Cái Tương đối đã có trong cái Tuyệt đối rồi, nếu không thì hóa ra cái Tương đối là cái có trước cái Tuyệt đối sao?”[5]. Nghĩa là cái Tương đối, hay các sự vật hiện tượng không tồn tại một cách rời rạc, biệt lập mà chúng nằm trong cái bản thể Tuyệt đối. Bài kệ của Thiền sư Động Sơn:

Thất hiểu lão bà phùng cổ cảnh

Phân minh địch diện biệt vô chân

Hưu cánh mê đầu do nhận ảnh.[6]

Thiền sư Thanh Từ dịch:

Mất sáng lão bà tìm cổ kính

Rõ ràng đối diện đâu riêng chân

Thôi chớ quên đầu theo nhận bóng.[7]

Qua câu kệ trên chúng ta thấy “ thất hiểu lão bà” đó là Chính Trung Thiên, “ phùng cổ kính” là Thiên Trung Chính. Tức là từ thiên sai vạn biệt của sự vật hiện tượng đều đưa thẳng hành giả đến tính chân như bình đẳng của pháp giới. Đến giai đoạn thứ 2 này, hành giả từ thế giới hiện tượng mà nhìn thấy bản thể chân như hiện hữu, từ thế giới hiện tượng huyễn ảo này mà ngộ nhập bản thể thế giới chân như bất biến cho nên không còn tâm nghi ngờ sợ hãi. Hay nói cách khác, đến giai đoạn này thì Lí nằm trong Dụng, thế giới hiện hữu ít được để ý đến. Hành giả nhận được Lí đủ nơi Sự, nhận được Thể sẵn trong Dụng, liễu đạt được lí các pháp đều không, chỉ một Chân như bình đẳng.

1.3.Chính nằm trong chính nó(Chính trung lai正 中 來).

Cái thẳng nằm trong tự thân của cái thẳng, nghĩa là Tuyệt đối là tuyệt đối, bất sinh bất diệt, không được nhận thức thông qua mối quan hệ giữa bản thể và hiện tượng. Thiền sư Động Sơn nói:

 Vô trung hữu lộ cách trần ai

Đản năng bất xúc đương kim huý

Dã thắng tiền triều đoạn thiệt tài.[8]

Thiền sư Thanh Từ dịch:

Đường cái trong không cách trần ai

Chỉ hay chẳng chạm ngày nay kị

Đã thắng tiền triều cắt lưỡi tài.[9]

Đến bậc thứ 3 trong quá trình tu tập, hành giả đã đạt được pháp thân, bản thể đã đạt được cảnh giởi vô niệm đó là Chính vị.  Nghĩa là từ trung tâm giữa Thiên và Chính, các pháp hữu vi như Lí tuỳ duyên, như tính duyên khởi. Nơi đây cảm giác về thân, tâm đều được bỏ qua một bên, cả hai đều biến mất. Hành giả nơi đây như Lí tu Sự, như tính khởi hành, tương đương với Bồ Tát từ sơ địa đến thất địa (Thập địa) tu hành còn dụng công.

1.4.Thiên nằm trong chính nó (Thiên trung chí偏 中 至).

Cái Tương đối trong tự thân cái Tương đối, tựa như người đạt đến cái Tuyệt đối thì có thể sống tự tại trong thế giới hiện tượng mà không bị nhiễm ô bởi hiện tượng. Bài kệ của Thiền Sư Động Sơn nói:

Lưỡng nhẫn giao phong bất tu tị

Hảo thủ du như hoả lí liên

Uyển nhiên tự hữu xung thiên chí.[10]

Thiền sư Thanh Từ dịch:

Hai kiếm đua nhau cần gì tránh

Tay khéo vẫn như lò lửa sen

Nguyên vẹn nơi mình xung thiên chí.[11]

Bước vào giai đoạn này chúng ta thấy từ sự diệu dụng của thế giới hiện tượng biến thông vô cùng, không cần phải tránh né như hoa sen trong lửa vẫn tươi đẹp. Hay đó chính là thể ngộ hiện tượng và bản thể minh hợp, đạt đến cảnh giới vô niệm vô tưởng. Nơi đây hành giả cảm nhận được sự độc nhất vô nhị của mỗi Pháp, ngay cả tính Không cũng đã biến mất trong pháp này. Sử dụng toàn hợp nơi thể người tu trọn ngày tu mà lìa niệm tu, trọn đêm dụng mà chẳng thấy dụng công. Tương đương với hàng Bồ Tát từ bát địa đến thập địa.

1.5.Chính và Thiên nằm trong cùng một Tự tính(Kiêm trung đáo兼中到)

Đạt đến cảnh giới này, mọi sự phân biệt giữa Thẳng và Nghiêng, giữa Tuyệt đối và Tương đối là không cần thiết, vì cả hai đều có chung một tự tính thường hằng, bất sinh bất diệt.

Bất lạc hữu vô thuỳ cảm hoà

Nhân nhân tận dục xuất thường lưu

Chiết hiệp hoàn quy khôi lí toạ.[12]

Thiền sư Thanh Từ dịch:

Chẳng rơi Không, có ai dám hoà

Người người trọn muốn vượt dòng thường

Tan hiệp trở về ngồi trong tro[13]

Qua câu kệ trên có thế thấy, hành giả không bị câu lệ bởi hữu vô nhị biên của cảnh giới, Thể Dụng đồng đến, Sự và Lí cùng hành, đây chính là cảnh giới cứu kính Niết Bàn của người tu tập cần đạt, “ Nhất tướng vô tướng, cứu kính phi tư lường”.

Có thể nói rằng, thuyết Chính Thiên ngũ vị chính là thiết lập Bản giác; Bất giác nhị nguyên. Bản giác hướng về tinh thần tùy duyên, lấy sự vật hiện tượng hiển hiện vạn hữu sai biệt, hay chính là trong tĩnh có động là Chính Trung Thiên; Bất giác là hướng đến huàn diệt, lấy tinh thần tùy thuận chân như bình đẳng làm lý tính, tức trong động có tĩnh đó chính là Thiên Trung Chính. Khi ý niệm Chính Thiên hợp nhất, tức là động tĩnh bất phân đó chính là Kiêm Trung Đáo. Điều này ta cũng bắt gặp trong Đại Thừa Khởi Tín Luận từng nói “ Bản giác, Bất giác, Bất biến, Tùy duyên”.

Sau này Thiền sư Động Sơn tiếp tục thiết lập ra “ ngũ vị công huân”(đó là : Hướng; Phụng; Công; Cộng công; Công công) để hậu học dễ dàng phân định các giai đoạn trong quá trình tu chứng. Đến thế hệ sau, Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch đã kế thừa thuyết ngũ vị này mà diễn giải thông qua mối quan hệ giữa vua và quần thần (ngũ vị quần thần). Theo đó vua là vua, quần thần là quần thần, nhưng vua chỉ là vua khi vua có quần thần, quần thần chỉ là quần thần khi có vua, và cả vua lẫn quần thần cùng tồn tại bên nhau.

Từ nguyên tắc năm vị trên, các thiền sư phái Tào Động đã hình thành một số chủ trương sau:

1. Nương nhờ công phu tọa thiền là Phật tính tự sáng suốt (chỉ quán đả tọa).

2. Tu và Chứng là một.

3. Thân và Tâm là một

4. Không có đối tượng để giác ngộ

5. Không có đối tượng để chứng đắc

Ngài Thủy Nguyệt[14] ở Hùng Lĩnh, đến núi Phượng Hoàng, tham học với Ngài Nhất Cú Trí Giáo, tổ thứ 35 của thiền phái Tào Động. Tham học một thời gian, Tổ Nhất Cú Trí Giáo nhận thấy Ngài Thủy Nguyệt “là con cháu giỏi của gia phong Tào Động, cho pháp danh là Thông Giác, nối dòng chính”[15]. Vì vậy, Tổ Thủy Nguyệt trở thành tổ đời thứ 36 của Thiền phái Tào Động.

Sau khi đắc pháp với Ngài Nhất Cú Trí Giáo, Ngài Thủy Nguyệt về Việt Nam, khai trường độ chúng, trở thành Sơ tổ Thiền Tào Động tại Việt Nam, vào khoảng thế kỷ thứ 17. Ngài đã lập kệ truyền đăng cho các thế hệ tiếp nối dòng Thiền Tào Động tại Việt Nam như sau:

“Tịnh trí thông tông từ tính hải

Khoan giác đạo sinh quang chính tâm

Mật hạnh nhân đức di lương tuệ

Đăng phổ chiếuhoằng pháp vĩnh trường.”

2. Những đóng góp tích cực đối với đạo pháp và xã hội của Thiền Tào Động Việt Nam qua một số Thiền sư tiêu biểu

Năm 1428, Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh xâm lược, chính thức lên ngôi, mở ra thời kỳ mới cho nước nhà. Triều đình Hậu Lê chọn Nho giáo là tư tưởng chính thống; Tuy vậy, Phật giáo trong nước lúc đó cũng có những kế thừa và phát triển đặc thù, dù không còn được thịnh trị như thời Lý và Trần trước đó.

Vào khoảng những năm 1670 đến 1678, Vua Lê Hy Tông ra sắc lệnh đuổi tất cả những nhà sư lên rừng, chùa chiền bị hoang phế, Phật giáo lâm vào pháp nạn suy vi.

Lúc này, thiền sư Tông Diễn[16], là đệ tử đắc pháp với Ngài Thủy Nguyệt Thông Giác, biết được tin này rất đau lòng, tự nghĩ: “Tại sao nhà vua đối với đạo Phật lại cho là vô dụng? Nếu ở núi rừng, dù thuyết pháp đá phải gật đầu, giảng kinh được hoa trời rơi loạn, cũng chẳng có lợi ích gì cho chúng sanh, nếu không hoằng dương được chánh pháp thì làm sao đáng đền ơn Phật Tổ! Chỉ riêng tốt cho mình thì làm sao độ được hàm linh trong bể khổ, thật uổng công vào cửa Phật, luống trôi qua một đời”. Nghĩ vậy, Ngài liền lên kinh, viết một bức sớ, nói lên vai trò của Phật Giáo đối với thịnh suy của dân tộc, gửi tới vua Lê Hy Tông. Nhờ lời văn tha thiết, lý đạo thẳng ngay, vua Lê Hy Tông đã thức tỉnh, sửa chữa lỗi lầm của mình, cho phục hưng lại Phật giáo, lại còn cho người tạc bức tượng vua đang quỳ gối thờ Đức Phật ở trên lưng để cảnh tỉnh chính mình. Nhờ trí tuệ và dũng cảm của Ngài Tông Diễn mà Phật giáo tránh được một pháp nạn đáng tiếc xảy ra.

Sau Hậu Lê đến Nhà Nguyễn, rồi gần 100 năm bị Pháp đô hộ, Phật giáo có lúc thịnh lúc suy, lúc trở thành Quốc giáo, lúc lại lui về ẩn nhẫn sau lũy tre làng. Dù vậy, ngọn đèn chính pháp của Đức Phật chưa bao giờ tắt, tông phong Tào Động vẫn có hàng hàng lớp lớp kế thừa.

Sau năm 1975, khi Việt Nam thống nhất được hai miền Nam Bắc, nhu cầu thống nhất Phật giáo trở thành một ngôi nhà chung trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Các vị Thiền sư, Cao tăng của hai miền Nam và Bắc đã tổ chức nhiều hội nghị hiệp thương thống nhất các hệ phái trong cả nước. Đến tháng 11 năm 1981, Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ nhất diễn ra, ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam chung cho cả nước được thành lập. Đại hội đã nhất trí suy cử Ngài Đức Nhuận[17], tổ sư đời thứ 49 của dòng Thiền Tào Động, làm Thiền gia Pháp chủ của GHPGVN.

Đứng trước nhiệm vụ Tăng sai đầy trọng trách, Ngài Đức Nhuận đã kiến nghị lên Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng như Chính phủ nước Việt Nam ba kiến nghị quan trọng:

“Vấn đề trường Phật học:

Trường Phật học được thiết lập trên cả 3 miền: Bắc, Trung, Nam. Tại thủ đô Hà Nội được phép thiết lập một trường đại học Phật giáo. Tại thành phố Huế được phép thiết lập một trường đại học Phật giáo. Tại thành phố Hồ Chí Minh được phép thiết lập một trường đại học Phật giáo. Ngoài ra, các tỉnh trong toàn quốc, mỗi tỉnh cũng đều được phép thành lập một Phật học viện, tùy theo khả năng nhu cầu mỗi tỉnh, nếu có thể làm được.

Vấn đề người thừa kế và làm việc trong chùa:

Để có thể tiếp tục hành đạo và làm các việc trong chùa, tôi xin đề nghị Chính phủ cho phép mỗi chùa được chính thức cư trú, tiêu chuẩn từ hai đến năm người tùy theo chùa lớn hay nhỏ mà quy định.

Vấn đề tín ngưỡng của tín đồ:

Vấn đề tự do tín ngưỡng, tuy đã được Nhà nước đề ra sau khi nước nhà giành được quyền độc lập, nhưng được biết vẫn còn bị hạn chế ở nhiều địa phương, nhất là ở thôn quê. Do đó, hôm nay tiện dịp, tôi đề nghị Đại hội đạo đạt lên Chính phủ cho phép các tín đồ Phật giáo từ thành thị đến nông thôn được tự do tới chùa lễ Phật, nghe giảng giáo lý.

Ba vấn đề này xin được ghi vào Nghị quyết Đại hội. Mấy nguyện vọng tối thiểu và chính đáng trên, nếu được Đại hội chấp thuận, Chính phủ cho phép, thì tôi mới dám nhận chức vụ mà Đại hội đã có nhã ý đề cử, bằng không thì tôi xin phép được từ chối chức vụ này. Vì tôi nghĩ rằng: Nếu không đáp ứng được nguyện vọng của Tăng, Ni và Phật tử thì tôi e rằng không làm tròn trách nhiệm của mình đối với Phật giáo, vậy mong Đại hội thể tất cho…”

Ba kiến nghị của Đức Pháp Chủ GHPGVN vẫn đang được Giáo hội Phật Giáo Việt Nam từng bước hiện thực hóa, trở thành kim chỉ nam soi đường trên con đường phục hưng Phật giáo tại Việt Nam cho hôm nay và mai sau.

3. Kế thừa và phát huy Thiền phái Tào Động Việt Nam

Để tiếp nối và phát triển tông phong thiền phái Tào Động Việt Nam, chúng tôi xin đề nghị chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử thuộc dòng thiền Tào Động Việt Nam nhất trí thành lập một Ban Quản Trị Tông Môn, nhằm:

1. Kế thừa truyền thống tốt đẹp của Tông môn do chư vị Tổ sư đã khai sáng và lưu truyền;

2. Nghiên cứu, giáo dục cho các thế hệ hậu côn về lịch sử, tư tưởng và hành trạng của chư vị Tổ sư tiền bối;

3. Động viên Tăng Ni, Phật tử hòa hợp, thanh tịnh, tinh tiến tu học, hoằng pháp để trang nghiêm tự thân, giữ vững riềng cột tông phong và phát triển giáo hội.

4. Chư Tăng Ni, Phật tử hiện đang trụ trì các tự viện thuộc hệ thống Thiền phái Tào Động Việt Nam liên kết, hỗ trợ về vật chất để trùng hưng lại Tổ đình Nhẫm Dương – Hải Dương, nơi Tổ sư Thông Giác Thủy Nguyệt nhập tịch[18], đặc biệt là sớm tôn tạo lại hai ngôi bảo tháp của Sư Tổ đệ nhất và Tổ đệ nhị của thiền phái, hiện đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng;

5. Thống nhất chọn Tổ đình Nhẫm Dương, thuộc xã Duy Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương là: “Tổ đình Khai sáng dòng Thiền Tào Động Việt Nam”, và chọn Tổ đình Hồng Phúc - Hòe Nhai, số 19 Hàng Than, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, thủ đô Hà Nội là: “Trụ sở Trung tâm dòng Thiền Tào Động Việt Nam”[19];

6. Hàng năm, Tăng Ni và Phật tử thuộc dòng Thiền Tào động Việt Nam, lấy ngày 6 tháng 3 âm lịch (là ngày giổ Sư Tổ đệ nhất và hiệp kỵ chư vị Tổ sư thuộc dòng Thiền Tào Động Việt Nam - tại Tổ đình Nhẫm Dương – Hải Dương) và ngày 11 tháng 11 âm lịch (là ngày giỗ Đức đệ nhất Pháp chủ GHPGVN, cũng là ngày quy tụ họp mặt, tu tập, chia sẻ kinh nghiệm tu học, hoằng pháp của toàn thể Tăng Ni, Phật tử thuộc hệ thống dòng thiền Tào Động Việt Nam - tại Tổ Đình Hồng Phúc – Hà Nội).

7. Đồng thời, đề nghị quý cấp chính quyền quan tâm tạo điều kiện, cho phép mở rộng, khoang vùng và cắm cột mốc bảo vệ khu di tích lịch sử quốc gia Chùa Nhẫm Dương và sớm đề nghị Bộ Văn hóa Thể dục Thể thao và Du lịch xếp hạng Khu di tích lịch sử Chùa Nhẫm Dương thành: Khu di tích Đặc Biệt của Quốc Gia.



* TT. Phó trưởng ban, Ban Văn hóa Trung ương, GHPGVN.

[1] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, trang 497, nxb Phương Đông,

[2] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, trang 498, nxb Phương Đông

[3] Nguyên văn chữ Hán「三更初夜月明前,莫怪相逢不相識,隱隱猶懷舊日嫌」。

«洞山良价禪師語錄»,卍續藏經一   一九冊。

[4] Thích Thanh Từ, Thiền sư Trung Hoa tập 2, trang 11, nxb Thành hội Phật giáo TP. HCM.

[5] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, trang 498, nxb Phương Đông.

[6] Nguyên văn chữ Hán「失曉老婆逢古鏡,分明覿面別無真,休更迷頭猶認影」。

«洞山良价禪師語錄»,卍續藏經一一九冊。

[7] Thích Thanh Từ, Thiền sư Trung Hoa tập 2, trang 11, nxb Thành hội Phật giáo TP. HCM.

[8] Nguyên văn chữ hán「無中有路隔塵埃,但能不觸當今諱,也勝前朝斷舌才。」

« 洞山良价禪師語錄 »,卍續藏經一一九冊。

[9] Thích Thanh Từ, Thiền sư Trung Hoa tập 2, trang 11, nxb Thành hội Phật giáo TP. HCM.

[10] Nguyên văn chữ hán「兩刃交鋒不須避,好手猶如火裏蓮,宛然自有沖天志。」

« 洞山良价禪師語錄 »,卍續藏經一一九冊。

[11] Thích Thanh Từ, Thiền sư Trung Hoa tập 2, trang 11, nxb Thành hội Phật giáo TP. HCM.

[12] Nguyên văn chữ hán「不落有無誰敢和?人人盡欲出常流,折合還歸炭裏坐。」

« 洞山良价禪師語錄 »,卍續藏經一一九冊。

[13] Thích Thanh Từ, Thiền sư Trung Hoa tập 2, trang 11, nxb Thành hội Phật giáo TP. HCM.

[14] Ngài quê ở xã Thanh Triều, huyện Ngự Thiên, phủ Tiên Hưng, đạo Sơn Nam (Thái Bình ngày nay). Nhằm năm Đinh Sửu đời vua Lê Thần Tông (1637), Ngài thác thai vào nhà họ Đặng làm con đầu lòng, năm 18 tuổi trúng tuyển Cống cử (Tứ trường), đến năm 20 tuổi xuất gai tại chùa Xã Hổ, huyện Thuỵ Anh (Thái Bình).

[15] Như Sơn, Thiền uyển kế đăng lục, trang 295, nxb Hồng Đức.

[16] Thiền sư Tông Diễn không biết tên tục, quê quán có thể ở thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang.

[17] Đại lão Hoà thượng Thích Đức Nhuận (1897-1993), tên huý là Phạm Đức Hạp, Pháp hiệu Thanh Thiệu, Pháp danh Đức Huy, sinh năm Đinh Dậu (1897), tại thôn Quần Phương, xã Hải Phương, huyện Hải Hậu, Nam Định. Thân phụ là cụ Phạm Công Toán hiệu Thành Phủ; thân mẫu là cụ Lê Thị Vụ. Sinh trưởng trong một gia đình nề nếp Nho phong, Ngài bắt đầu đi học từ năm 7 tuổi. Thân phụ Ngài vốn là một danh y Đông dược, được Sư Tổ Chùa Đồng Đắc (tỉnh Ninh Bình) mời sang để chế thuốc phong cứu giúp dân làng. Do được theo hầu thân phụ, dần dần Ngài mến mộ cảnh yên tịnh chốn Thiền môn và năm 15 tuổi (Nhâm tý – 1912), Ngài nhận chân: cuộc đời là vô thường, thân người là giả tạm, nên Ngài xin phép song thân xuất gia đầu Phật.Ngài đắc pháp với Sư Tổ Thích Thanh Nghĩa (Tổ Thích Thanh Nghĩa, đắc pháp từ sư tổ Thích Tâm Nhân, thuộc thiền phái Tào Động tại chùa Quảng Bá – Hà Nội) khi đó đang trụ trì chùa Đồng Đắc, xã Đồng Hướng, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.

[18] Vào năm Giáp Thân niên hiệu Chính Hoà thứ 20, đời Lê Huy Tông (1704), Hoà thượng Thủy Nguyệt bước sang tuổi 68, cho gọi các đệ tử đến và dặn rằng: nay ta lên chơi trên núi Nhẫm, nếu 7 ngày không thấy về, thì các ngươi tìm thấy chỗ nào có mùi thơm thì ta ở đấy. Các đệ tử, tứ chúng đợi đúng 7 ngày mà không thấy Hoà thượng nhập thất bèn chia nhau nương theo mùi thơm lên núi vào hang vạch cỏ tìm kiếm và phát hiện thấy Ngài như đang thiền định trên một tảng đá trong hang núi. Tới nơi thấy thân thể vẫn còn nóng ấm, mền mại, sắc diện hồng hào như đang còn sống, nhưng hơi thở đã tắt lịm và từ cơ thể vẫn toả ra hương thơm ngào ngạt mùi trầm bạch đàn...Hôm đó là ngày 6 tháng 6 năm Giáp Thân  (1704)

[19] Theo cố Đại lão Hoà thượng Kim Cương Tử thì Hoà thượng Thủy Nguyệt là tổ khai sáng chùa Hoè Nhai (Hồng Phúc tự) ở phố Hàng Than, Ba Đình, Hà Nội

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 18)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 17)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 16)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 132
    • Số lượt truy cập : 7268775