KHẢO VỀ TRUYỀN ĐĂNG CHÙA CẢ
(THÁNH ÂN TỰ, PHƯỜNG VỊ XUYÊN, TP. NAM ĐỊNH) QUA
“CÚNG TỔ ĐẠI KHOA” VÀ VĂN BIA TRUYỀN THỪA TẠI CHÙA
HOÀNG THỊ THU HƯỜNG*
I. Vài nét về chùa Cả
Ngôi chùa nằm cạnh đình làng Vị Hoàng, nay thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Chùa xây dựng từ thời Trần tên chữ là Thánh Ân tự. Theo bài minh khắc trên chùa vào năm Cảnh Lịch thứ 6 đời Mạc Phúc Nguyên (1553) thì chùa trước đây xây ở Bến Ngự là nơi tu hành của một số hoàng phi, công chúa thời Trần. Đến thời Mặc Đăng Chính (1530-1539) nước sông Vị Hoàng lên to, bờ sông lở nhiều, người họ Trần ở đất Vị Hoàng chuyển chùa về một khoảng đất rộng, dựa vào rừng trúc, trông ra đầm sen. Chùa xây kiểu mới chữ Đinh, chính diện thờ Phật, bên phải dựng đền thờ thần Tản Viên, bên trái thờ Cao Mang Ðại Vương, một vị tướng dưới trướng của Linh từ Quốc mẫu thời Trần, người đã giúp vua Trần phản công chiến lược thắng giặc Nguyên Mông lần thứ nhất. Đến thời Khải Định (1914-1925) chùa mới được trùng tu lại như ngày nay.
Hiện tại trong chùa còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như tượng thờ, hoàng phi, câu đối, bia đá, trong đó có tấm bia Truyền đăng ghi lại sự truyền thừa các đời sư tổ trong chùa. Tuy nhiên, văn bia chỉ ghi tổ ba đời, nhưng đây là một tài liệu quý để chứng minh việc truyền thừa và tu tập ở chùa này theo phái Thiền Tào Động – một dòng Thiền được du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ XVII và phát triển mạnh mẽ ở miền Bắc Đại Việt lúc bấy giờ. Bổ sung đầy đủ hơn về việc truyền đăng, trong chùa còn có hệ thống vườn tháp tương đối nguyên vẹn, thêm nữa là sách Cúng tổ đại khoa của chùa đã kê đầy đủ các vị tổ trong chùa cũng như danh tính và một phần về hành trạng của các vị tổ. Trước khi đi vào giới thiệu cụ thể về Khoa cúng này, chúng tôi xin giới thiệu một chút về Thiền phái Tào Động cũng như quá trình truyền Tào Động vào Việt Nam.
II. Vài nét về Thiền phái Tào Động và Tào Động ở Việt Nam
Tào Động tông (zh. cáo-dòng-zōng 曹洞宗, ja. sōtō-shū) là một tông phái Thiền quan trọng tại Trung Quốc được hai vị Thiền sư sáng lập, là Động Sơn Lương giới và đệ tử là Tào Sơn Bản Tịch. Sau này, người ta ghép hai chữ đầu của tên hai vị và gọi là Tào Động.
Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận đã tổng hợp lại những đặc điểm của phái Thiền này, đó là nguyên tắc năm địa vị (ngũ vị) giữa thẳng (chính) và nghiêng (thiên). Ý niệm về địa vị giữa thẳng và nghiêng vốn là của Ðộng Sơn. Tào Sơn đã xếp đặt và trình bày lại ý niệm ấy, và truyền lại cho thế hệ kế tiếp. Thẳng ở đây tượng trưng cho tuyệt đối còn nghiêng tượng trưng cho tương đối. Tống Nho sau này có ý niệm về Lý và Khí rất tương tự với ý niệm về thẳng và nghiêng này.
Ðộng Sơn nói: "Có một vật trên thì chống trời, dưới thì đỡ đất. Nó đen như sơn, luôn luôn chuyển dịch và họat động". Ðó là cái thẳng. Cái thẳng còn có nghĩa là Tuyệt Ðối, là nền tảng của trời đất và muôn loài. Cái tuyệt đối ấy vốn không thể nắm bắt bằng khái niệm, không thể diễn tả được bằng ngôn từ.
Còn cái nghiêng? Cái nghiêng là khi cái thẳng đi vào thế giới hiện tượng, thế giới của sự vật tương đối.
Tuy nhiên, Thẳng và Nghiêng không phải là hai vật khác nhau: tương đối là đối với tuyệt đối mà có, tuyệt đối là đối với tương đối mà thành. Cũng như sóng là nước, nước là sóng. Sóng tuy nhiều nhưng là một, nước tuy một mà là nhiều. Thẳng và chân không, nghiêng là diệu hữu.
Sự liên hệ giữa Thẳng và Nghiêng làm thành năm địa vị như sau:
1) Cái thẳng đi vào cái nghiêng (Chính trung thiêng): Vì cái Tuyệt Ðối nằm trọn trong cái tương đối nên ta có thể hiểu được cái Tuyệt Ðối qua cái Tương Ðối. Ðộng Sơn có nói: "Trong cái Tuyệt Ðối đã có cái Tương Ðối rồi, nếu không thì hóa ra cái Tuyệt Ðối có trước cái Tương Ðối sao?"
2) Cái nghiêng đi vào cái thẳng (Thiên trung chính). Vì cái Tương Ðối chỉ có thể có do nhờ cái Tuyệt Ðối, cho nên trong cái Tương Ðối phải xáp mặt cho được cái Tuyệt Ðối. Ðộng Sơn lại nói: "Cái Tương Ðối đã có trong cái Tuyệt Ðối rồi, nếu không thì hóa ra cái Tương Ðối có trước cái Tuyệt Ðối sao?"
3) Cái nghiêng trong tự thân của nó (Chính Trung lai). Ðây là cái Tuyệt Ðối trong tư thế tuyệt đối của nó, không được nhận thức qua liên hệ bản thể - hiện tượng. Ðây là pháp thân, là chân như.
4) Cái nghiêng trong tự thân cả nó (Thiên trung chi). Ðây là cái Tương Ðối trong tư thế tương đối của nó, không được nhận thức qua liên hệ bản thể - hiện tượng. Ðộng Sơn ví trường hợp này như là trường hợp hai người đang đấu kiếm với nhau, không bên nào áp đảo được bên nào. Hoặc là một bông sen nở trong lò lửa, không hề bị lửa cháy xém. Người đạt đến vị trí này là người đã thâm nhập thế giới pháp thân và trở ra tung hoành nơi thế giới hiện tượng.
5) Cái thẳng và cái nghiêng trong cùng một tự tính (Kiên trung đáo). Tới vị trí này thì mọi phân biệt giữa Tuyệt Ðối và Tương Ðối, bản thể và hiện tượng, không còn nữa.
Năm vị trí giữa thẳng và nghiêng cũng được giải thích bằng năm sự liên hệ giữa vua và tôi (ngũ vị quân thần). Có vua là vì có bầy tôi, có bầy tôi là vì có vua:
1. Vua trông thấy bầy tôi.
2. Bầy tôi hướng về vua
3. Vua (một mình)
4. Bầy tôi (một mình)
5. Vua và bầy tôi (bên nhau).
Sau này trong phái Tào Ðộng, những chủ trương sau đây dần dần lại được hình thành:
1) Chỉ cần ngồi thiền mà không cần chủ đề thiền tọa (chỉ quán đả tọa)
2) Ngồi thiền và đạt đạo là một việc chứ không phải là hai (tu chứng nhất như)
3) Không trông chờ sự chứng đắc (vô sở đắc)
4) Không có đối tượng giác ngộ (vô sở ngộ)
5) Tâm và thân nhất như (thân tâm nhất như)
Những nguyên tắc trên dần dần được áp dụng trong các thiền phái khác. Thiền sư Phân Dương (947- 1024) của phái Lâm Tế chẳng hạn cũng đã sử dụng khái niệm về năm vị trí giữa cái thẳng và cái nghiêng. Khái niệm "vô đắc" cũng rất được phổ thông trong thiền phái Lâm Tế. Ngược lại, lối dùng thoại đầu cũng được áp dụng trong thiền phái Tào Ðộng.[1]
Tào Động ở Việt Nam
Tào Động vào Việt Nam khoảng thế kỷ XVII, song song cả đàng Trong và đàng Ngoài. Thiền phái Tào Động có mặt ở Đàng Trong của Đại Việt cùng với Quốc sư Hưng Liên, tọa chủ đạo tràng chùa Tam Thai (Quảng Nam). Quốc sư Hưng Liên cũng có tham dự Đại giới đàn chùa Thiền Lâm năm 1695.
Người có công lớn nhất trong công việc truyền bá, tạo sự phát triển cho Thiền phái Tào Động ở Đàng Trong là Thiền sư Thạch Liêm (1633 – 1704). Ông người đất Giang Tây, Trung Hoa, hiệu là Đại Sán Hán Ông, xuất gia từ thời trẻ, cầu học nơi Thiền sư Giác Lãng, kế vị Thiền sư Thật Hành trụ trì chùa Trường Thọ ở Quảng Đông. Ông có tài về thi ca, hội họa, kiến trúc, nên chùa Trường Thọ dưới thời ông trụ trì đã là một danh thắng nổi tiếng.
Thiền phái Tào Động truyền vào và phát triển ở Đàng Ngoài của Đại Việt là vào hậu bán thế kỷ 17, công đầu do hai vị là Thiền sư Thủy Nguyệt (1636 – 1704) và Thiền sư Tông Diễn (? – 1709).
Thiền sư Thủy Nguyệt tên là Đăng Giáp, hiệu là Thông Giác, người huyện Hưng Nhân, Thái Bình, trụ trì một ngôi chùa trên núi Hùng Lĩnh. Năm 1664, ông cùng với hai người đệ tử sang Trung Hoa cầu học nơi Thiền sư Nhất Cú Tri Giáo thuộc tông Tào Động, tại núi Phụng Hoàng. Năm 1667, ông cùng với hai đệ tử trở về nước, cư trú tại chùa Vọng Lão ở An Sơn, Đông Triều (Hải Dương), dốc sức mở mang thiền phái. Thiền sư Thủy Nguyệt cũng từng hành đạo ở chùa Tư Phúc, Côn Sơn, chùa nơi núi Nhẫm Dương ở Hạ Long.
Vị đệ tử được Thủy Nguyệt truyền pháp là Thiền sư Tông Diễn. Thiền sư Tông Diễn hiệu là Chân Dung, vốn người Đông Sơn, Hải Dương, có thể đã từng theo học Thiền sư Tuệ Nhãn tại đạo tràng Đông Sơn, trước khi tham yết cùng đắc pháp nơi Thiền sư Thủy Nguyệt, rồi ra sức hoằng dương Thiền pháp. Sau Tông Diễn, Thiền phái Tào Động đã được nối tiếp và phát triển tốt ở Đàng Ngoài, như văn bia nơi chùa Hồng Phúc đã ghi rõ về sự truyền thừa qua nhiều đời[2].
III. Về truyền thừa tại chùa Cả (Thánh Ân tự) qua Khoa cúng tổ và Văn bia truyền đăng của chùa
Khoa Cúng tổ của chùa Cả là một cuốn sách bằng giấy dó, gồm 65 trang đơn, trên sách không ghi niên đại. Đầu sách là bài thơ nói về nguồn gốc của chi phái này, cụ thể như sau:
Nam giao phúc địa tụy trình tường |
南 郊 福 地 瑞 呈 祥 |
Bắc lũ chân truyền thế hiển dương |
北 縷 真 傳 世 顯 揚 |
Phái diễn Tào Khê lưu Vị Thủy |
派 演 漕 溪 流 渭 水 |
Đạo hưng Vị Bản vĩnh Xuân Trường |
道 興 務 本 永 春 長 |
Tứ khôi đức hiệp thông tam giới |
四 瑰 德 洽 通 三 界 |
Bách cốc danh đằng xuyên ngũ hương |
百 穀 名 騰 串 五 香 |
Thử nhật ân cần thân lễ thỉnh |
此 日 慇 懃 伸 禮 請 |
Cung kỳ tôn đức giáng trai đường |
恭 祈 尊 德 降 齋 堂 |
Tạm dịch là:
Nam Giao đất phúc điềm lành hiện
Dây Bắc chân truyền thêm hiển vinh
Dòng chảy Tào Khê đến Vị Thủy
Đạo hưng Vụ Bản đất Xuân Trường
Bốn khối đức hợp thông tam giới[3]
Trăm thức bao trùm cùng ngũ hương
Ngày nay ân cần bày lễ thỉnh
Cúng cho tôn đức xuống trai đường
Ngay trong bài thơ này đã nói lên nguồn gốc dòng tu của chùa, có nguồn gốc từ dòng Tào Khê ở phương Bắc, ý chỉ đến tông phái Thiền Tào Động truyền đến đất Vị Thủy, đất Xuân Trường, Vụ Bản, Nam Định.
Tiếp sau là phần cúng chung cho các bồ tát, cho các vị phật ở Tây phương, phần cúng cho các vị tổ ở Việt Nam, phần còn còn lại cụ thể cúng các nhân vật sau:
1 – Ân Quang tháp, Thanh Lâm tỳ khưu, tên húy là Sinh Nghĩa, tên hiệu là Minh Văn thiền sư, vốn sinh trong gia đình họ Nguyễn ở đất Bắc Trà, huyện Xuân Trường. Sư xuống tóc thọ giới tại chùa Cảnh Linh, từng tu tập tại chùa Thiên Thọ.
2 – Phúc Ân tháp tỳ khưu, tên húy là Quang Đạt, tên hiệu là Thanh Hoằng Thông Tuệ thiên sư. Sư được sinh ra trong gia đình họ Phạm.
3 – Diên Quang tháp ma kha sa môn pháp, tên húy tên chữ là Chính Đức, tên hiệu là Khoan Nhân Tinh Tiến bồ tát, sư được sinh ra trong gia đình họ Phạm;
4 – Viên Minh tháp ma kha sa môn, tên chữ là Chính Đàn, tên hiệu là Trọng Văn hóa thân bồ tát;
5 – Quang Minh tháp ma kha sa môn, tên chữ là Chính Lương, tên hiệu là Cần Kiệm hóa thân bồ tát;
6 – Tuệ Quang tháp sắc tứ Tăng thống Đạo Nguyên hòa thượng, Thanh Bạch tỳ khưu, pháp húy là Giác Đạo Ngạn Như Thường thiền sư;
7 – Phúc Viên tháp ma kha sa môn, pháp húy là Thích Tâm, đạo hiệu là Chân Tĩnh bồ tát. Sư sinh ra trong gia đình họ Nguyễn ở xã Trà Khê, hạt Xuân Trường, Nam Định;
8 – Hồng Ân tháp ma kha sa môn tỳ khưu bồ tát, giới pháp húy là Thích Tâm Thông, tên chữ là Huyền Cơ thiền sư, là con cháu dòng họ Trần;
9 – Viên Tịnh tháp, Vô Ngã tỳ khưu, pháp húy là Thích Tâm Điện, tên chữ là Chân Thường An Lạc thiền sư;
10 – Từ Quang tháp ma kha tỳ khưu giới mật hành, pháp húy là Gia Thái, tên chữ là Độ Sinh Bồ Tát, con cháu dòng họ Trần.
11 – Hợp cúng các nhân vật: Cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỷ cùng chúng sinh từng vãng lai qua bản môn pháp phái. Trong đó có Tuệ quang tháp Đạo Nguyên Như Thường Thiền sư; Bồ Tát giới pháp, húy là Thanh Trì thiền sư; Phúc Điền tháp Bồ tát giới pháp, húy là Thông Hữu; Bồ Tát giới pháp húy là Liên Mộ, hiệu là Bích Đàm; Bồ Tát giới pháp, húy là Sinh Nghiêm thiền sư; Hương Quang tháp ma ha sa môn truyền Tào Động phái Thích Ca Ca Luật Sư, húy là Quang Tuyên Bồ Tát; Quang Tiền tháp ma ha tỳ khưu, pháp húy Thích Quang Nghiêm, hiệu là Chính Tâm bồ tát; Bồ tát giới pháp húy là Quang Minh thiền sư; Từ Vân tháp ma ha sa môn pháp, húy tự là Tâm Cần, hiệu là Trung Thận Thích Bính Bính thiền sư; Tỳ khưu giới pháp, húy tự là Chính Tuần thiền sư; Tĩnh Minh tháp tỳ khưu giới, húy là Thanh Cẩn Quang Diệu, hiệu là Như Thường bồ tát; Tào Động phái ma ha sa môn pháp, túy tự là Chính Kỷ bồ tát thiền sư; Tỳ Khưu giới pháp húy là Chính Niệm thiền sư; Bồ tát giới pháp húy là Tâm Nhiên thiền sư; Tỳ khưu giới pháp húy là Tâm Y thiền sư; Tĩnh Quang tháp bồ tát giới pháp húy là Tâm Nhạ, hiệu là Trung Trực thiền sư; Chân Không tháp tỳ khưu giới pháp húy tự là Tâ Châu, hiệu là Lạc Xuân Giác Linh; pháp húy Quỳnh Trân; Độ Sinh, Chấn, Chính Tâm, Chính Vấn, Phúc Kiến, Thanh Tuấn, Tâm Huyền, Tâm Chiêu, Sâm, Tần, Tâm Ân, Tâm Cần, Tâm Không, Tâm Sính; Thanh Tâm, Tâm Nguyên, Phụng, Tôn, Nho, Trí, Thanh Quang, Thanh Tốc, Thanh Phúc, Thanh Tụng, Thanh Định, Thanh Toại, Thanh Di, Thanh Phùng; Cảnh Linh tháp tỳ khưu giới pháp húy là Thích Tâm Tôn, pháp húy Thanh Tứ, Xán, Kiên, Thanh Nhân, Quýnh, Mậu, Điều, Phương, Du, Triêm, Thanh Kim, Viễn, Thanh Liên, Thanh Dương; pháp húy Chiêu hiệu là Minh Năng, Thích Đàm An, Căn, Chân Nguyên; pháp húy Đàm Bích, hiệu là Như Kim; Ma ha tỳ khưu ni, pháp húy là Thích Đàm Thời, Thích Đàm Tước; pháp húy Thích Đàm Tân, tên hiệu là Tín Thành, tên chữ là Đàm Sự; tên chữ là Đàm Hợp; pháp húy là Thích Đàm Cận, Thích Đàm Hòa.
Ngoài “Cúng tổ đại khoa”, trong chùa còn lưu giữ nhiều văn bia, trong đó chúng tôi quan tâm đến bia Thánh Ân tự truyền đăng bi. Nội dung nói đến ba vị tổ của chùa.
Vị tổ thứ nhất được sinh ra ở đất Trà Bắc Quý Hương, trong gia đình họ Nguyễn, thụ giới tại chùa Cảnh Linh, là chân truyền của Đạo Ngạn hòa thượng, tên húy là Thanh Lâm, tên chữ là Sinh Nghĩa, tên hiệu là Minh Văn bồ tát, sư có công trùng tu chùa Thánh Ân, chùa Linh Sơn và chùa Ngôi Sơn, viên tịch ngày 22 tháng 7;
Tổ thứ hai là Phúc Ân tháp sa môn, tên húy là Quang Đạt, tên chữ là Thanh Hoằng Thông Tuệ bồ tát, sư có công trùng tu các chùa Diên Phúc, Cảnh Hội; ngài viên tịch vào ngày 17 tháng 11, sinh ra trong gia đình họ Phạm, xã Thọ Vực, huyện Xuân Trường. Pháp tự tên chữ là Chính Đức, Chính Đàn, Chính Lương hiệu là Minh Năng bồ tát;
Tổ thứ ba là Viên Minh tháp sa môn, tên húy là Chính Đàn, tên tự là Trọng Văn Bỉnh Thành bổ tát. Sư có công trùng tu các chùa Nại…[4], chùa Trần Minh, viên tịch vào ngày mùng 8 tháng 5. Là con trong gia đình họ Nguyễn, xã Nại Khê, tỉnh Hưng Yên. Các pháp tử có tên chữ là… [5]
Bia được dựng ngày tốt tháng 2 năm Kỷ Hợi (1959), tương ứng với Phật lịch là năm 2505.
IV. Nhận xét
Như vậy, qua khảo cứu Khoa cúng và Văn bia truyền đăng còn lưu giữ tại chùa, chúng ta có thể tổng kết được một số điểm sau:
Thứ nhất: chùa Cả (Thánh Ân tự) là một trong những ngôi chùa tu tập theo dòng thiền Tào Động, tổ của chùa có tên chữ là Sinh Nghĩa, đứng hàng thứ 9 tính từ thiền sư Thủy Nguyệt Thông giác (là tổ đời thứ nhất của phái Tào Động tại Việt Nam)[6], sau đó lần lượt là các chữ Quang, Chính, Tâm…
Thứ hai: ghi chép giữa văn bia và khoa cúng tổ có sự khác nhau. Trong khoa cúng, tổ đời thứ ba là Diên Quang tháp ma kha sa môn pháp, tên húy tên chữ là Chính Đức, tên hiệu là Khoan Nhân Tinh Tiến bồ tát, còn trong văn bia lại ghi là Viên Minh tháp sa môn, tên húy là Chính Đàn, tên tự là Trọng Văn Bỉnh Thành bổ tát. Vị này chính là vị tổ thứ tư trong khoa cúng. Như vậy, vị tổ được cho là thứ ba trong khoa cúng không được ghi trên văn bia mà được thay bằng vị tổ thứ tư (trong khoa cúng). Xét về mặt tên hiệu, cả hai vị này đều đứng hàng chữ Chính, tức là trong thực tế, có lẽ đây là hai huynh đệ trong cùng thời gian tu tập. Vậy vị tổ thứ ba của chùa này chính xác là ai còn là một câu hỏi cần được tìm hiểu và giải đáp.
Thứ ba: tuy có sự không trùng khớp về mặt nội dung giữa khoa cúng và văn bia truyền đăng, nhưng những tư liệu này thực sự là những tài liệu quan trọng góp phần vào việc tìm hiểu và làm rõ sự truyền đăng trong chùa Cả (Thánh Ân tự) nói riêng và với dòng Thiền Tào Động ở Việt Nam nói chung.
* Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm KHXHVN.
[1] Xem thêm Nguyễn Lang, Phật giáo Việt Nam sử luận, chương 23 – Thiền phái Tào động đến Việt Nam
[2] Xem thêm Thiền phái Tào Động ở Đàng Trong, Web: http://thienphatgiao.org/2013/10/thien-phai-tao-dong-o-dang-trong/
[3]. Tam Giới đó là: Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Còn gọi là Tam giới, còn nằm trong luân hồi sinh tử. Thứ tự từ thấp đến cao:
1. Dục giới: có 6 cảnh giới từ thấp tới cao theo sự chiêu cảm từ ác nghiệp đến thiện nghiệp tăng dần (1. Địa ngục, 2. Súc sanh, 3. Ngạ quỉ, 4. A tu la, 5. Người, 6. Cõi trời Dục giới). Riêng cõi trời Dục Giới có 6 cõi (Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên)
2. Sắc giới: gồm có 4 cảnh giới đó là: 1/Sơ Thiền Thiên (Phạm Thân Thiên, Phạm Phụ Thiên, Đại Phạm Thiên), 2/ Nhị Thiền Thiên (Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, Cực Quang Tịnh Thiên), 3/ Tam Thiền Thiên ( Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên), 4/ Tứ Thiền Thiên (Vô Vân Thiên, Phúc Sinh Thiên, Quảng Quả Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Sắc Cứu Kính Thiên, Hòa Âm Thiên, Đại Tự Tại Thiên)
- Riêng Vô Tưởng Thiên, Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Sắc Cứu Kính Thiên, Hòa Âm Thiên, Đại Tự Tại Thiên còn gọi chung một tên là Tịnh Phạm Thiên.
3. Vô Sắc Giới: gồm 4 cảnh giới đó là: 1/ Không Vô Biên Xứ, 2/ Thức Vô Biên Xử, 3/ Vô Sở Hữu Xứ, 4/ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xử
[4]. Chữ mờ không đọc được
[5] Chữ mờ không đọc được
[6] Bài kệ truyền thừa dòng Tào Động
Tịnh trí thông tông |
凈智通宗 |
Từ tính hải khoan |
慈性海寬 |
Giác đạo sinh quang |
覺道生光 |
Chính tâm mật hạnh |
正心密行 |
Nhân đức di lương |
仁德彌良 |
Tuệ đăng phổ chiếu |
慧燈常照 |
Hoằng pháp vĩnh trường |
弘法永長 |
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết