Thông tin

KHỞI ĐẦU VÀ KẾT THÚC MỘT NGÀY BẰNG THIỆN PHÁP

KHỞI ĐẦU VÀ KẾT THÚC MỘT NGÀY BẰNG THIỆN PHÁP

         

VŨ ĐÌNH LÂM

 

 

 

Một ngày mới của tôi bắt đầu lúc 5h kém 15' sáng. Khi chuông báo thức reo, vẫn còn đang nằm trong chăn, việc đầu tiên khởi lên trong tâm thức tôi là niệm hồng danh 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp và 9 Ân đức Tăng.

Sau khi vệ sinh cá nhân xong, tôi chuẩn bị cho việc hành lễ buổi sáng gồm thay nước, pha trà, xông trầm cúng dường Tam bảo.

Nghi lễ bắt đầu bằng việc đảnh lễ Tam bảo, sám hối Okāsa, lễ bái Tam bảo, xin Tam Quy, Ngũ Giới, tụng 1 thời Kinh sau đó rải tâm từ đến các hạng chúng sinh. Sau khi cúng dường Đức Phật phần danh sắc của mình, tôi bắt đầu hành thiền.

Khi ngồi thiền, tôi thường giữ lưng cho thẳng nhưng thư thả, nhẹ nhàng, tư thế thăng bằng, không căng thẳng. Đầu giữ thẳng, cân bằng trên vai, mặt hướng về tượng Đức Phật, mắt khép hờ để tránh việc rơi vào hôn trầm thụy miên.

Nhiều người hay ngồi ngay trên sàn nhà, theo tư thế kiết già hay bán kiết già như ta thường thấy qua các tượng Phật, và họ cho rằng đó là tư thế tốt nhất. Riêng phần tôi, vì không thể ngồi kiết già nên tôi thường ngồi trên một tọa cụ, hai chân đặt song song 1 bên. Tư thế đó cũng tạo được ba điểm tựa vững chắc để nâng đỡ thân thể, với bàn tọa đặt trên gối nệm và hai đầu gối chạm mặt đất. Với hai tay nhẹ nhàng đặt trên đùi, bàn tay để chồng lên nhau, tay phải ở trên, hai đầu ngón cái chỉ chạm nhẹ vào nhau. Khi thọ khổ khởi lên do ngồi quá lâu trong 1 tư thế, tôi thường chánh niệm quan sát cảm thọ, ghi nhận cảm thọ đó từ khi sinh khởi đến lúc biến diệt.

Trong lúc hành thiền, để giữ được sự an lạc, tôi thường tập cười mỉm, giống như nụ cười hiền hòa thường thấy ở Đức Phật. Khép nhẹ đôi mắt, tôi ghi nhận cảm giác của toàn thân, từ đỉnh đầu xuống đến bàn chân, ghi nhận tư thế ngồi vững vàng, thoải mái. Rồi tự nhủ thầm: "Bây giờ, tôi sẽ bắt đầu hành thiền, chú tâm vào hành thiền, không quan tâm đến việc gì khác".

Bước đầu của việc hành thiền là theo dõi hơi thở. Thở tự nhiên, điều hòa, bình thường, không cố ý ép thở nhanh hoặc chậm, dài hay ngắn. Chú ý để tâm nơi lỗ mũi, theo dõi hơi thở vào... ra... vào... ra... Chú tâm đến luồng hơi khi nó vừa đến chạm lỗ mũi, và khi luồng hơi khi sắp sửa thoát ra khỏi mũi. Với chánh niệm, tôi thường gắng ghi nhận sự chạm xúc, các cảm giác, sự nóng lạnh, tiếng hơi va chạm trong lỗ mũi. Giống như lời dạy của các Bậc Thiền sư rằng ta hãy chú ý ghi nhận tất cả nhưng không phân tích, bình luận hay giải thích gì hết. Chỉ đơn thuần là một sự ghi nhận. Dần dần, tôi thấy hơi thở trở nên nhu nhuyễn, nhẹ nhàng hơn, thậm chí có cảm giác là dường như không còn thở nữa. Nghĩa là hơi thở đã được an tĩnh và cảm giác trở nên rất dễ chịu. Lúc đó, cảm giác ta như tan biến, chỉ có một hơi thở đang xảy ra, và một sự nhận biết, ghi nhận, theo dõi hơi thở đó mà thôi.

Việc bám sát vào đề mục trong thời gian dài có thể giúp cho công phu hành thiền tiến triển tốt đẹp. Với phương pháp hành thiền quán niệm hơi thở Anapanasati, bạn có thể quán sát, ghi nhận từng hơi thở, diễn trình của luồng hơi, từ lúc sinh khởi cho đến khi tận diệt. Khi nó đi vào cũng như đi ra. Mỗi một hơi thở là một hiện tượng mới lạ, một cảm giác mới lạ. Bạn ghi nhận, theo dõi, rồi buông bỏ khi nó tàn diệt. Rồi tiếp tục ghi nhận hơi thở khác, mới vừa sinh khởi. Hãy gắng chánh niệm quan sát quá trình sinh diệt của hơi thở. ta chỉ dừng lại ở mức độ quan sát và ghi nhận mà thôi.

Theo lời chỉ dạy của các Thiền sư, hàng ngày, tôi tập ngồi thiền khoảng 15 phút. Rồi gia tăng dần thêm 5, 10 phút trong các tuần lễ kế tiếp, cho đến khi tôi có thể hành thiền trong khoảng 30 đến 45 phút. Để ấn định thời gian hành thiền, có người thắp một nén nhang và ngồi thiền cho đến khi cây nhang tàn rụi. Tôi thì đặt đồng hồ rung để báo hiệu đến khi quen với thời gian định sẵn thì mới bỏ đồng hồ báo giờ.

Trong lúc hành thiền, tâm ta thường như 1 chú khỉ luôn ngọ ngoạy, lang bang suy nghĩ vẩn vơ, rồi nhiều hiện tượng xuất hiện trong đầu. Đó là điều rất tự nhiên mà hành giả nào cũng phải trải qua. Tôi thường gắng nhận biết chúng, rồi quay về với đề mục hành thiền là quán niệm hơi thở tại lỗ mũi.

Trong cuốn Pháp môn niệm Ân Đức Phật, Ngài Hộ Pháp dạy rằng nếu thấy gặp trở ngại trong việc định tâm, ta có thể quán niệm Ân đức Phật như 1 cách dễ dàng đạt sự định tâm. Khi ta chánh niệm niệm thầm ở trong tâm nhiều lần là "Buddho... Buddho... Buddho..." với mong muốn định tâm an trú nơi Ân đức Phật, khi tâm đã tương đối định rồi thì tôi bỏ pháp niệm đó để trở về đề mục chính là quan sát hơi thở vào ra tại lỗ mũi.

Khi hành thiền buổi sáng, vì cả nhà chưa thức dậy nên không gian rất tĩnh lặng, thích hợp với việc hành thiền. Nhưng chính sự yên tĩnh đó vẫn làm cho tôi bị phóng tâm, suy nghĩ vẩn vơ hay rơi vào trạng thái hôn trầm thụy miên. Tôi hiểu đó là những trở ngại thông thường mà hành giả đều phải đối diện và nhận biết nên không bi quan, nản chí, hay nóng nảy, buồn giận mà tập kiên nhẫn và tỉnh giác để rèn luyện tâm ý. Việc thực tập đều đặn đề mục quán niệm hơi thở đã dần mang lại những tiến bộ không ngờ cho bản thân tôi.

Sau khi quán niệm hơi thở và quán cảm thọ, tôi chyển sang quán niệm rải tâm từ. Vẫn tư thế ngồi an tịnh, với nụ cười mỉm trên môi, với tâm tỉnh giác và buông xả, tôi thầm nguyện trong tâm: "Xin cho tôi được an lạc". Với niềm vui nhẹ nhàng đó, tôi đưa tâm ghi nhận từng nơi trên thân thể, từ đỉnh đầu đến mặt, hai vai, hai tay, ngực, bụng, bắp đùi, rồi bàn chân. Thông thường, khi làm như thế, tôi thấy có một cảm giác ấm áp, an nhẹ bao trùm toàn thân thể. Với cảm giác an bình như thế, tôi bắt đầu hướng tâm đến những người thân, nguyện cho họ được an lạc. Rồi hướng tâm đến các Bậc Thầy Tổ, Chư Tăng Ni, đến bạn hữu, những người quen và không quen, còn oan trái và không oan trái đang sống tại thành phố này, tại đất nước này, trên thế giới này, và dần hướng Tâm Từ đến toàn thể nhân loại, toàn thể chúng sinh đang luân hồi trong cõi Ta bà. Mỗi lần chuyển đối tượng, tôi dừng lại vài phút, nghĩ đến đối tượng đó với cảm giác nồng ấm, an lạc, và nguyện cho họ cũng được an lạc như thế.

Vẫn trong oai nghi ngồi đó, tôi thành kính hướng về tượng và tháp Xá Lợi của Đấng Đạo sư, tạ ơn Ngài đã dạy bảo cho tôi con đường giải thoát khổ, sau đó tôi hồi hướng, chia phần phước thiện tụng kinh, hành thiền tới toàn thể chư Thiên và nhân loại.

Tôi cũng duy trì được việc tụng Kinh hộ trì Paritta tại văn phòng để gieo duyên và cúng dường chư Thiên và các hạng chúng sanh tại nơi tôi làm việc. Thông thường, Phật sự đó sẽ được làm vào buổi trưa hoặc trước giờ nghỉ chiều.

Buổi tối, do không có phòng thờ riêng, cả vợ và các con đều ở nhà nên tôi dành nhiều thời gian cho việc tụng kinh hơn là hành thiền. tôi duy trì việc tụng bài Kinh Đại Niệm Xứ Mahāsatipaṭṭhānasutta, Kinh Chuyển Pháp Luân Dhammacakkappavattanasutta và Kinh Vô Ngã Tướng Anattalakkhaṅasutta theo tuần tự từng phần (Việc này do Bhante  Kusalaguṇa Thiện Đức hướng dẫn khi tôi thỉnh Sư dạy bảo về Phật sự hàng ngày của cư sĩ tại gia).

Khi việc nhà đã hoàn thành cũng là lúc ngoài ngõ nhà tôi vắng người qua lại, vì khu nhà chúng tôi là ngõ cụt, có cổng sắt bên ngoài với chiều dài khoảng 150m x 6m nên rất thích hợp với việc đi kinh hành buổi tối hoặc sáng sớm. Tôi thường đi kinh hành trong tư thế hai tay buông thõng, đặt trước thân, mắt hé nhìn xuống đất, nét mặt tươi tỉnh, tôi từ tốn cất bước theo nhịp đi chậm rãi bình thường của mình.  Khi kinh hành, tôi trú tâm vào mỗi bước đi, ghi nhận từng cảm giác khi bàn chân chạm mặt đất, chân phải rồi chân trái. Cảm giác khi bàn chân vừa chạm đất, khi trọng lượng toàn thân đè lên bàn chân, khi bàn chân vừa nhấc lên... rồi nhanh chóng đưa tâm sang ghi nhận bàn chân kia. Mỗi bước chân là một tiến trình mới lạ mà tôi chỉ đơn thuần ghi nhận cảm giác đó mà thôi.

Sau một thời gian tập kinh hành như vậy, tôi đã có thể cảm nhận được cảm giác an lạc, nhẹ nhàng bao trùm toàn thân trong lúc di chuyển. Khi trú tâm vào bước chân thì cảm nhận của tôi giống như không phải là có một thân hình nào đang chuyển động, mà chỉ là sự cử động bước đi nhịp nhàng và một sự nhận biết, lặng lẽ theo dõi các bước di chuyển đó. Các cảm nhận này xảy đến đột ngột, tự nhiên, rồi cũng tan biến 1 cách đột ngột, tự nhiên.

Trong lúc kinh hành, nếu thấy bị phóng tâm thì tôi lại tỉnh giác nhận biết mình đang phóng tâm, ghi nhận tâm đang xảy ra lúc đó rồi hướng tâm trở lại với "dỡ lên, bước tới, đặt xuống, ấn xuống đất" để đưa tâm về an trú trên bước chân. Đôi lúc khi bị phóng tâm, tôi cũng áp dụng phương pháp niệm Ân đức Phật "Buddho" để an định tâm. Khi bàn chân phải chạm đất, tôi niệm "Bud". Khi bàn chân trái chạm đất, tôi niệm "Dho". cứ "Bud... phải; Dho... trái; Bud... phải; Dho... trái; Bud... Dho... Bud... Dho" Tiếp tục như thế cho đến khi tâm đã ổn định thì tôi bỏ niệm Buddho và quay về chú ý ghi nhận cảm giác của mỗi bước đi.

Thông thường, cứ đi khoảng 20 bước thì tôi đứng lại vài giây, ghi nhận cảm giác toàn thân trong tư thế đứng, rồi tiếp tục bước đi. Tôi thực tập như thế khi đi vài vòng trong sân, việc kinh hành giúp lưu thông khí huyết, hít thở không khí trong lành ngoài trời, làm tâm an tịnh và giúp cải thiện cả vấn đề xương khớp cho tôi. Sau khi kết thúc kinh hành, nếu là buổi tối thì việc hành thiền thường chỉ diễn ra sau khoảng 23h. Tôi sẽ hành thiền đến lúc nào thấy thật sự buồn ngủ thì sẽ xả thiền và nghỉ ngơi. Việc cuối cùng trước khi chìm vào giấc ngủ sẽ vẫn là niệm tưởng đến hồng danh 9 Ân đức Phật, 6 Ân đức Pháp và 9 Ân đức Tăng.

Nhớ lại lời dạy của Bhante Indacanda  "một tuần làm Phật sự 1 lần thì được 1 chút lợi ích, hàng ngày hành Phật sự sẽ được gấp 7 lần lợi ích, hàng ngày hành Phật sự 2 lần sẽ được 14 lần lợi ích".

Sādhu! Sādhu! Sādhu lành thay!

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 22
    • Số lượt truy cập : 6115372