LỊCH SỬ DI TÍCH CHÙA NHẪM DƯƠNG
Tỳ kheo ni THÍCH DIỆU MƠ*
Di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và các hang động nằm tại thôn Nhẫm Dương, xã Duy Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Đầu thế kỷ XIX, thôn Nhẫm Dương thuộc xã Duyên Linh, tổng Thượng Chiểu, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, các thôn Nhẫm Dương, Trại Xanh, Kim Bào, xã Châu Xá, xã Duyên Linh hợp nhất với nhau gọi là xã Duy Tân. Hiện nay xã Duy Tân có 5 thôn thuộc huyện Kinh Môn. Khu vực khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và các hang động thuộc khu vực núi đá vôi xã Duy Tân được hình thành do sự biến động của thiên nhiên cách ngày nay hàng triệu năm. Hệ thống núi đá vôi cùng các hang động đã tạo nên một cảnh quan thiên nhiên, hệ sinh thái rừng núi tôn thêm vẻ đẹp cho khu di tích.
Chùa Nhẫm Dương tên chữ là Thánh Quang tự, được khởi dựng từ thời Trần, ở lưng chừng núi phát hiện nền móng một ngôi chùa có từ thời Trần, hiện còn một chân tảng đá hoa sen cách điệu. Vào thế kỷ 17 nơi đây là chốn Tổ của phái Tào Động Việt Nam. Có thể nói đây là khu di tích có lịch sử xuyên suốt từ thời tiền sử đến nay. Đặc biệt đây còn là nơi trụ trì của Thánh Tổ Đạo Nam Thông Giác Thuỷ Nguyệt ̣(1637-1704), Đệ nhất tổ của Thiền phái Tào Động Việt Nam ở thế kỷ 17, 18. Ngài tên là Đăng Giáp, quê làng Thanh Triều, huyện Ngự Thiên, phủ Tiên Hưng, đạo Sơn Nam (nay là thôn Hải Triều, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Ngài vốn theo Nho học thi đậu Cống cử tứ trường rồi mới đi tu. Theo thầy học 6 năm rồi đi vân du tham vấn khắp nơi. Năm 28 tuổi Ngài sang Trung Quốc tìm thầy học. Năm 1665, Ngài đến núi Phượng Hoàng, Hồ Châu (Trung Quốc) học đạo với Thiền sư Nhất Cú Tri Giáo đời thứ 35 phái Tào Động, đến năm 1667 trở về nước hoằng dương đạo pháp, trở thành tổ đời thứ 36 của phái Tào Động Trung Quốc và là Tổ đời thứ nhất của Tào Động Việt Nam. Hiện nay tại chùa vẫn còn tháp đá 5 tầng đặt xá lị của Thánh Tổ và bức tượng Thánh Tổ bằng đá xanh có niên đại thế kỷ 18 có khắc trên viền áo chéo trước ngực các chữ Hán: “Nam vô Viên Quang? Thuỷ Nguyệt hoà thượng quốc sư” và ở chân bệ tượng có các chữ: “Tam nguyệt sơ lục nhật kị”.
Người kế tục sự nghiệp của Thánh Tổ Thuỷ Nguyệt làm Đệ nhị Tổ là Hòa thượng Tông Diễn hiệu Chân Dung (1640-1711), quê tại làng Phú Quân, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Ngài là người đã khuyên ngăn vua Lê Hy Tông đuổi các tăng ni vào rừng núi, cấm không cho ở chùa làng quê, khiến cho nhà vua nghe ra thu hồi lệnh trước. Ngôi tháp đá xanh 3 tầng chứa xá lị của Ngài hiện vẫn được bảo tồn nguyên vẹn phía sau nhà tổ chùa Nhẫm Dương. Năm 1952, chùa bị thực dân Pháp tàn phá nặng nề. Sau năm 1954, nhân dân dựng lại bằng tranh tre nứa lá làm nơi thờ Phật. Sau năm 1975, chùa được xây lại bằng gạch, quy mô nhỏ. Năm 1996 chùa được trùng tu với quy mô lớn, kiến trúc kiểu chữ Công (I), chất liệu bê tông cốt thép. Năm 2008 xây dựng thêm nhà tổ, nhà tăng, nhà khách và nhiều công trình phụ trợ tiếp tục được tôn tạo, mở rộng.
Khu di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương có 2 hang quan trọng: hang Thánh Hóa và hang Tối.
- Hang Thánh Hoá nằm ở vị trí chân núi sau chùa Nhẫm Dương, có diện tích khoảng 100m2, hang hẹp dần từ ngoài vào trong. Trong những năm 1996 – 1997 khi sửa sang hang Thánh Hoá, nhân dân đã tìm thấy nhiều tượng Phật bằng đá có niên đại thế kỷ 17. Năm 2000 và 2001 Bảo tàng Hải Dương kết hợp với Viện Khảo cổ học, Viện Nghiên cứu địa chất đã tiến hành nhiều cuộc thám sát, nghiên cứu và kết luận: Hang Thánh Hoá là di tích khảo cổ học quan trọng của cả nước. Tại đây đã phát hiện di cốt hoá thạch của nhiều loài động vật có niên đại 3 đến 5 vạn năm như: Xương hàm tê giác, răng voi, nai, lợn rừng, nhím, gấu... đặc biệt còn có khá nhiều răng Pôngô (đười ươi) và răng người cổ.
- Hang Tối nằm bên sườn núi phía Tây Bắc chùa Nhẫm Dương. Tại hang Tối phát hiện nhiều hiện vật thuộc văn hoá Hán, đồ đồng thuộc văn hoá Đông Sơn, các loại vò, lọ, vòng đá cuội, bàn nghiền, chày nghiền thời tiền sử, các loại tiền từ ngũ thù thời Hán đến tiền thời Nguyễn.
Hệ thống hang động trên núi thuộc địa bàn xã Duy Tân gồm nhiều hang lớn nhỏ, chủ yếu nằm về phía Tây Bắc, Tây Nam và Đông Bắc chùa Nhẫm Dương. Các hang động này còn gắn với nhiều hoạt động của quân dân ta trong kháng chiến chống Pháp:
Những năm 1948-1951, tại hang Thánh Hóa có nhiều đơn vị bộ đội đóng quân, các đồng chí Lê Thanh Nghị, Hoàng Quốc Việt đã dùng hang làm trụ sở chỉ huy của Đệ tứ chiến khu Đông Triều. Huyện ủy Kinh Môn đã tổ chức hai cuộc họp vào tháng 7, tháng 9 năm 1947 bàn cách đánh địch. Trong kháng chiến chống Pháp, hang Ma là nơi trú quân của bộ đội tỉnh và huyện. Hang Mạt là nơi diễn ra nhiều trận chiến đấu ác liệt với quân địch. Trên đỉnh núi quân ta cắm cờ đỏ sao vàng, giặc bắn gẫy, ta lại cắm lên, cứ như vậy cuối cùng giặc phải chịu lui. Thung Xanh là căn cứ đóng quân của du kích địa phương, nơi đây đã chứng kiến nhiều trận chiến đấu anh dũng của du kích với giặc. Một số hang như: hang Đình, hang Tối, hang Lợn, hang Bò Lê, hang Thóc...là căn cứ đóng quân của bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực. Trong kháng chiến chống Mỹ, từ năm 1965 đến 1973, một số hang động trên núi là địa điểm đóng quân của Quân y viện 7 Quân khu III.
Khu di tích khảo cổ chùa Nhẫm Dương và các hang động xã Duy Tân đã được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích quốc gia năm 2003 và ngày càng thu hút nhiều khách tham quan và các nhà nghiên cứu khoa học. Lễ hội được tổ chức hàng năm vào ngày 6 tháng 3 âm lịch để kỷ niệm ngày viên tịch của Thánh Tổ Thuỷ Nguyệt, đây là lễ hội lớn nhất của vùng Nhị Chiểu, huyện Kinh Môn.
Với các giá trị đặc biệt về lịch sử văn hoá, lịch sử đấu trang cách mạng, vị trí, vai trò trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, về cảnh quan, hệ sinh thái, đặc biệt là giá trị to lớn về khảo cổ học, di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và các hang động xã Duy Tân, huyện Kinh Môn xứng đáng là một trong những di tích lịch sử văn hoá, tôn giáo tiêu biểu của tỉnh Hải Dương cũng như của cả nước. Di tích rất cần được sự quan tâm của các cấp chính quyền tỉnh, huyện, xã, các cơ quan chuyên môn, các nhà khoa học để tiếp tục nghiên cứu, tuyên truyền làm sâu sắc hơn các giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học to lớn, giáo dục truyền thống cách mạng của địa phương; bên cạnh đó cần thực hiện các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ các giá trị của di tích, bảo vệ cảnh quan môi trường sinh thái không bị xâm hại bởi các yếu tố khách quan tác động như hoạt động khai thác tài nguyên phục vụ phát triển kinh tế không bền vững; đồng thời di tích cũng cần được phát huy giá trị di sản về tôn giáo để xứng đáng với vị trí, vai trò vốn có trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, là chốn Tổ của Thiền phái Tào Động Việt Nam, gắn với thân thế, sự nghiệp hoằng dương Phật pháp của hai vị Tổ đầu tiên của Thiền phái.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết