MỘC BẢN KINH PHẬT CỔ NHẤT THẾ GIỚI Ở CHÙA BỔ ĐÀ, VIỆT YÊN, BẮC GIANG
MỘC BẢN KINH PHẬT CỔ NHẤT THẾ GIỚI
Ở CHÙA BỔ ĐÀ, VIỆT YÊN, BẮC GIANG
TẠ VĂN TRƯỜNG
Bắc Giang là vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời, với vẻ đẹp của những ngôi chùa độc đáo, cổ kính trong miền đất Kinh Bắc. Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định công nhận quần thể lịch sử - kiến trúc nghệ thuật chùa Bổ Đà ở huyện Việt Yên, Bắc Giang là di tích cấp quốc gia đặc biệt. Chùa là nơi tu hành của các tăng ni và đào tạo các tăng đồ theo Thiền phái Lâm Tế trong hơn 300 năm qua. Đặc biệt, tại chùa Bổ Đà đang bảo lưu 1.935 mộc bản kinh Phật và 18 bộ sách kinh chính. Tháng 5/2017, Liên minh Kỷ lục Thế giới - Worldkings đã công nhận Bộ mộc bản kinh Phật của thiền phái Lâm Tế khắc trên gỗ thị là Bộ mộc bản kinh Phật cổ nhất thế giới. Đây là niềm vinh dự và tự hào to lớn của chùa Bổ Đà cũng như người dân Bắc Giang.
1. Độc đáo kho mộc bản chùa Bổ Đà
Kho mộc bản chùa Bổ Đà ở huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang,
chủ yếu gắn với các bộ kinh sách của Phật giáo Đại thừa. Ngoài nội dung không trùng lặp với mộc bản tại chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng, Bắc Giang), mộc bản chùa Bổ Đà còn được đánh giá là độc đáo và sở hữu nhiều bản có niên đại sớm hơn. Trên những tấm kinh, trang trí thêm nhiều đường nét họa tiết, hình khối điêu luyện và tinh xảo, phản ánh giá trị những tư tưởng, triết lý sâu xa của đạo Phật. Đó là các hình khắc Đức Phật Tổ Như Lai, Quan Thế Âm Bồ tát, các vị La hán… Bao gồm cả văn tự và những tranh vẽ kể lại những tích nhà Phật, bộ kinh chú về những điều răn dạy trong quá trình tu hành của các tăng ni. Sự khổ hạnh và rèn luyện bản thân trong quá trình vươn tới niết bàn cũng được các vị tổ sư chú trọng. Chùa Bổ Đà thuộc thiền phái Lâm Tế nên những vấn đề liên quan tới văn hóa và tư tưởng được thể hiện qua mộc bản chủ yếu ở phương diện tu hành và truyền giáo, thực hành tôn giáo, tập trung được những nét cơ bản của Phật giáo với 3 tông phái (Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông) trong quá trình tiếp biến và kế thừa tại Việt Nam. Hệ thống mộc bản chùa Bổ Đà có tính phức tạp, cầu kỳ, độ chính xác và tính nghệ thuật cao được thể hiện giá trị thẩm mỹ cao trên từng đơn vị điêu khắc. Trải qua gần 3 thế kỷ, những bộ kinh vẫn còn khá nguyên vẹn. Đặc biệt là những tấm gỗ thị, dùng để khắc kinh đều rất bền, đẹp, không bị mối mọt, rất nhẹ, những đặc điểm này thuận lợi để khắc cũng như vận chuyển kinh. Sự điêu luyện của những bậc tiền bối khắc Kinh ở chùa Bổ Đà xưa có thể so sánh với những nét chạm khắc trên các pho tượng La hán ở chùa Tây Phương (Hà Tây cũ) cùng thời. Đây là những di vật Phật học đặc biệt quý giá và độc đáo.
2. Tổng quan nội dung mộc bản chùa Bổ Đà
1. A DI ĐÀ KINH. Tác giả: Cưu Ma La Thập. Đây là 1 trong 3 bộ kinh của Tịnh độ. Bản kinh tóm tắt về các việc y chính trang nghiêm của cõi Tịnh độ Tây phương; ca ngợi, xưng tán công đức vô lượng vô biên của đức A Di Đà. Kinh này chỉ thuận cho loại người căn cơ thuần thục.
2. BÁT KÍNH PHÁP PHƯƠNG NGÔN, là những câu phương ngôn về 8 pháp mà người nữ tu suốt đời phải tuân theo, không được vi phạm, nếu làm được 8 pháp này tức là thụ giới.
3. BÁT NHÃ KINH hay còn gọi BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH. Tác giả: Huyền Trang đời Đường dịch. Bát nhã kinh là tên chung chỉ kinh điển nói về lý sâu sắc của Bát nhã Ba la mật.
4. BỆNH ĐƯỜNG CẢNH SÁCH. Sách nói về nguyên nhân gây bệnh cho chúng sinh. Bệnh là nỗi khổ của chúng sinh. Đồng thời, cảnh báo cho mọi người biết để tránh bệnh tật, bằng con đường tu theo Phật.
5. BÙA CHÚ. Mộc bản khắc chữ xen lẫn hoa văn, hình vẽ. Dùng để trừ tà.
6. CÚNG TỔ SƯ KHOA. Tác giả: Tính Định. Sách gồm 2 phần Cúng tổ sư khoa và Cúng long quang tháp khoa.
7. CHÚ THỰC KHOA. Ghi chép về nghi thức và các bài tán, tụng, khải, sớ, bạch… dùng trong khoa Lễ Sư tổ của chùa.
8. CHUYỂN LUÂN KHOA. Tác giả: Đức Hợp. Ghi chép về cách thức chuyển tự tâm, tức là quá trình tự mình thay đổi nhận thức trong tu hành.
9. DANH. Ghi tên và pháp danh của những người trong các xã, thôn thuộc phủ đã đóng góp công đức cho chùa Bổ Đà.
10. DI ĐÀ KINH. Tác giả: Cưu Ma La Thập. Ghi chép giáo lý khi đức A Di Đà thuyết pháp.
11. DỰ NHIẾP LINH KHOA. Xướng xuất uy danh của Địa Tạng (tức Địa Tạng Bồ tát).
12. ĐẠI BI THẦN CHÚ. Tác giả: Trí Lễ đời Tống biên tập, Gia Phạm Đạt Ma đời Đường dịch. Là sách ghi chép những điều bí mật của nhà Phật. Gồm 2 phần: Đại bi thần chú và Đại bi Thập chú. Đại bi thần chú: Sách là cầu nối bí mật pháp sự tu thiền của chư Phật, chư Bồ tát truyền lại cho những người tu hành, trừ khử mọi ác độc, thần nghiệm không thể lường, cần phải thuộc và giữ kín trong đầu. Đại bi Thập chú: Ghi chép 10 chú mà chư Phật, chư Bồ tát truyền lại cho người tu hành để trừ khử cái ác một cách thần nghiệm.
13. ĐỘ ĐIỆP. Tức là tờ Điệp (chứng nhận) cấp cho Tăng, Ni - những người tu hành.
14. GIẢI KẾT KHOA. Ghi chép phép thuật thuyết pháp, giúp chúng sinh dứt bỏ tà vọng, sáng tỏ chân thực, giải bỏ sự phiền não mà con người bị trói buộc trong cõi sinh tử.
15. HÀNH TRÌ MẬT CHỈ, viết về phương pháp giữ gìn cho tâm an định, không xao động do môi trường, tự thân tâm ý tạo ra trong thiền định.
16. HỘ PHÁP LUẬN. Tác giả: Vô Tận cư sĩ Trương Thương Anh đời Tống soạn. Hộ pháp được hiểu là Hộ trì thiện pháp mà mình đã đạt được.
17. HỘ PHÁP LUẬN LƯỢC DẪN SỰ TÍCH. Sách lược dẫn sự tích về một vị Bồ tát tên là Daharmapàla. Sau khi Đức Phật nhập diệt chừng 1.000 năm, vị Bồ tát này giáng sinh ở thành Kiến Chí Bổ La, nước Đạt La Tì Đồ ở Nam Ấn Độ. Người là con trưởng của một vị đại thần. Hộ pháp Bồ tát tên Phạn là Đạt Ma Ba La.
18. KIM CƯƠNG KINH. Tác giả: Bản dịch của Cưu Ma La Thập đời Tần. Vào đầu thế kỷ V, Kim Cương kinh còn gọi là Kim Cương Bát nhã kinh hoặc Kim Cương Bát nhã Ba la mật kinh. Bộ kinh lấy “Không” và “Tuệ” làm thể, giải thích về cái lý Nhất thiết pháp vô ngã.
19. KHUYẾN VĂN. Bài văn khuyên mọi người cung tiến công đức để tu bổ chùa và tượng Phật tại chùa Tứ Ân (tức chùa Bổ Đà).
20. LÃO ĐƯỜNG CẢNH SÁCH VĂN. Ghi chép lời răn dạy và những quy điều phạt roi răn dạy các sư tăng khi ngồi thiền trong thiền đường.
21. LĂNG NGHIÊM CHÍNH MẠCH. Tác giả: Thích Chân Giám đời Minh thuật. Là bộ kinh làm sáng tỏ tâm tính bản thể, văn nghĩa rất tinh diệu thuộc Bí mật bộ của Đại thừa, đầy đủ các pháp, thu nhiếp tất cả các cơ duyên. Đây là pháp môn để học đạo Phật.
22. LĂNG NGHIÊM CHÍNH MẠCH KHOA LƯỢC, đúc rút những nội dung kinh Lăng Nghiêm thành những ý chính yếu, đúc gọn để cho người tu hành bước đầu tu tập nắm được ý chính của kinh.
23. LỄ PHẬT NGHI, ghi chép những quy định, nghi thức trong lễ Phật.
24. LỄ PHẬT THỜI, ghi chép về thời gian, phương hướng cho các lễ trong năm. Thời Lễ do Thái Tông hoàng đế phân chia sắp đặt.
25. NAM HẢI KÝ QUY NỘI PHÁP TRUYỆN, ghi chép những quy định của Phật giáo Ấn Độ đối với Tăng và các giới luật của nhà Phật về các việc trong sinh hoạt như ăn uống, nghỉ ngơi, tu tập…
26. NIỆM PHẬT KỆ, là bài kệ để niệm Phật.
27. NGHÊNH SƯ KHOA, quy định rõ việc tiếp đón các vị sư trong khi thực hiện Phật sự.
28. NGŨ GIA TÔNG PHÁI. Tác giả: Thiền tăng Vân Dĩnh đời Tống soạn, viết về quá trình hình thành các tông, phái, trong đó Ngũ gia chỉ 5 phái Nam Tông. Từ sư tổ Đạt Ma truyền tới ngũ tổ Hoằng Nhẫn chia làm hai phái: Bắc tông Thần Tú và Nam tông Huệ Năng. Bắc tông phát triển ở miền Bắc, không chia phái. Nam Tông phát triển ở miền Nam, có 5 tông gồm: Tông Quy Ngưỡng; Tông Lâm Tế; Tông Tào Động; Tông Vân Môn; Tông Pháp Nhãn.
29. NGỰ CHẾ TỰ VĂN, Lời Ngự phê của vua Ung Chính (Trung Quốc) vào tháng 6 năm Ung Chính thứ 11 (Quý Sửu). Đại lược nói rằng: Sách Vạn thiện đồng quy có ngàn vạn lời đã được truyền tụng trong cả nước và truyền ra cả ngoài nước. Đây là sách quý, đích thân nhà vua đã Ngự lãm và Ngự phê cho tác phẩm.
30. PHÁT NGUYỆN KHOA, ghi chép những lời thề nguyện của bậc tu hành, trong đó nói rõ những điều mà người tu hành mong cầu được Phật phù hộ.
31. PHÁT TẤU KHOA, là lời của người tu hành trình bày tâm nguyện lên đức Phật trong đó có cả những điều còn do dự chưa quyết, sự nghi hoặc làm tâm thức người tu hành không thấy rõ được chân lý.
32. PHẬT MẪU ĐẠI TẠNG KINH MỤC LỤC, thống kê danh mục các kinh, sách được cất giữ ở Bảo Tháp.
33. PHẬT TÂM LUẬN, ghi chép lời bàn luận về triết lý “Phật tại tâm”.
34. PHỔ MÔN KINH, là kinh vấn đáp về Quan Thế Âm, trong đó có những lời khuyên của Phật. Đối với người tu hành, muốn thoát khỏi khổ não, hoạn nạn, hãy chăm đọc kinh này.
35. QUỐC ÂM NGŨ GIỚI, ngũ giới chỉ 5 điều cấm mà người tu hành không được làm. Đó là: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu. Được diễn tả bằng Quốc âm để cho người tu hành dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc.
36. QUỐC ÂM THẬP GIỚI, ghi rõ 10 giới trong nhà Phật.
37. QUY NGUYÊN. Tác giả: Bạch Liên tiểu sĩ soạn năm (1823), là thuật ngữ Phật học được hiểu là Trở về cội nguồn, ý nói ra khỏi cõi sinh diệt, trở về cội nguồn. Sách khuyên con người dốc lòng thờ Phật, thường ngày niệm Phật, phụng dưỡng cha mẹ. Đồng thời còn viết về truyền thuyết nhân quả, sự tịch diệt, hư vô, luân hồi, địa ngục…
38. SÁM HỐI VĂN, tức bài văn sám hối, có nội dung: con người từ xưa đã tạo nhiều ác nghiệp, đều do tham sân si, bởi thân miệng ý phát sinh ra, nay xin nguyện sám hối.
39. SÁM HỐI VĂN (2), gồm các bài văn sám hối trước đức Phật, giãi bày tội lỗi của thân miệng đã tạo ra, một mực dựa vào pháp độ để diệt mọi tội phạm giới.
40. SAN BỔ THỤ CHƯ GIỚI ĐÀN, khắc năm 1881, ghi lại những quy thức truyền thụ pháp giới cho Ni ở đàn tràng được biên soạn bổ sung gồm: “Giới” trong Phật học được hiểu là phòng ngừa, ngăn cấm sự sai trái của thân và tâm.
41. SỰ LÝ DUNG THÔNG, khuyên người đời đi theo đạo Phật để được yên vui hạnh sự.
42. TÂY PHƯƠNG CÔNG CỨ. Tác giả: Bành Tế Thanh đời Thanh biên soạn, gồm các bài luận, thuyết… nói về hiệu quả của việc tụng niệm Kinh Phật. Sách dẫn chứng một số trường hợp sư, sãi ở các đời khác nhau do tu hành tụng niệm mà được lên cõi niết bàn. Sách cũng đưa ra một số nghi thức tụng kinh, niệm Phật.
43. TÂY PHƯƠNG HỢP LUẬN. Tác giả: Viên Hoành Đạo đời Minh soạn. Tập hợp các lời chính yếu về đạo đức thời cổ và trình bày giáo nghĩa của Tây phương Tịnh độ về sắc không, chân tướng, dục vọng…, con đường tu để thoát khỏi cảnh khổ, lên được đất Phật.
44. TÂY PHƯƠNG NGUYỆN VĂN, là bài văn thể hiện ý chí, lòng mong muốn thực hiện được đầy đủ… những điều người tu hành cần làm trong quá trình tu tập để được về với thế giới Tây phương Cực lạc.
45. TÔN KINH THƯỢNG CÚNG, bài cúng đàn do chùa Thiên Phúc, thôn Bùi Xá, xã Châm Khê, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh làm chủ lễ.
46. TỨ PHẦN LUẬT SAN BỔ TÙY CƠ YẾT MA. Tác giả: Đạo Tuyên đời Đường biên soạn. Đây là bộ luật được dùng trong nhà chùa, rất quan trọng. Hiện sách còn khá đầy đủ, bao gồm cả các bài tựa, các phần hậu bổ.
47. TỨ PHẦN LUẬT SAN BỔ TÙY CƠ YẾT MA CHÚ SỚ KÝ HỘI KHẮC. Tác giả: Nam Sơn. Tứ phần luật là 1 trong 4 Luật tạng bộ, do Đàm Vô Đức lựa chọn những điều hợp với ý kiến của mình trong Luật tạng của Thượng tọa bộ, để biên tập thành văn. Thuyết dừng ở chỗ nào thì coi như đến đó là 1 phần, 4 độ thì hoàn kết, nên gọi là Tứ phần luật.
48. TỨ PHẦN LUẬT SAN BỔ TÙY CƠ YẾT MA SƠ KHOA. Sa môn Thích Nguyên Chiếu ở quận Dư Hằng chép. Sách khảo chứng, giải thích rõ thêm một trong bốn Luật tạng của Thượng tọa bộ, về những nguyên tắc trong Phật pháp mà người tu hành phải thực hiện.
49. THẬP CÚNG KHOA, ghi chép các vài văn cúng Phật, gồm kinh, kệ, tạng, xướng dùng trong khoa cúng Phật.
50. THI THỰC NGHI, quy định về việc thụ trai của Tăng, Ni.
51. THÍCH CA NHƯ LAI DI GIÁO ĐỘ SƯ, ghi chép những lời răn giới của Phật, giáo pháp tu hành của Bồ tát, giúp cho sư tăng lìa xa cõi tục.
52. THIỀN LÂM BẢO HUẤN. Tác giả: Sa môn Tịnh Thiện chép vào đời Tống, là những lời dạy quý báu trong rừng thiền. Thông qua những câu chuyện, những lời giáo huấn, những thư từ trao đổi hoặc trích dẫn trong các sách đời trước. Toàn bộ có 292 bài huấn.
53. THỈNH PHẬT KHOA, bài văn cung thỉnh chư Phật, có chia ra từng đoạn như: Cử tán, phục dĩ, thủy tán, cung văn…, duy nguyện. Nội dung ca ngợi công đức chư Phật, xướng danh chư Phật về đảnh lễ và nguyện tôn kính chư Phật.
54. THƯỢNG CÚNG. Là bài cúng Tổ sư Viên Đức của Tứ Ân tự.
55. TRIỆU LINH KHOA, là bài cúng, trước là tán tụng công đức của Phật, lý giải lẽ sống ở đời theo triết lý của nhà Phật; sau kể đến tình cảm người đã chết khi còn sống, xướng tên tuổi người chết (có thể là cha, mẹ, vợ, chồng…) và cầu xin chư Phật độ trì và phát nguyện 4 điều: độ chúng sinh, bỏ phiền não, học pháp, tu luyện thành Phật.
56. TRỰC CHỈ QUY NGUYÊN TÂN TỰ. Tác giả: Vô Tranh hòa thượng. Nói về việc học đạo, lấy giác tính làm gốc, phải kiên trì trai giới. Trong muôn hạnh, giới là tiên phong; trong lục độ, giới là nền tảng…
57. UY NGHI QUỐC ÂM, tác phẩm viết về những quy định của nhà Phật trong những việc làm hằng ngày. Từ các việc ở nhà cũng như những việc khi đi ra ngoài như: đến phòng nghỉ, đến chùa Ni, ra đi khất thực, vào chốn thôn dân…
58. UY NGHI QUỐC NGỮ. Tác giả: Như Thị hòa thượng chú giải. Sách viết về phép tắc trong nhà Phật như phải kính Đại sa môn, việc hành xử với sư trong nhà, trong khi đi ra ngoài, xử sự với những người cùng tu,… học tập kinh điển và những điều nên tránh khi đi ra ngoài.
59. VẠN THIỆN ĐỒNG QUY. Tác giả: Diên Thọ đời Tống soạn. Bao gồm nhiều sách tâm yếu của Thiền gia như Kinh luận, Tổ thích. Nội dung sách nói rõ: Mọi việc đều thiện đều quy cả vào thực tướng. Phàm làm những việc lành đều trở về thực tướng, như hư không dung nạp tất cả, như mặt đất sinh trưởng vạn vật. Do vậy, chỉ cần kết hợp với Nhất như, tự nhiên bao hàm mọi công đức.
Với số lượng 1.935 mộc bản còn lại đến nay được xếp trên 10 giá gỗ (mỗi giá xếp gần 200 mộc bản, chia làm ba hàng). Hầu hết mộc bản trong kho mộc bản chùa Bổ Đà có kích thước 45 x 22 x 2,5 cm (dài, rộng, dày) hoặc 60 x 25 x 2,5 cm. Nhưng cũng có cả những mộc bản khổ rất lớn 150 x 30 x 2,5 cm hoặc 110 x 40 x 2,5 cm. Bên cạnh kinh điển Phật giáo chữ Hán, các tăng nhân còn diễn Nôm hoặc in khắc các tác phẩm chữ Nôm. Trong kho mộc bản chùa Bổ Đà có ít nhất 7 tác phẩm bằng chữ Nôm. Ngoài ra còn có cả chữ Phạn.
Thay lời kết
Giá trị mộc bản tại chùa Bổ Đà ở Việt Yên, Bắc Giang có ý nghĩa lớn đối với xã hội Việt Nam trên nhiều phương diện như: Triết lí nhân sinh và giáo dục nhân cách, tôn giáo, tín ngưỡng, ngôn ngữ, văn tự, văn học, nghệ thuật… Kho mộc bản là bản nguyên gốc, còn tương đối nguyên vẹn và được bảo quản tốt theo phương pháp truyền thống của người Việt Nam, là tài sản quý hiếm đặc biệt. Đây là kho mộc bản quý hiếm, mang những giá trị vô giá, các nhà quản lý nên có kế hoạch cụ thể cho việc nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị kho mộc bản tại chùa Bổ Đà. Cần có một kế hoạch tổng thể để bảo vệ kho mộc bản như không để bất kỳ ai cũng có thể dễ dàng lấy mộc bản ra khỏi giá, kệ hoặc sờ tay vào mộc bản. Việc này có thể dẫn tới mất chữ, mẻ chữ trên mộc bản hoặc mất mát mộc bản. Hơn nữa, chùa cũng là nơi tiềm ẩn nguy cơ hỏa hoạn, nên chúng ta phải có trang thiết bị phòng cháy và chữa cháy đạt tiêu chuẩn để bảo quản mộc bản, đồng thời nên tổ chức in dập toàn bộ mộc bản, sau đó đóng thành quyển và phân loại, kể cả việc số hóa tư liệu đó vào máy móc, tiến hành kiểm kê, phân loại, đánh số nghiên cứu và dịch thuật, mã hóa, đồng thời đề xuất các biện pháp bảo vệ thích hợp để giá trị mộc bản được nhiều người biết đến và những giá trị này được phát huy hơn rộng rãi hơn, đồng thời có thể đề xuất, nhằm tôn vinh kho di sản vô giá này trở thành Di sản văn hóa thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đa dạng tôn giáo, văn hóa hiện nay, việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị kho mộc bản chùa Bổ Đà đóng một vai trò quan trọng. Như giáo dục ý thức giữ gìn văn hóa truyền thống của dân tộc và giúp cho cộng đồng các dân tộc ở khu vực Đông Nam Á, châu Á bảo tồn nét văn hóa phương Đông. Đồng thời, tư tưởng thiền phái Lâm Tế với những tư tưởng nhân văn, bác ái sẽ đưa vị thế của Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển trên thế giới.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 21 – THÁNG 7 NĂM 2017 (PL. 2561)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 20 – THÁNG 4 NĂM 2017 (PL. 2560)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 19 – THÁNG 1 NĂM 2017 (PL. 2560)
- ĐÓN XEM TỪ QUANG TẬP 19
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 18 – THÁNG 10 NĂM 2016 (PL. 2560)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 17 – THÁNG 7 NĂM 2016 (PL. 2560)
Bình luận bài viết