Thông tin

MỘT VÀI GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU

CỦA KHU DI TÍCH – DANH THẮNG CHÙA NHẪM DƯƠNG

(DUY TÂN – KINH MÔN – HẢI DƯƠNG)

                                

TS. TẠ QUỐC KHÁNH*

                     

Quần thể di tích - danh thắng chùa Nhẫm Dương, thuộc thôn Nhẫm Dương, xã Duy Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, là một khu di tích đặc biệt có giá trị nhiều mặt, bởi đây không chỉ có ngôi cổ tự Nhẫm Dương (Thánh Quang tự) được khởi dựng từ thời Trần (thế kỷ 14), mà còn bao chứa trong đó nhiều hang động, núi non có giá trị danh thắng, cảnh quan, cùng những dấu vết vật chất minh chứng về thời gian cư trú liên tục của người Việt cổ từ thời tiền và sơ sử.

1. Giá trị cảnh quan, danh thắng

Khu di tích chùa Nhẫm Dương nằm giữa một vùng núi non trùng điệp của xã Duy Tân. Ngoài hai hang Thánh Hóa và Tĩnh Niệm phía sau lưng chùa, có thể kể tới hang Bò Lê, hang Cá, hang Tối, hang Ma, hang Mạt, hang Trâu, hang Thung Xanh, hang Thung Thóc, hang Đình... Hầu hết các hang động này đều được thiên nhiên kiến tạo với nhiều thạch nhũ, cửa hang, vòm động rất độc đáo, kỳ vĩ. Nằm ngay sau chùa Nhẫm Dương là hang (động) Thánh Hóa, trên trần hang có nhiều thạch nhũ với muôn hình muôn vẻ, càng về cuối lòng hang càng hẹp và tối, cho đến nay chưa ai xác định được hết chiều sâu của hang… Đứng trên đỉnh núi Nhẫm Dương có thể bao quát một vùng rộng lớn với cánh đồng, làng mạc và những rừng cây xanh cùng hai dòng sông Đá Vách, Kinh Thầy chảy về Bạch Đằng.

Giáp phía Tây xã Duy Tân là xã Phạm Mệnh với dãy núi Dương Nham cũng khá nổi tiếng nhiều hang động. Theo thống kê của Phòng Văn hóa, ngọn núi Dương Nham có tới 22 hang động, trong đó đáng kể nhất là động Kính Chủ hay còn gọi là Động Dương Cốc, từng được phong là "Nam Thiên đệ lục động". Trong lòng động hiện vẫn lưu giữ tới 53 văn bia của nhiều bậc văn sĩ từng tới đây vãn cảnh đề thơ, đặc biệt nhất là tấm bia của thi nhân nổi tiếng thời Trần - Phạm Sư Mạnh. Nằm cách động Kính Chủ không xa, trên độ cao khoảng 70m so với mặt ruộng canh tác là khu Động Tiên. Phía dưới chân núi Dương Nham là hang Chùa, với nhiều thạch nhũ kỳ vĩ, vào mùa khô, mọi người có thể vào sâu bên trong để chiêm ngưỡng, nhưng mùa mưa lại có một dòng nước chảy ra, cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân trong vùng…

Tóm lại, tuy nằm không xa trung tâm thành phố Hải Dương, nhưng khu di tích Nhẫm Dương lại bao chứa khá nhiều hang động, núi non hùng vĩ, nếu kết hợp tốt với khu danh thắng Dương Nham – Kính Chủ kề bên thì có thể tạo thành một điểm tham quan, chiêm bái các danh lam thắng cảnh, tạo sức hút để phát triển du lịch sinh thái, du lịch khám phá mạo hiểu…

2. Giá trị khảo cổ học, lịch sử

Trong hệ thống hang động tại khu di tích danh thắng chùa Nhẫm Dương, có 02 hang: hang Thánh Hóa và hang Tối đã được các nhà Khảo cổ học là những hang phát hiện nhiều hiện vật khảo cổ, khẳng định cho sự phát triển của người Việt cổ từ hàng vạn năm trước…

Tại hang Thánh Hóa, trong hai năm 2000 và 2001, Bảo tàng tỉnh Hải Dương đã kết hợp với Viện Khảo cổ, Viện Nghiên cứu địa chất tiến hành nhiều cuộc thám sát, điền dã, nghiên cứu và kết luận: hang Thánh Hóa là di tích khảo cổ học quan trọng của cả nước. Tại đây, đã tìm được di cốt hóa thạch của 27 loài động vật như: voi, tê giác, hổ, báo, lợn rừng, nhím...và đặc biệt tìm thấy khá nhiều răng Pôngô (đười ươi). Theo giám định của Viện Khảo cổ học, thì những hóa thạch và di vật đó cách ngày nay từ 3 vạn đến 5 vạn năm. Hiện nay, động Thánh Hóa có tầng văn hóa dầy 4m, chắc chắn sẽ có nhiều di vật quý mà chúng ta chưa phát hiện được, nếu tiếp tục khai quật sẽ mang lại nhiều kết luận quan trọng về sự phát triển của người Việt cổ.[1]

Tại hang Tối – một hang nằm bên sườn núi phía Tây Bắc chùa Nhẫm Dương, trong cuộc thám sát khảo cổ học năm 2001, Bảo tàng Hải Dương đã tìm thấy một số hiện vật như rìu đồng có vai, thạp đồng, lưỡi xéo đồng, các hiện vật trên thuộc nền văn hóa Đông Sơn (cách ngày nay hơn 2000 năm). Hang Tối có khả năng là di chỉ có niên đại thuộc hậu kỳ đá cũ. Trong tương lai, nếu khai quật lớn sẽ có nhiều tài liệu khảo cổ học quan trọng.

Ngoài các hiện vật khảo cổ được tìm thấy tại hai hang đó thì quanh khu vực núi Nhẫm Dương, dân địa phương cũng đã tìm thấy rìu đá, các công cụ bằng đá cuội, lõi khoan, hòn mài, đá mài và rìu thuộc thời đại đồ đá mới[2]. Bên cạnh đó, trong cuộc điều tra di tích tại xã Duy Tân năm 2007, đoàn khảo sát của Viện Bảo  tồn di tích (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cũng đã phát hiện ra những viên gạch múi bưởi thời Hán (cách đây khoảng 2000 năm)… Bên cạnh đó, cũng trong đợt điều tra năm 2007, các nhà khoa học đã phát hiện được 01 chân tảng đá hoa sen thời Trần thế kỷ 14 cùng một số bia đá có niên đại từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, góp phần khẳng định sự phát triển lâu dài, liên tục của ngôi chùa Nhẫm Dương. Di vật chân tảng đá hoa sen thời Trần có kích thước phần bệ là 70 x 70cm, đường kính gương sen (phần đỡ cột) tới 52cm, không chỉ góp phần khẳng định di tích chùa Nhẫm Dương đã có từ thế kỷ 14 như sử sách ghi lại, hơn nữa, khi đó nó còn là một ngôi chùa khá lớn trong vùng.

Tóm lại, các công trình nghiên cứu khảo cổ học thông qua các cuộc thám sát, điền dã cùng với các hiện vật tìm được đã khẳng định khu di tích chùa Nhẫm Dương và các hang động xung quanh là di chỉ khảo cổ học – kiến trúc quan trọng, cần được bảo vệ và khai quật để nghiên cứu…

3. Giá trị văn hóa, tôn giáo

Mặc dù ngôi chùa Nhẫm Dương hiện nay mới được xây dựng lại bằng bê tông, nhưng những hiện vật kiến trúc hiện còn cho thấy từ thế kỷ 14 đây đã là một kiến trúc Phật giáo khá lớn, có lẽ nó là một trung tâm Phật giáo, góp phần hoằng dương Phật pháp ở xứ Đông. Hiện chùa còn lưu giữ một số tấm bia đá, bia cổ nhất được tạo tác năm Hoằng Định thứ  9 (1601), bia muộn nhất tạo năm Bảo Đại thứ 3 (1926) cho thấy; ngoài ra còn 01 tấm bia tạo năm Bảo Thái thứ 5 (1724) cho thấy trong mấy thế kỷ qua, ngôi chùa đã luôn được quan tâm tu sửa, mở mang.

Đến thế kỷ 17, chùa Nhẫm Dương được hòa thượng Thủy Nguyệt – tổ sư đời thứ 36 thiền phái Tào Động về trụ trì và tu hành. Hòa thượng Thủy Nguyệt có pháp danh Thông Giác Đạo Nam thiền sư, sinh năm Đinh Sửu đời vua Lê Thần Tông (1636), sang núi Phượng Hoàng (Hồ Châu – Trung Quốc) tham học đạo từ thiền sư Nhất Cú, đến năm 1667 ngài trở về Việt Nam hoằng dương tông phái Tào Động và trở thành sư tổ đầu tiên của dòng Tào Động ở Việt Nam. Ngoài chùa Nhẫm Dương, hòa thượng Thủy Nguyệt còn khai sáng chùa Hoè Nhai (Hồng Phúc tự) ở 19 phố Hàng Than (Ba Đình - Hà Nội), đồng thời kiêm trụ trì chùa Hạ Long (Hải Dương), độ tăng ở các vùng như Côn Sơn, Quỳnh Lâm, Yên Tử…. Ngày 6/3 âm lịch năm Giáp Thân niên hiệu Chính Hòa thứ 20 (1704), ngài viên tịch ở tuổi 68. Tương truyền khi sư tổ đắc đạo Kim Cương đã đội đầu, đạp chân, lưu lại vết lõm ở động đá sau lưng chùa Nhẫm Dương, cho nên có tên gọi hang Thánh Hoá. Mộ của ngài an táng trong một ngôi tháp đá 5 tầng ở bên cạnh chùa.

Hàng năm, chùa Nhẫm Dương tổ chức lễ hội trong 03 ngày (từ mùng 5 đến mùng 7/3 âm lịch) vừa là dịp tưởng nhớ công đức vị Thánh tổ, vừa cầu mong vạn sự tốt làng. Trong những ngày diễn ra lễ hộ, có các nghi thức truyền thống như lễ Mộc Dục (diễn ra vào tối mùng 5), lễ rước Thánh tổ (ngày mùng 6), lễ cúng đàn Mông Sơn thí thực và lễ phóng sing (ngày mùng 7), cùng nhiều trò chơi dân gian đặc sắc chơi như chọi gà, kéo co, đánh cờ, đu và hát nhà tơ (ca trù), hát văn, hát múa sênh tiền diễn ra tại sân chùa, cổng chùa và các địa điểm chân núi gần chùa[3]

Như vậy, ra đời từ thế kỷ 14, đến giữa thế kỷ 17, chùa Nhẫm Dương đã trở thành Tổ đình cùa thiền phái Tào Động Việt Nam. Đây cũng là nơi đệ nhất sư tổ Thủy Nguyệt đã tu hành, giảng đạo và viên tịch, sau này được các đệ tử thành kính xây tháp mộ, được đông đảo phật tử hàng năm về dâng hương thành kính tưởng nhớ, đặc biệt mỗi dịp giỗ tổ … Những giá trị văn hóa, tôn giáo đó rất cần được bảo tồn, phát huy như một nét đẹp trong đời sống sinh hoạt tâm linh của người Việt chúng ta.

4. Giá trị kiến trúc, nghệ thuật

Ngôi chùa cổ Nhẫm Dương đã bị phá hủy hoàn toàn năm 1952, trong kháng chiến chống Pháp. Năm 2002, một ngôi chùa mới, mặt bằng chữ công được dựng trên nền cũ. Tuy nhiên, may mắn là sau chùa còn một ngôi tháp cổ bằng đá xanh khá đẹp. Ngôi tháp có mặt bằng hình vuông, gồm 5 tầng, kê trên phần đế gồm 2 cấp. Các tầng tháp được làm thu nhỏ dần khi lên cao. Mỗi mặt ở tầng trên cùng của tháp chạm một búp sen lớn đang độ mãn khai, trong lòng búp sen có khắc chữ Phật. Đây là ngôi tháp đá khá đẹp, tiêu biểu cho phong cách tháp mộ Phật giáo thế kỷ 17 – 18. Tiếc rằng phần đế tháp đã bị hư hỏng, sụt lún, rất cần có phương án gia cố tu bổ, chống xuống cấp.

Ngoài những giá trị tiêu biểu nêu trên, khu di tích chùa Nhẫm Dương và các hang động trong núi Nhẫm Dương còn là địa chỉ cách mạng ghi dấu những sự kiện lịch sử kháng chiến của quân dân ta. Trong kháng chiến chống Pháp, từ những năm 1948 đến1951, hang Thánh Hóa là nơi đóng quân của nhiều đơn vị quân đội đặc biệt đồng chí Lê Thanh Nghị và đồng chí Hoàng Quốc Việt đã dùng hang làm trụ sở chỉ huy của Đệ tứ chiến khu Đông Triều. Không chỉ hang Thánh Hóa, các hang khác như hang Ma, hang Mạt, hang Đình, hang Lợn, hang Bò Lê, hang Thóc hay Thung Xanh (nằm phía Đông chùa Nhẫm Dương) trong kháng chiến chống Pháp đều là nơi trú quân của bộ đội huyện và tỉnh và cũng chứng kiến nhiều cuộc chiến đấu của quân dân ta.. Tiếp đó, từ năm 1965 đến năm 1973, một số hang động trên núi là địa điểm đóng quân của Quân y viện 7 quân khu III v.v… Và với những giá trị đó, khu di tích chùa Nhẫm Dương đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng cấp quốc gia theo  Quyết định số 59/QĐ-BVHTT, ngày 29-10-2003.



* Viện Bảo tồn di tích – Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

[1]. Trích Lý lịch di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và các hang động tại xã Duy Tân – Kinh Môn – Hải Dương – tư liệu Cục Di sản, trang 4

[2] Trích Lý lịch di tích khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và các hang động tại xã Duy Tân – Kinh Môn – Hải Dương – tư liệu Cục Di sản, trang 5

[3]. Văn Huy – Lễ hội chùa Nhẫm Dương - http://sovhttdl.haiduong.gov.vn/

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 18)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 17)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 16)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 135
    • Số lượt truy cập : 7268761