Thông tin

NHÀ SƯ HUỆ NHẪN - NGƯỜI SÁNG LẬP PHÁI PHẬT GIÁO ĐÔNG SƠN

NHÀ SƯ HUỆ NHẪN - NGƯỜI SÁNG LẬP PHÁI
PHẬT GIÁO ĐÔNG SƠN

 

NGÔ THỊ NHUNG

 

Chùa Quang Khánh, ngôi chùa do ngài Huệ Nhẫn khởi tạo ở quê nhà

Thiền sư Huệ Nhẫn, thế danh là Vương Quán Viên, bố chết sớm, ở với mẹ, chịu khó học tập, năm 19 tuổi vào tu ở chùa Báo Ân, thuộc huyện Siêu Loại, một ngôi chùa nổi tiếng từ đời Lý. Lúc ngoài 20 tuổi, ngài theo học hai nhà sư Nghĩa Trụ và Chân Giám, tài năng ít người sánh kịp.

Đầu năm niên hiệu Trùng Hưng (1285 - 1292), nước ta gặp nhiều khó khăn, đạo Phật suy dần, nhiều người theo đạo Phật giảm sút lòng tin, nhưng sư Huệ Nhẫn vẫn kiên trì củng cố đạo Phật và từ chùa Báo Ân dời về chùa Đông Sơn (huyện Chí Linh), rồi lập ra phái Phật giáo Đông Sơn. Từ đó, ngài được gọi là Hòa thượng Đông Sơn. Sự tích còn ghi rõ trong 5 tấm bia dựng ở chùa Quang Khánh, ngôi chùa do ngài khởi tạo ở quê nhà, xã Dưỡng Mông, huyện Kim Thành, (Hải Hưng cũ) nay là tỉnh Hải Dương.

- Quang Khánh tự bi minh tự (bia chùa Quang Khánh có cả bài minh và bài tựa) dựng năm Hồng Thuận thứ 7 (1515) ghi rõ tiểu sử và chủ trương tiến bộ của nhà sư Huệ Nhẫn.

- Tĩnh Hạnh tháp bi ký (Bia tháp Tĩnh Hạnh) dựng năm Cảnh Hưng thứ 18 (1757) nói lên hoạt động của nhà sư Tĩnh Hạnh, Thích Như Văn.

- Liên Phương tháp bi ký (Bia tháp Liên Phương) cũng dựng năm Cảnh Hưng thứ 18 (1757) ghi tiểu sử của nhà sư Thích Trừng Trừng.

- Một bia ghi bài thơ chữ Nôm và một bia ghi bài thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông nói về chùa Quang Khánh.

Ngài sống rất giản dị và trong sạch, không nhận của ai bất kỳ một lễ vật biếu xén nào, mà tự mình cày cấy, trồng tỉa để nuôi mình và lập nhà chữa bệnh giúp dân nghèo. Ngài là một vị lương y nổi tiếng, đã chữa khỏi bệnh đau mắt cho vua Trần Minh Tông.

Khoảng năm niên hiệu Hưng Long (1293 - 1313), tệ nạn tin ma quái, đồng cốt hoành hành, ngài cùng học trò xuống núi, đi khắp nơi giải thích cho nhân dân biết biết điều hay để theo, thấy điều dở để tránh. Lúc bấy giờ, vua Trần Nhân Tông mới bắt đầu đi tu, và kính phục ông. Vua Trần Anh Tông thường đến thăm chùa và ban cho ngài tên hiệu là Huệ Nhẫn Quốc sư. Ngài không nhận phẩm hàm đó, nhưng mỗi khi nước nhà có việc lớn, ngài vẫn vào cung để góp ý với vua.

Năm Khai Thái thứ 2 (1325), nửa đêm 27 tháng Giêng, sư mất, thọ 69 tuổi, đi tu 51 năm. Sau đó vua Trần Minh Tông phong cho ông là Huệ Nhẫn đại thánh, Từ Giác quốc sư, còn cấp tiền để sửa chữa chùa Quang Khánh.

Những người nối gót sư Huệ Nhẫn để phát huy truyền thống của Phật giáo Đông Sơn qua các triều đại, kể ra cũng khá nhiều. Sách Thiền ngôn truyền đăng lục (in thời Tự Đức) có ghi tên khoảng 25 người, nhưng qua các bia nói trên, chỉ thấy nói đến 3 người: Hướng Lâm, Tì Khâu là người trực tiếp nối pháp ngài và quản lĩnh cả phái đạo; Thích Như Văn là người xã Kim Bôi, huyện Đông Triều đi tu từ năm 14 tuổi, là người thứ 10 trụ trì chùa Quang Khánh; và Thích Trừng Trừng xuất thân từ một gia đình thợ đá, quê ở Giáp Sơn (Hải Dương). Năm 23 tuổi nhân theo cha đến chùa Đông Sơn xây thềm đá, rồi xin theo học đạo, là người trực tiếp nối pháp Thích Như Văn và là người thứ 11 trụ trì chùa Quang Khánh (là ngôi chùa do sư Huệ Nhẫn khởi tạo. Đây là một trong những ngôi chùa lớn và nổi tiếng trên đất Hải Dương. Thời Nguyễn chùa có trên 120 gian, 32 tháp sư, hàng trăm pho tượng cổ và nhiều bia ký. Năm 1947, do chiến tranh, chùa bị phá hủy hoàn toàn. Sau ngày miền Bắc giải phóng, chùa được khôi phục, đến nay cũng chỉ đạt một phần nhỏ của kiến trúc. Riêng hệ thống tháp vẫn được bảo tồn như xưa. Hội chùa Quang Khánh cũng bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của sư Tuệ Nhẫn (Hội bắt đầu từ ngày 24-26 tháng Giêng, 26 là ngày trọng hội)).

Chủ trương của Phật giáo Đông Sơn là tích cực tham gia lao động, cứu giúp nhân dân trong khi đau ốm hoặc đói rét, đồng thời dung hòa với Nho giáo, do đó được nhiều người đồng tình và ca ngợi.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 14)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 13)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 12)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 82
    • Số lượt truy cập : 7048375