Thông tin

NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM - VẦN Thăng

Thăng

 

- Hồ Đắc Thăng, Cư sĩ, hệ phái PG Nam Tông Việt Nam. Ông có công chuyển ngữ các tác phẩm PG nguyên thủy ra tiếng Việt. Ông định cư tại Hoa Kỳ, hợp tác với các trung tâm PG nguyên thủy về dịch thuật truyền bá chánh pháp; nguyên quán Thừa Thiên Huế, trú quán Hoa Kỳ. 

- Nguyễn Tâm Thăng (1900-1970), Cư sĩ, cán bộ y tế thời Pháp, pháp danh Tâm Định. Năm 1930, ông tham gia Phật sự được giao trông coi bệnh xá của Tỉnh hội PG Thừa Thiên sáng lập. Ông còn được Giáo hội tín nhiệm giao làm Trưởng Ban Từ thiện xã hội; Trạm trưởng Trạm Y tế chùa Từ Đàm, kiêm quay phim nhiếp ảnh các buổi lễ lớn của PG. Ông được Tăng ni Phật tử gọi thân mật là “Bác Đội Thăng”; nguyên, trú quán Thừa Thiên Huế - theo Chư tôn Thiền đức & Cư sĩ hữu công Thuận Hóa. 

- Thích Bửu Thắng (1917-2001), Hòa thượng, dòng Lâm Tế Gia Phổ đời 41, thế danh Huỳnh Văn Giác, xuất gia năm 1941 với HT Hồng Hoa - chùa Phước Hựu - Gò Công, pháp danh Nhựt Thuận, pháp tự Thiện Lý. Năm 1944, ngài được bổn sư truyền giới Cụ túc phương trượng và ban pháp hiệu Bửu Thắng, được bổn sư ấn truyền cho pháp môn Thiền Trực Chỉ, vốn đã thất truyền từ lâu sau khi tổ Liễu Quán viên tịch. Năm 1958, ngài trụ trì chùa Bửu Lý - Gò Công, sau đổi hiệu là chùa Huệ Quang. Năm 1960, ngài rời chùa Huệ Quang, về ấp Kim Liên, thị xã Gò Công lập am thất ẩn dật tu hành, sau này trở thành chùa Bửu Minh. Năm 1983, ngài mới khai thị pháp môn Thiền Trực Chỉ tại tịnh xá Ngọc Thành - Chợ Lách - Bến Tre sau bao năm thiền tập. Năm 1985, ngài được HT Huệ Hưng, viện chủ tu viện Huệ Quang - Đầm Sen mời về khai pháp Thiền Trực Chỉ tại tu viện trong hai năm. Cuối năm 1987, ngài về chùa Bửu Quang - Hòa Hưng - Sài Gòn dưỡng bệnh và thành lập đạo tràng Kim Cang Bát Nhã, hướng dẫn người mến mộ thực hành tu thiền tập. Đạo tràng này sinh hoạt từ năm 1987-1994. Năm 1988, ngài được cung thỉnh về khai thị thiền học tại chùa Long Hưng - Long Thành - Đồng Nai và chứng minh lễ khánh thành tịnh thất Giác Quang trong khuôn viên chùa. Năm 1991, ngài được cung thỉnh làm Giới sư truyền Sa di, Sa di ni tại giới đàn phương trượng chùa Long Hưng. Ngài xả báo thân tại chùa Bửu Minh - Gò Công ngày Rằm tháng 2 năm Tân Tỵ (09-3-2001), thọ 85 năm, 57 hạ lạp; nguyên, trú quán Gò Công Tiền Giang -theo Từ điển Thiền Trực Chỉ, PL 2546.

- Thích Đức Thắng, Thượng tọa, bút danh Đãi Lãn, Phổ Đồng, đệ tử xuất gia với HT Trí Thủ - tu viện Quảng Hương Già Lam, trú xứ tu viện Quảng Hương Già Lam - Gò Vấp; tác phẩm: Kinh Trung A Hàm (dịch); Kinh Tạp A Hàm (dịch); Phật; Bát Chánh Đạo; Bốn sự thật; Bồ tát; Mười hai nhân duyên; Ngũ căn Ngũ lực; Thất giác chi; Thanh Văn; Tứ chánh cần; Từ niệm trụ; Tứ thần túc; Niết Bàn; Pháp chỉ thẳng; Phá chấp ngã pháp; Thõng tay vào chợ; Ẩn dụ một đóa mai; Pháp dạy người của Lục tổ đại sư; Tứ đế và quan điểm Bồ tát Long Thọ;  Công án thiền và vấn đề nhận thức; Thiền sư Pháp Loa và pháp chỉ thẳng; Hạnh nguyện đức Bồ tát Quan Thế Âm; Pháp dạy người của Thượng sĩ Tuệ Trung; Thiền sư Huyền Quang và bước tiến tâm linh; Con trâu đất: một biểu tượng độc đáo của Tuệ Trung; Nguyễn Du và phân Kinh Thạch Đài; Nguyễn Du chịu ảnh hưởng PG như thế nào?; Chùm thơ tham bái Phật tích Ấn Độ...; nguyên quán Bình Định, trú quán TP Hồ Chí Minh - trang nhà www.quangduc.com

- Thích Huệ Thắng (1928-2010), Hòa thượng, dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời  42, thế danh Đỗ Văn Thuận, xuất gia năm 1918 với HT Vạn Pháp - chùa Kim Quang - Phú Yên, pháp danh Thị Trị, pháp tự Hành Thông, pháp hiệu Huệ Thắng. Năm 1946, bổn sư viên tịch, ngài cầu pháp HT Vạn Ân - là sư thúc của ngài. Năm 1947, ngài thọ đại giới tại giới đàn chùa Bảo Sơn - Tuy An, do HT Vạn Ân làm Đàn đầu truyền giới. Năm 1961, ngài được cử trụ trì chùa Thọ Vân - Thượng Tiên - Phú Yên. Năm 1963, ngài làm Chánh Đại diện PG xã Bình Kiến. Năm 1974, ngài kiêm nhiệm trụ trì chùa Kim Quang và chùa Thọ Vân. Năm 1989, tỉnh Phú Yên tái lập, ngài được cung thỉnh làm Trưởng Ban Tăng sự, kiêm Trưởng Ban Nghi lễ liên tiếp nhiều nhiệm kỳ. Ngài là bậc hành trì Mật pháp độ sinh và Chẩn tế cô hồn để độ tử trong khắp tỉnh Phú Yên. Năm 1998-2001, ngài được cung thỉnh làm Giới sư trong đại giới đàn Liễu Quán I và II. Năm 2002, ngài được suy tôn làm Chứng minh BTS PG tỉnh Phú Yên. Ngài xả báo thân ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Sửu (07-01-2010), thọ 82 năm, 63 hạ lạp; nguyên, trú quán Phú Yên - xem thêm Danh Tăng Việt Nam, tập 3.

- Thích Tôn Thắng (1879-1976), Hòa thượng, xuất gia với HT Tâm Truyền - chùa Báo Quốc, được pháp danh Trừng Kệ, pháp tự Như Nhu, thế danh Dương Văn Minh. Năm 1906, ngài được phong Tăng cang chùa Diệu Đế. Năm 1910, ngài vào Quảng Nam, Khánh Hòa và Bình Thuận để tham học. Năm 1913, ngài trở về Huế thọ tang bổn sư và được sơn môn cử làm Tri sự tổ đình Báo Quốc. Năm 1918, ngài vào Đà Nẵng, khai sơn chùa Phổ Thiên. Năm 1924, ngài cầu pháp HT Phước Trí, chùa Tam Thai, được phú pháp hiệu là Tôn Thắng. Năm 1932, hưởng ứng phong trào chấn hưng PG, ngài đứng ra sáng lập Hội Đà Thành Phật học. Năm 1935-1936, ngài khai sơn chùa Tịnh Độ ở Tam Kỳ, chùa Diệu Pháp ở Đà Nẵng để làm Phật học ni viện. Năm 1942, ngài về quê mở Trường Phật học tỉnh Quảng Trị và làm giám đốc trường 3 năm. Năm 1945, ngài trở lại Đà Nẵng trùng tu các chùa và hành đạo tại đây đến cuối đời. Năm 1966, ngài được cung thỉnh vào Hội đồng Trưởng lão Viện Tăng thống GHPGVNTN. Ngài thị tịch ngài 16 tháng 3 năm Bính Thân (1976), thọ 87 năm, 53 hạ lạp, bảo tháp lập ở chùa Tịnh Độ; nguyên quán Quảng Trị, trú quán Đà Nẵng - xem thêm Danh Tăng Việt Nam, tập 2.

- Thiện Thắng (1923-1993), Hòa thượng, Trưởng lão hệ phái Nam Tông Việt Nam. Năm 1931, ngài xuất gia tại chùa Pháp Hải - Chợ Lớn, theo hệ phái Bắc tông. Năm 1954, ngài chuyển hướng sang Nam tông thọ giới Sa di với HT Suvanna Khippapanne - chùa Giác Quang - Bình Đông, sau đó sang tham học ở Campuchia. Năm 1976, ngài trở về Việt Nam trú xứ chùa Tam Bảo - Đà Nẵng. Năm 1978, ngài được bổ nhiệm trụ trì chùa Từ Quang - Gò Vấp. Năm 1993, ngài được mời làm Thành viên Ban Chứng minh Thành hội PG TP Hồ Chí Minh. Ngài xả báo thân ngày mồng 7 tháng 7 năm Quý Dậu (24-3-1993), thọ 70 năm, 40 năm hành đạo; nguyên quán Quảng Nam, trú quán TP Hồ Chí Minh -xem thêm Danh Tăng Việt Nam, tập 2.

- Thích Trí Thắng (1891-1975), Hòa thượng, thế danh Nguyễn Khắc Đông. Năm 1918, ngài xuất gia với tổ Ấn Bình - chùa Thiên Hòa - Bình Định, pháp danh Chơn Cảnh, pháp tự Đạo Thông, pháp hiệu Trí Thắng, nối pháp dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời 40. Năm 1921, ngài kế thế trụ trì chùa Thiên Hòa. Năm 1927, ngài khai sơn chùa Thiên Hưng - Phan Rang. Năm 1938, ngài cùng các Cư sĩ thành lập An Nam Phật học Chi hội Ninh Thuận, và năm sau chùa Thiên Hưng được triều đình ban biển ngạch Sắc tứ. Năm 1940, ngài nhận trụ trì Thiền Lâm Cổ tự, đến 1942, triều đình sắc phong cho ngài làm Tăng cang Thiền Lâm Cổ tự - Phan Rang. Năm 1950, ngài đảm trách Hội trưởng Hội Việt Nam Phật học tỉnh Ninh Thuận và Trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Ninh Thuận. Năm 1951, ngài được mời làm Giám đốc PHĐ Nha Trang. Năm 1955, ngài thành lập Tịnh Độ Tông Việt Nam và giữ chức Tông trưởng. Năm 1964, ngài là Phó Tăng thống, kiêm Giám luật Tịnh Độ Tông Việt Nam. Ngài viên tịch ngày 12 tháng 5 năm Ất Mão (21-6-1975), thọ 85 tuổi, 54 hạ lạp; ngài nguyên quán Bình Định, trú quán Ninh Thuận - xem thêm Danh Tăng Việt Nam, tập 1.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 119
    • Số lượt truy cập : 6127659