PHẬT GIÁO TRÚC LÂM ĐÂU CHỈ CÓ THIỀN HỌC[1]
Tư tưởng Phật giáo Trúc Lâm là tư tưởng thiền học thống lĩnh các lĩnh vực chính trị, văn hóa, văn học, tín ngưỡng, thấm sâu vào xã hội Đại Việt. Đó là hệ tư tưởng làm nền tảng độc lập tự chủ quốc gia trước các cuộc xâm lăng của giặc Nguyên Mông thời bấy giờ, trở thành một thiền phái đặc thù của dân tộc. Nhưng nếu chỉ như thế, thì làm sao thấm nhuần đến mọi tầng lớp và phổ cập đại chúng để tồn tại dài lâu cho đến ngày nay được?
A. NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU
Sự hợp nhất các thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường quy về một mối Phật giáo Trúc Lâm, là cách dụng công đồng hành của các thiền sư nhà Trần, trong công cuộc giữ nước bảo vệ độc lập dân tộc bằng hành động nhập thế tích cực của Phật giáo Trúc Lâm, tiêu biểu cho sự thống nhất trải qua bao thăng trầm lịch sử của Phật giáo Việt Nam. Ngoài tư tưởng thiền học sáng chói, Phật giáo Trúc Lâm còn có những giá trị khác để trở thành linh hồn của Phật giáo Việt Nam mà ai ai cũng tự hào mình là con cháu của Trúc Lâm Tổ sư.
1. Giá trị dung hợp vô ngại
Phật giáo thời Trần mạnh mẽ và lan tỏa rộng rãi nhờ sự hỗ trợ và cổ súy của triều đình, bắt nguồn từ các vua Trần Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông đều rất giỏi về Phật học. Trong đó, thời đại Nhân Tông là thời đại mà Phật giáo hưng thịnh đến cực độ. Họ nhiệt tâm ủng hộ Phật giáo chính vì họ là phật tử, mặt khác cũng là để liên kết nhân tâm trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trong thời Trần, tinh thần dung hợp và tự do là chủ yếu. Không bao giờ có chuyện chống đối và chỉ trích Nho giáo cùng Lão giáo. Mặc dù là hệ tư tưởng chủ đạo, nhưng Phật giáo đã để cho Nho giáo và Lão giáo tự do phát triển. Chính những phật tử thuần thành nhất như Thái Tông và Thánh Tông đã mở rộng Nho giáo. Năm 1253, Thái Tông lập Quốc Học Viện ở kinh đô và tạc tượng Chu Văn An, Khổng tử, Mạnh tử cùng vẽ tranh 72 vị tiền hiền để thờ cúng. Thánh Tông còn cho hoàng đệ là Trần Ích Tắc mở trường dạy Nho học. Vào các khoa thi năm 1232, 1247 tổ chức để kén chọn nhân tài, triều đình đãi ngộ nhân tài và sĩ phu rất kính cẩn, cho nên người giỏi xuất hiện rất nhiều và sự học phát triển rất rộng. Lê Quý Đôn đã nhận xét trong Kiến Văn Tiểu Lục: "Bởi vì nhà Trần đãi kẻ sĩ một cách khoan dung, không hẹp hòi, hòa vị mà có lễ phép, cho nên nhân sĩ thời ấy ai cũng biết tự lập, anh hào tuấn vĩ vượt ra ngoài lưu tục, làm quang vinh cả sử sách, không thẹn với trời đất, há phải đời sau kịp được đâu" ([2]).
2. Giá trị tích cực của từ bi nhập thế
Tinh thần từ bi và khoan dung của đạo Phật không phải là đồng hành với nghĩa tiêu cực và quên lãng thế sự. Điều này có thể minh chứng qua Hội nghị Diên Hồng do Trần Nhân Tông triệu tập đã nói lên được sự đồng tâm nhất trí của vua dân thời ấy. Quyết nghị đồng thanh "Đánh" là tiếng nói của ý thức tự chủ và tinh thần tự cường tự lực của dân tộc Việt. Đó cũng là thể hiện tính thống nhất trên dưới một lòng của Phật giáo nhập thế đời Trần.
Năm 1362, vua Minh Tông ngự ở phủ Thiên Trường, ra cáo thị hễ trong nhân dân ai có đói và bệnh thì có thể đến đấy để xin hai viên thuốc Hồng Ngọc Sương do triều đình chế tạo, với hai quan tiền và hai thăng gạo. Những năm mất mùa, nhiều người bệnh tật, triều đình hay khuyến cáo những nhà giàu dâng thóc gạo để triều đình phát chẩn cho dân nghèo, và ban tước phẩm cho những nhà giàu dâng thóc gạo.
Việc làm của những vị vua nhà Trần tuy đều sử dụng tiềm lực Phật giáo làm chính trị để liên kết nhân tâm, nhưng không vì vậy mà giả danh là phật tử. Họ là những phật tử chân chính và đều có ý nguyện phụng sự đạo Phật song song với việc phụng sự quốc gia và triều đại của họ.
B. PHẬT GIÁO TRÚC LÂM ĐÂU CHỈ CÓ THIỀN HỌC
Nói đến Phật giáo Trúc Lâm, là nói đến sự rực rỡ của thiền học Trúc Lâm. Đúng là dòng thiền này là đỉnh cao tột của Phật giáo Trúc Lâm, nhưng đâu chỉ thiền học mới gọi là Phật giáo Trúc Lâm? Điểm độc đáo của dòng phái này là tông chỉ tam pháp ấn: Thiền – Tịnh – Mật. Đây mới là những giá trị độc đáo khác đã làm cho Phật giáo Trúc Lâm tồn tại dài lâu với dân tộc do thâm nhập được vào đời sống thực tế của các tầng lớp từ trí thức cho tới bình dân, từ quan vị cho tới dân giả, ai ai cũng có thể tu tập và tự hào là mình là môn đệ Phật giáo Trúc Lâm.
1. Phật giáo Trúc Lâm và xu hướng Tịnh độ
Ở đây chúng tôi không nghĩ riêng chỉ gọi là thiền phái Trúc Lâm mà còn có các danh từ khác toàn diện hơn, như thiền sư Nhất Hạnh thì gọi là Giáo hội Trúc Lâm, chúng tôi đề nghị nên gọi là Phật giáo Trúc Lâm. Vì thực sự trong Phật giáo Trúc Lâm vốn có đủ các yếu tố Thiền – Tịnh – Mật. Như chúng ta biết, từ thời Lý, Phật giáo đã có đủ ba pháp môn này phổ biến, nhưng thiên về Mật giáo nhiều hơn. Đến đầu thời Trần, các vị vua phật tử lại xem trọng yếu tố thiền học hơn, hầu như lược hẳn yếu tố Mật giáo, nhưng vẫn giữ lại pháp môn niệm Phật trong thời khóa.
Vấn đề niệm Phật đã được Trần Thái Tông và Tuệ Trung đề cập tới. Đối với cả hai người, niệm Phật cũng như ngồi thiền, có mục đích gạn lọc tâm ý và thể hiện pháp thân. Thái Tông có nói đến việc "sinh về nước Phật", trong đoạn văn sau:
"Đối với bậc hạ trí, miệng phải chuyên niệm lời Phật, tâm phải mong thấy tướng Phật, thân phải nguyện sinh nước Phật, ngày đêm siêng năng tu hành không thoái chuyển, sau khi mạng chung sẽ tùy thiện niệm của mình mà được sinh về nước Phật, sau đó được nghe chính pháp do chư Phật giảng dạy mà chứng được quả vị Bồ đề, cũng đạt tới địa vị Phật..." ([3])
Thái tông hai lần nói tới việc "mượn đến phương pháp niệm Phật" cho ta thấy vua xem niệm Phật cũng là một phương tiện thiền định, bởi niệm Phật là gạn lọc tâm ý, diệt trừ ác nghiệp, phá trừ những chướng ngại tâm lý để làm hiển lộ bản tính mà cũng là Phật tính.
Bài thơ của Tuệ Trung về tịnh độ cũng cho biết ông xem đức Phật A Di Đà là tự tâm của mọi người, là pháp thân có mặt khắp nơi như ánh trăng có trên mọi sóng nước của đại dương vào một đêm thu lạnh:
"Tâm nội Di Đà tử mạ khu
Đông tây nam bắc pháp thân chu
Trường không chỉ kiến cô luân nguyệt
Sát hải trùng trùng dạ mạn thu".
Tạm dịch:
Di Đà vốn thực pháp thân ta
Nam bắc đông tây khắp chói lòa
Trăng thu ngự giữa trời cao rộng
Đêm lặng trùng dương rạng chiếu xa.([4])
Qua đến Nhân Tông sau khi giao ngôi vua cho Anh Tông, ngài xuất gia theo Phật lấy pháp hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà, vân du khắp nơi trong dân gian để tìm hiểu dân tình và cổ súy Phật pháp. Theo Thánh Đăng Ngữ Lục chép lại, năm Giáp Thìn 1034, thượng hoàng "đi khắp xóm làng để giáo hóa và trừ bỏ các việc thờ cúng bậy, dạy cho thực hành mười điều thiện"([5]). Ngoài hướng dẫn nhân dân hành thập thiện, chắc chắn ngài khuyến trợ họ hành trì niệm Phật, cũng là tha lực chính đạo ắt được vãng sinh về nước Phật, như thế mới có hiệu quả thay thế cho tha lực tà đạo của các miếu thờ tà bậy được phá bỏ.
Trong giới xuất gia, ở những buổi nhóm chúng vào thời Trúc Lâm, tăng sĩ cũng đã áp dụng phương pháp niệm Phật tập thể. Sách Thiền Đạo Yếu Học có ghi lại cuộc vấn đáp của Trúc Lâm với vài vị tăng trong khi đại chúng đang thực hành phương pháp niệm Phật trên chính điện([6]). Qua sự kiện này cho ta thấy ngày nay, phương pháp niệm Phật tập thể này vẫn được các sơn môn miền Bắc duy trì trong thời khóa hằng ngày. Đây có phải chăng là một dấu ấn về tịnh độ của Phật giáo Trúc Lâm còn được duy trì đến nay?
Chứng cứ pháp môn tịnh độ thịnh hành ở đời sau Trúc Lâm còn rõ nét hơn, qua việc vua Anh Tông nhân ngày lên làm thái thượng hoàng đã cho đúc tượng đồng ba vị Phật Di Đà, Thích Ca và Di Lặc, mỗi tượng cao 17 thước ta([7]). Câu A Di Đà Phật còn là câu chào hỏi đầu cửa miệng trong tuyệt đại quần chúng miền Bắc từ bao đời, nó như là câu tuyên ngôn rõ nét nhất về sự phát huy mạnh mẽ của Phật giáo miền Bắc, hậu duệ đích tôn của Phật giáo Trúc Lâm xa xưa. Thế thì tại sao chúng ta không cảm nhận được cái quốc hồn quốc túy này là một trong những thành tố truyền thống của Phật giáo Trúc Lâm, bởi tinh thần của Trúc Lâm là tổng hợp và dung nạp vô ngại?
Ngoài ra, thiền học Trúc Lâm có một thời bị mai một bởi giặc xâm lăng và bởi không có người truyền thừa. Còn truyền thống niệm Phật lại như là sợi chỉ xuyên suốt bao đời, khiến truyền nhân học Phật không bị mai một để mang lấy trọng trách lưu giữ những di sản tinh thần của Phật giáo Trúc Lâm xưa, làm mạng mạch duy trì cho Trúc Lâm ngày nay được phục hưng vậy.
Ta biết rằng qua lời dạy của Thái Tông, đời sống bậc hạ trí thì lấy niệm Phật làm phương tiện vãng sinh cảnh giới nước Phật; đời sống bậc trung trí thì lấy niệm Phật tương tục không vong thất gián đoạn làm tự tâm thuần thiện; đời sống bậc thượng trí thì lấy tâm chính là Phật, chủ thề niệm và đối tượng niệm là một không khác. Thế thì biết rằng, há chẳng phải là học thuyết Trúc Lâm đó ư?
2. Phật giáo Trúc Lâm và xu hướng Mật giáo
Sau thời kỳ rực rỡ thiền học của các vua đầu nhà Trần dần dần lắng xuống. Kể từ đầu thế kỷ XIV, để củng cố và phổ biến Phật giáo Trúc Lâm, các vua và thiền sư đời sau có xu hướng đưa thêm Mật giáo vốn đã rất thịnh từ thời Lý vào hệ thống học thuyết Trúc Lâm. Mật giáo được phát triển trở lại từ thời Anh Tông và Pháp Loa, nổi bật trong xu hướng này là thiền sư Huyền Quang.
Năm 1318, vua Anh Tông xuống chiếu đi tìm vị tăng sĩ Ấn Độ tên là Ban Để Đa Ô Sa Thất Lợi về dịch một cuốn kinh Mật giáo tên là Bạch Tán Thần Chú. Pháp Loa để tâm rất nhiều vào việc trì chú, như trong Tam Tổ Thực Lục nói "Sư thường ngày đêm trì chú lễ Phật". Ông cũng có phân tích một kinh văn có khuynh hướng Mật giáo gọi là Kim Cương Trường Đà La Ni Khoa Chú. Vua Anh Tông, Văn Huệ Vương, Uy Huệ Vương và nhiều người khác đã được thiền sư Pháp Loa làm lễ quán đỉnh, một nghi thức của Mật giáo.
Ảnh hưởng Mật giáo thời Trúc Lâm không hẳn trực tiếp từ Lạt Ma giáo Tây Tạng, dù rằng thời này đã có nhiều tăng sĩ Ấn Độ như Bồ Đề Thất Lý và Tây Tạng như Du Chi Bà Lam đến sinh sống và truyền giáo tại Đại Việt. Mật giáo thời Trúc Lâm là sự đan xen của tam pháp ấn Thiền – Tịnh – Mật trong phương pháp hành trì, tương tự phương pháp của ngài Vĩnh Minh Diên Thọ ở Trung Hoa, trì chú đồng thời với phương pháp niệm Phật và tọa thiền. Còn Mật giáo Tây Tạng thì trực tiếp trì chú làm công năng hành trì chính. Từ thế kỷ XIV trở đi, trong thiền môn đã sử dụng các thần chú Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, Đại Bi Tâm Đà La Ni và mười bài thần chú ngắn được đưa vào trong thời khóa tụng niệm buổi sáng, áp dụng trong thiền môn cho tới ngày nay. Truyện Tổ Gia Thực Lục có nói tới buổi tụng kinh của Huyền Quang và đại chúng vào canh ba. Đây chắc chắn là một trong các thời khóa tụng niệm, trong đó yếu tố Tịnh độ và Mật giáo đã trở thành quan trọng([8]).
Thiền sư Huyền Quang là người chế tạo ra đài Cửu Phẩm Liên Hoa ở chùa Tư Phúc-Côn Sơn, chùa Ninh Phúc-Bắc Ninh (tức chùa Bút Tháp). Tòa Cửu Phẩm này là một cái tháp có thể xoay vòng trong khi niệm Phật và trì chú. Tháp xoay có chín tầng và tám mặt. Mỗi mặt của tầng dưới chạm nổi hình ảnh sự tích Phật, trong đó có hình Cực Lạc Thế Giới và đức Phật A Di Đà. Ngày nay ta còn thấy các tòa Cửu Phẩm này còn ở chùa Cửu Phẩm-Hải Dương, trú xứ của thiền sư Chân Nguyên (1647 – 1726), một hậu duệ của thiền phái Trúc Lâm([9]). Vậy thì không chỉ có thiền sư Huyền Quang làm tòa Cửu Phẩm, mà các thế hệ tăng sĩ thiền sư đời sau đã vẫn tiếp nối truyền thống tu học này. Hình ảnh chiếc tháp xoay là minh chứng cho ảnh hưởng Mật giáo Tây Tạng đã truyền đến và được dung nạp vào hệ thống Phật giáo Trúc Lâm.
Một khía cạnh khác của sự thực hành Mật giáo cũng trở thành phổ biến và quan trọng trong Phật giáo đời Trần: đó là việc tổ chức các trai đàn chẩn tế, gọi là "Diệm Khẩu Phổ Thí Pháp Hội", có nghĩa là những đại hộ về Phật Pháp để bố thí thức ăn cho loài quỷ đói. Phép tổ chức đàn chay này, theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được du nhập vào Đại Việt từ năm 1320, thiền sư Pháp Loa tổ chức trai đàn chẩn tế tại chùa Phổ Ninh trong cung để cầu cho thượng hoàng Anh Tông sống lâu thêm, và cũng trong dịp đó cũng làm lễ quán đảnh cho thượng hoàng([10]). Ngày nay, trong thời khóa tụng buổi chiều của các chùa, đều có nghi thức Mông Sơn Thí Thực Văn, đó là những nghi thức mang ảnh hưởng Mật Giáo phổ biến.
C. ĐÚC KẾT QUAN ĐIỂM
Phật giáo đời Trần đã là một yếu tố liên kết nhân tâm quan trọng. Tinh thần Phật giáo đã khiến cho các nhà lãnh đạo áp dụng những chính sách bình dị, thân dân và dân chủ. Chính Nhân Tông đã sử dụng được tiềm năng của Phật giáo để phục vụ cho chính trị quốc gia và khiến cho Phật giáo Trúc Lâm trở nên một lực lượng tôn giáo hùng mạnh yểm trợ cho triều đại.
Bởi thế, để củng cố triều đại và phù hợp lòng dân, tông chỉ tam pháp ấn Thiền – Tịnh – Mật được phổ cập hóa trong giới tăng lữ để dẫn dắt các tầng lớp nhân dân dễ dàng trong việc hành trì các phương pháp phổ biến, chứ không chỉ có tư tưởng thiền học cao siêu ở tầng lớp tăng sĩ và trí thức vương tôn mới hội đủ yếu tố tham học được.
Từ những giá trị lịch sử này, đã phác thảo cho chúng ta xác định mục tiêu nghiên cứu phục hồi và phát triển Phật giáo Trúc Lâm ở ngày nay, khởi đầu từ cái nôi Yên Tử-Quảng Ninh, rồi sẽ được nhân rộng đến khắp Việt Nam và đi xa hơn nữa. Ngoài công cuộc phục hồi thiền học do thiền sư Thanh Từ đảm trách, chúng tôi thiết nghĩ, các nhà hoạch định phát triển Phật giáo Trúc Lâm nên để tâm vào các giá trị khác, đó là học thuyết Trúc Lâm với tông chỉ tam pháp ấn, đã tồn tại vững bền trong lòng người dân và phật tử miền Bắc qua câu niệm Phật A Di Đà như câu chào trên cửa miệng, rồi các thời khóa trai đàn pháp hội theo khoa nghi của Tổ Huyền Quang đã soạn ra. Đây mới chính là nét văn hóa riêng, là phong tục hội lễ tín ngưỡng đặc thù của nước nhà, song hành cùng nền tín ngưỡng bản địa truyền thống mà không hề chống trái trở ngại nhau.
Dẫu rằng, thiền học đời Trần là tột đỉnh của thiền học Trúc Lâm, nhưng như đầu đề bài tham luận này, Phật giáo Trúc Lâm đâu chỉ có thiền học? Mà chúng ta phải ra sức biến thành một học thuyết Trúc Lâm, là một học thuyết Phật giáo Việt Nam mang tính toàn diện và phổ cập, trong đó bao hàm tông chỉ tam pháp ấn của Trúc Lâm: Thiền – Tịnh – Mật. Hiện nay, chúng ta chi mới phục hồi được một phần của thiền học Trúc Lâm, nếu chỉ cho đó mới đúng là Thiền phái Trúc Lâm thì không gì phải bàn. Nhưng nếu cả quyết đó là Phật giáo Trúc Lâm thì thật sự khiên cưỡng và khập khiểng, bởi bỏ quên hai thành tố Tịnh – Mật vốn dĩ đã nuôi sống và bảo vệ truyền thống Trúc Lâm cho đến tận ngày nay bằng cách hành đạo, tu học, giữ gìn chùa chiền và di chỉ của Trúc Lâm truyền thừa.
Chỉ khi nào, mọi ứng dụng cốt lõi của những giá trị khác ngoài thiền học của Phật giáo Trúc Lâm, được đưa vào phát triển hài hòa trong thực tiễn ngay trên vùng đất lịch sử Quảng Ninh, với các di chỉ Phật giáo Trúc Lâm ở Yên Tử – Quỳnh Lâm – Mạo Khê – Côn Sơn... Chỉ đến khi ấy, cái nhìn đúng và toàn diện về Phật giáo Trúc Lâm phổ cập mới thật sự phát huy tính năng với những giá trị truyền thống văn hóa tín ngưỡng đặc thù của dân tộc Việt, làm nên niềm tự hào dân tộc, để cho mỗi người con đất Việt và du khách, bạn bè thế giới có được cảm nhận lịch sử và cái hồn của Phật giáo Trúc Lâm khi tìm về du khảo chiêm bái vùng đất địa linh này.
Viết xong ngày 30. 09. 2005
Tại Tp. Hồ Chí Minh
Tài liệu tham khảo:
– Toàn tập Trần Nhân Tông. Lê Mạnh Thát, NXB TP. HCM 2000
– Phật Giáo Việt Nam Sử Luận. Nguyễn Lang, NXB Văn Học, Hà Nội 1994
– Lược Khảo Phật Giáo Sử Việt Nam. Vân Thanh, Tác Giả XB, Sài Gòn 1974
– Đạo Phật Việt Nam. Thích Đức Nghiệp, NXB TP. HCM 1995
– Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam. Nguyễn Tài Thư, NXB KHXH, Hà Nội 1991
– Thiền Sư Việt Nam. Thích Thanh Từ, NXB TP. HCM 1997
[1]. Tham luận Hội thảo Phật giáo đời Trần ở Quảng Ninh.
[2]. PGVN Sử Luận. Nguyễn Lang, tập I, tr 501
[3]. PGVN Sử Luận. Nguyễn Lang, tập I, tr 489
[4]. PGVN Sử Luận. Nguyễn Lang, tập I, tr 489
[5]. Toàn tập Trần Nhân Tông. Lê Mạnh Thát, tr 200
[6]. PGVN Sử Luận. Nguyễn Lang, tập I, tr 491
[7]. PGVN Sử Luận. Nguyễn Lang, tập I, tr 407
[8]. PGVN Sử Luận. Nguyễn Lang, tập I, tr 494
[9]. Thiền và Tịnh độ trong mạch sống dân tộc. Ta Bà Ha. 1995
[10]. PGVN Sử Luận. Nguyễn Lang, tập I, tr 495
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết