PHÁT HIỆN CỔ NHÂN, CỔ SINH Ở ĐỘNG THÁNH HÓA
VÀ TIỀM NĂNG DU LỊCH CỦA KINH MÔN
PGS.TS. NGUYỄN LÂN CƯỜNG*
1. Phát hiện cổ nhân, cổ sinh ở động Thánh Hóa và ý nghĩa của chúng
1.1. Những phát hiện về cổ nhân và cổ sinh
Ngày 21-6-2000, ông Tăng Bá Hoành, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Hải Dương và chúng tôi đã về thôn Nhẫm Dương, xã Duy Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương để nghiên cứu những hiện vật khảo cổ học tìm thấy trong động Thánh Hoá, sát ngay sau chùa Thánh Quang. Địa điểm này nằm ở phía đông - bắc của thị xã Hải Dương, theo đường chim bay chỉ cách thị xã khoảng 24km, còn theo đường ô tô là 48km. Động Thánh Hoá nằm cao hơn mặt ruộng khoảng 15m, cửa hang quay về phía đông và đã được cải tạo bằng gạch làm thành cửa hang.
Theo sư thầy Thích Diệu Mơ, trụ trì chùa Thánh Quang, vào những năm kháng chiến chống Pháp, nhà chùa đã đào nền hang để chôn một số pho tượng đá. Nay do xây dựng lại chùa Thánh Quang, nên đầu tháng 6 năm 2000 nhà chùa đã đào nền hang tìm lại tượng để thờ và thế là vô tình nhà chùa đã phát hiện được những hoá thạch có giá trị khoa học mà ngay từ ngày 24-4-2000 đã báo cáo về những di vật đào được cho Bảo tàng Hải Dương. Trước đó bản thân sư thầy Thích Diệu Mơ, đã bỏ tiền mua lại một số lưỡi rìu bằng đá, đồng do nhân dân tìm thấy ở trong thôn để tặng lại Bảo tàng của tỉnh. Trong số những hoá thạch nhà chùa đưa ra cho chúng tôi xem, tôi đã phát hiện được nhiều xương, răng động vật hoá thạch và di cốt của người cổ ở thời đại muộn hơn, đặc biệt là những chiếc răng hóa thạch của đười ươi và một đoạn hàm dưới của tê giác. Cách cửa hang khoảng 50m, nhà chùa đã tiến hành đào đất để đắp nền ngoài của chùa và đã phát hiện ở đây những hiện vật khảo cổ như gốm men nâu thời Trần, bình thời Lê và hàng trăm đồng tiền cổ mà theo ông Tăng Bá Hoành là tiền của thời Quang Trung và Trung Quốc.
Khi về chùa lần thứ nhất, sư thầy Thích Diệu Mơ và bác Trần Văn Quyết đã đưa cho chúng tôi xem hơn 100 mẫu vật hoá thạch, một số mẫu khác còn nằm trong các tảng trầm tích màu nâu rất cứng để trong hang. Một số di cốt người chưa hoá thạch, gồm mảnh sọ, răng và xương chi thuộc giai đoạn muộn hơn nhiều.
Đầu năm 2001, Phòng Con người và Môi trường cổ, Viện Khảo cổ học đã tiến hành nghiên cứu tiếp các di cốt người, do nhà chùa đào nền hang Thánh Hóa tìm thấy. Tại độ sâu 3m5, phát hiện được một số mảnh xương sọ của người đã chớm hóa thạch. Phòng chúng tôi đã phục nguyên sọ cổ này và ký hiệu là 2001THM2.
Cuối năm 2003, tôi trở lại chùa lần thứ 3, và phát hiện trong một số răng Pongo, răng nhím mà nhà chùa mới tìm thấy được có 2 răng người cổ đã hóa thạch. Gần đây, bằng phương pháp chụp cắt lớp tại Khoa X quang Bệnh viện Bạch Mai, khi so sánh phần xương răng của răng Pongo tìm thấy trước đó và 2 răng người hóa thạch này chúng tôi thấy cấu trúc xương không có nhiều sai khác. Có nghĩa là 2 răng người cổ này có nhiều khả năng cùng niên đại với những răng Pongo đã tìm được trong hang này.
1.2. Quần thể động vật húa thạch ở động Thỏnh Húa
Bộ linh trưởng (Primates)
Họ Đười ươi (Pongidae)
+ Đười ươi (Pongo pygmaeus)
Họ Khỉ đuôi dài (Cercopithecidae)
+ Macaca multta
+ Macaca sp.
Bộ gậm nhấm (Rodentia)
Họ nhím (Hystricidae)
+ Nhím (Hystrix sp.)
Bộ ăn thịt (Carnivora)
Họ gấu (ursidae)
+ Gấu ngựa (ursus thibetanus kokeni)
Họ mèo (Felidae)
+ Beo (Felis sp.)
Bộ có vòi (Proboscidea)
Họ voi (Elephantidae)
+ Voi ấn Độ (Elephas cf. Indicus)
Bộ guốc lẻ (Perissodactyla)
Họ tê giác (Rhinocerotidae)
+ Tê giác (Rhinoceros sinensis)
Bộ guốc chẵn (artiodactyla)
Họ lợn (Suidae)
+ Lợn rừng (Sus scrofa)
+ Lợn (Sus sp.)
Họ hươu (Cervidae)
+ Nai (Rusa unicolor)
Họ trâu bò (Bovidae)
+ Trâu (Bubalus bubalis)
Nếu chỉ tính đến tháng 7 năm 2000, đã có tất cả 21 hoá thạch răng đười ươi, trong số đó có khả năng 10 của con đực và 10 của con cái và 1 răng không thể biết được đực cái. Nhìn chung răng của con đực có kích thước rất lớn (bảng 1).
Bảng 1. Kích thước(mm) răng hoá thạch Pongo pygmaeus ở Nhẫm Dương
Ký hiệu răng |
Loại |
ĐK gần-xa (MD) |
ĐK ngoaì-trong (BL) |
Phía |
2000ND.TS.8 |
C’ |
15.20 |
17.34 |
T (trái) |
2000ND.TS.59 |
P1 |
10.02 |
13.37 |
T |
2000ND.TS.56 |
P2 |
11.27 |
14.07 |
P (phải) |
2000ND.TS.15 |
M1 |
15.52 |
15.99 |
T |
2000ND.TS.11 |
M1 |
13.47 |
14.73 |
P |
2000ND.TS.13 |
M1~2 |
15.16 |
16.08 |
T |
2000ND.TS.17 |
M1~2 |
14.81 |
15.81 |
T |
2000ND.TS.16 |
M1~2 |
14.55 |
13.27 |
P |
2000ND.TS.50 |
M1~2 |
- |
15.28 |
P |
2000ND.TS.4 |
M2 |
14.63 |
15.02 |
T |
2000ND.TS.51 |
M2 |
12.77 |
16.38 |
T |
2000ND.TS.49 |
M3 |
12.71 |
14.14 |
T |
2000ND.TS.2 |
M1 |
17.35 |
15.01 |
T |
2000ND.TS.6 |
M1 |
13.56 |
11.72 |
P |
2000ND.TS.1 |
M1~2 |
18.75 |
15.17 |
P |
2000ND.TS.12 |
M1~2 |
17.18 |
14.38 |
T |
2000ND.TS.5 |
M1~2 |
14.61 |
12.14 |
P |
2000ND.TS.7 |
M1~2 |
13.55 |
11.49 |
P |
2000ND.TS.3 |
M3 |
18.14 |
14.86 |
T |
2000ND.TS.55 |
M3 |
12.96 |
11.88 |
P |
2000ND.TS.62 |
M1~2 ? |
- |
- |
P |
1.3. Về niên đại của các hoá thạch
+ Hang Thánh Hóa, là một hang cao, cách mặt ruộng hiện nay trên 10m. Nếu so với các núi ở xung quanh, chúng tôi thấy hang nằm cao hơn hẳn những vách đá mà trên đó còn lưu lại những ngấn nước của các đợt biển tiến.
+ Trầm tích của hang bám vào các hoá thạch cứng hơn hẳn trầm tích của hang Kéo Lèng (Lạng Sơn), và có mầu nâu nhạt.
+ Răng Pongo có kích thước khá lớn.
Vì những lý do trên chúng tôi cho rằng niên đại của các hoá thạch ở Nhẫm Dương thuộc hậu kỳ Pleistocene, có khả năng từ khoảng 50.000 đến 30.000 năm cách nay.
Cũng cần nói thêm rằng, trong khi trao đổi với các nhà khoa học của Quảng Tây (Trung Quốc), ý kiến của họ còn muốn đẩy niên đại răng Pongo này lên tới 70.000 năm
1.4. Ý nghĩa của phát hiện
Đây là lần đầu tiên ở Hải Dương phát hiện được một địa điểm có xương răng hoá thạch.Cho đến nay nước ta chỉ mới phát hiện được một số địa điểm có hoá thạch của Pongo như Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Kéo Lèng (Lạng Sơn), Hang Hùm (Yên Bái), Làng Tráng (Nghệ An), Thẩm ồm (Yên Bái). Phần lớn những địa điểm này lại nằm ở vùng rừng núi phía tây và phía bắc của nước ta. Nhẫm Dương là địa điểm lần đầu tiên chúng ta tìm được Pongo ở vị trí khá gần với biển. Kích thước răng lại khá lớn, đặc biệt là các răng hàm dưới như các mẫu 1, 2, 3, 12... Chắc chắn còn phải nghiên cứu tiếp tục một thời gian dài nữa các răng hoá thạch Pongo này. Những tư liệu quý vừa phát hiện giúp chúng ta tìm hiểu về một đại diện quan trọng của bộ linh trưởng ở nước ta. Ý kiến này của chúng tôi cũng đã được các nhà khoa học của Bảo tàng tự nhiên tại Quảng Tây (Trung Quốc) tán thành.
Một hoá thạch quan trọng khác là đoạn xương hàm dưới của tê giác còn giữ lại 1 răng hàm tìm thấy ở Nhẫm Dương. Các vết vỡ trên hàm còn mới, khiến chúng ta có hy vọng tìm nốt các phần khác của răng và hàm để chắp gắn thành một hàm tê giác hoàn chỉnh, nếu địa điểm này được khai quật toàn bộ. Đây là địa điểm thứ 2 sau hang Kéo Lèng (Lạng Sơn) phát hiện được xương hàm dưới tê giác, không phải chỉ có răng như ở các địa điểm khác.
Tuy vậy, phát hiện này vẫn bị hạn chế do đây chỉ là phát hiện ngẫu nhiên, không được khai quật theo tầng, lớp, các hiện vật không có vị trí theo không gian 3 chiều, thiếu ảnh chụp, bản vẽ... Chỉ có tiến hành khai quật bằng phương pháp khoa học mới có thể có được những nhận định chính xác.
2. Tiềm năng du lịch của Nhẫm Dương nói riêng và Kinh Môn nói chung
Theo ý kiến của chúng tôi, tiềm năng du lịch của Nhẫm Dương là rất lớn, không phải chỉ vỡ nơi đây là chốn tổ của phái Tào Động, mà còn nhiều lý do khác rất thuận lợi.
2.1. Về vị trí địa lý
Hải Dương nằm ở trung tâm tam giác mà ba đỉnh là Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Đây đâu phải chỉ thuận lợi cho các phật tử, mà còn cho cả khách du lịch thập phương khi trên đường trở về từ những khu du lịch lớn như: Hạ Long, Bãi Cháy, Yên Tử, Đồ Sơn…có thể ghé vào huyện Kinh Môn.
2.2. Thăm chùa, hang động và ngấn nước
Cho đến nay kể cả lớn nhỏ tại Kinh Môn có khoảng 52 ngôi chùa. Đây là một trong những trung tâm của thiền phái Tào Động – chỉ riêng ý nghĩa này đã có thể thu hút về đây rất nhiều phật tử và du khách. Trong những chùa ở Kinh Môn thì chùa: Hàm Long, Nhẫm Dương, Tùng Sơn, Quảng Nghiêm, Tường Vân, Thiên Hoa, chùa trong động Thánh Chủ… là lớn hơn cả. Đặc biệt nếu thăm chùa Nhẫm Dương, thì ngay sau chùa còn có động Thánh Hóa – nơi tìm được các hóa thạch quý, và trong thời gian kháng chiến chống Pháp, chính là nơi được bộ đội ta sử dụng làm phòng mổ cho thương binh.
Đi ngược lên phía trên, men theo sườn núi, cách động Thánh Hoá khoảng 25m, chúng ta sẽ bắt gặp một nền chùa, cạnh đó còn sót lại một chân tảng thời Trần - mà xưa kia nơi đây là nơi cư ngụ của phái Tào Động. Phía trên nền chùa này là động Tĩnh Niệm khá lớn có thể chứa được hàng trăm người. Cửa hang cao 3m, rộng 4m. Theo đ/c Trần Văn Quyết nguyên bí thư xã Duy Tân, các đồng chí lãnh tụ của ta như Hoàng Quốc Việt, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Công Hòa,… trong thời gian chống Pháp đã về đây hội họp nhiều lần.
Ngoài ra gần đó cũng còn những hang đẹp khác như Hang Tối, hang Bà Điền, khu Tám Tổ…Chỉ tiếc rằng hang Ma, đó bị sập do Cụng ty Phúc Sơn đánh mìn lấy đá phục vụ cho nhà máy xi măng gần đó.
Một số hang động còn in dấu vết ngấn nước rất rõ nét của các lần biển tiến, biển thoái, mà rõ nhất là ở hang Hàm Long, chùa Quang Phúc.
2.3. Vấn đề tồn tại cần giải quyết
Nhờ sự quan tâm của các cấp lãnh đạo ở địa phương: từ nhà Chùa, xã đến huyện, tỉnh và đặc biệt là của đ/c Kim Ngân, Ủy viên Bộ Chính trị - nguyên Bí thư tỉnh ủy Hải Dương, đã trực tiếp xuống tận Nhẫm Dương can thiệp, nên các di tích ở đây đã được cứu thoát khỏi sự phá hoại “của những kẻ” chỉ đặt lợi ích kinh tế lên trên hết mà không đếm xỉa gì đến văn hóa, đến môi trường cảnh quan thiên nhiên. Đây là một bài học chẳng phải chỉ cho Nhẫm Dương mà còn cả đối với nhiều địa phương khác.
Nhưng để phục vụ cho du lịch, chúng tôi thấy cần cải tạo, tu sửa và mở rộng hệ thống giao thông – làm sao để các xe du lịch chứa 40-50 khách có thể vào tận sân một số chùa lớn. Cần quy hoạch lại khu dân cư ven các chùa lớn để làm nơi gửi xe và cảnh quan cho thật khang trang, sạch, đẹp…
Tài liệu tham khảo
- CHU MINH CHẤN, TRƯƠNG VƯƠNG BÌNH 1974. Hóa thạch voi của Trung Quốc. (chữ Trung Quốc). Nhà xuất bản khoa học Bắc Kinh
- JEFREY H. SCHWARTS, VŨ THẾ LONG, NGUYỄN LÂN CƯỜNG, LÊ TRUNG KHÁ, IAN TATTERSALL 1994. A diverse hominoid fauna from the late middle Pleistocene breccia cave of Tham Khuyen, Socialic Republic of Vietnam – Anthropological papers of the American Museum of Natural History. New York, 73: 1-11
- HOOIJER D.A. 1948. Prehistoric teeth of man and the orang-utan from central Sumatra, with notes on the fossil orang-utan from Java and Southern China. Zool. Med. Museum Leiden 29: 175-301
- LÊ VĂN THUẾ, VŨ THẾ LONG 1987. Về hóa thạch gấu tre lớn ở Việt Nam. Khảo cổ học, 3: 7-14
- NGÔ NHỮ KHANG, NGÔ TÂN TRÍ (chủ biên) 1999. Di chỉ cổ nhân loại của Trung Quốc (chữ Trung Quốc)
- NGUYỄN LÂN CƯỜNG 1971. Sau khi khai quật Hang Hùm, Thẩm Khuyên, Kéo Lèng. KCH, 11-12: 7-11
- NGUYỄN LÂN CƯỜNG 1985. Fossil Menschenfunde aus Nord Vietnam – Menschwerdung-biotischer und gesellschaftlicher Entwicklungsprozess. Berlin Akademie Verlag: 96-102
- NGUYỄN LÂN CƯỜNG 1992. A Reconsideration of the Chronology of Hominid Fossils in Vietnam. The Evolution and Dispersal of Modern Humans in Asia. Tokyo. Hokusensha: 321-335
- NGUYỄN LÂN CƯỜNG 2000. Thông báo về những hoá thạch quần động vật và di cốt người tìm thấy ở Nhẫm Dương (Hải Dương). Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2000.
- NGUYỄN LÂN CƯỜNG,NGUYỄN KIM THỦY 2001. Phát hiện di cốt người chớm hóa thạch ở động Thánh Hóa (Nhẫm Dương). NPHMVKCH năm 2001
- TRẦN VĂN BẢO, LÊ TRUNG KHÁ 1966. Báo cáo sơ bộ về công trình nghiên cứu cổ nhân và cổ sinh Đệ tứ kỷ ở hang Thẩm Khuyên (Lạng Sơn). Phũng Tư liệu Viện Khảo cổ học
- VŨ THẾ LONG 1995. Khảo cổ học động vật giai đoạn cuối Pleistocene đầu Holocene ở Bắc Việt Nam. Luận án PTS khoa học Lịch sử
- VŨ THẾ LONG, NGUYỄN LÂN CƯỜNG 1993. Những hoá thạch Hominoid trong sưu tập hoá thạch Thẩm Khuyên (Lạng Sơn). NPHMVKCH năm 2013.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết