QUẢ LÀNH CÓ NĂM GIÁC QUAN KỲ DIỆU - BÀI II: CƠ QUAN THỊ GIÁC
QUẢ LÀNH CÓ NĂM GIÁC QUAN KỲ DIỆU
(KUSALAPHALÀNAM PAÑCA SAVIMHAYA DVÀRÀ)
BÀI II: CƠ QUAN THỊ GIÁC
TUỆ LẠC - NGUYỄN ĐIỀU
Nhà Phật gọi con mắt là nhãn căn (Cakkhu dvàra = cửa mắt), và gọi cái biết do thị giác là nhãn thức (Cakkhu viññàna = biết qua con mắt). Hai thuật ngữ (nhãn căn và nhãn thức) tuy hai mà là một. Chúng chỉ chung một khả năng, là cho con người cái “thấy”, để phân biệt các màu sắc, các hình dạng, các khoảng cách, và các cử động. “Cái thấy” ấy quả thật đã đem lại cho loài người nhiều ý nghĩa trong cuộc đời.
Các nhà nghiên cứu động vật đã khám phá ra trước đây rằng: Nhãn thức (biết qua con mắt) có khả năng thống ngự trên các căn thức khác, như tỷ thức (biết qua lỗ mũi), thiệt thức (biết qua cái lưỡi), và thân thức (biết qua làn da). Nó chỉ “thua” nhĩ thức (biết qua lỗ tai) mà thôi. Họ phân tích: Sở dĩ nhãn thức có được cái “thượng quyền” ấy là vì nó tiến hóa (évolution) không ngừng. Khởi đầu từ các loại linh hầu (primates), được coi là tổ tiên xa xưa của loài người.
Loài linh hầu này thoạt tiên có cặp mắt nằm hai bên đầu. Chúng dần dần “dời” đến trước trán qua các “ý nghiệp”, để đối phó (confrontation) với đời sống thiên nhiên. Từ đó, chúng phát triển những vùng “chiếu xạ” càng ngày càng mạnh vào thần kinh thị giác của não bộ.
Nhãn thức là một “hóa cơ” rất tinh vi. Hoạt trường của nó gồm trong và ngoài con mắt, để đưa vào não bộ những hình ảnh “hợp sắc” có sự phản xạ của các luồng sóng quang, chuyển từ tia hồng ngoại (Infra-rouge) qua ánh sáng trắng (Lumière blanche), trở thành “tử ngoại tuyến” (Ultra-violet), rồi tổng hợp ra các hình ảnh quen thuộc.
Cũng theo các nhà khoa học, thì “nhãn thức” của động vật tuy có khá chính xác trong việc ấn định hình ảnh của những thể sắc. Nhưng việc ước đoán khoảng cách thì nhãn thức phải thua nhĩ thức. Và giữa các động vật, chỉ có loài dơi và cá nược là thị giác mang luôn bộ phận “thám âm”, nên đôi mắt của chúng còn có khả năng “ra-đa” của lỗ tai.
Trong con mắt có “đồng tử” hay “con ngươi” (rétine). Ðây là một tấm màng bao trùm phía sau tròng mắt. Tấm màng này tuy rất mỏng, nhưng nó chứa được cả trăm triệu dây thần kinh cực nhỏ, nằm sắp lớp lên nhau. Nhờ thế, “đồng tử” mới có thể làm nơi hội tụ tất cả những hình ảnh chúng ta đang ngó. Nó như mặt kính của máy chụp ảnh, thu vào mặt phim toàn thể những gì chúng ta muốn chụp.
Bác sĩ Muller còn bảo rằng: - Phim chụp ảnh bì sao nổi với “đồng tử” trong con ngươi. Vì sau “đồng tử” có một vùng nhạy cảm rất rộng, giúp chúng ta thấy được cả những hình ảnh dưới ánh trăng. Nghĩa là trong một quang độ kém hơn ánh sáng mặt trời đến 30.000 lần. Khả năng ấy, phim chụp ảnh không thể nào có được.
Hơn thế nữa, đôi mắt thanh niên của con người, có thể phân biệt một cách dễ dàng, các chi tiết khá nhỏ của vật mình đang quan sát, dù vật nầy nằm một nửa dưới ánh sáng, một nửa trong bóng râm. Vì vậy mà Giáo sư Guytton mới phát biểu: “Máy ảnh đâu bằng con mắt. Vì máy ảnh chỉ có thể ghi vào phim những hình dạng trong khung cảnh không có sự khác biệt nhiều về ánh sáng. Và nếu có sự sai biệt tối sáng quá chênh lệch, thì máy ảnh phải cần đến đèn chóa (flash) mới làm rõ hình được”. - Không “đèn chóa”, máy ảnh chịu thua!
Ngoài ra, đồng tử (hay con ngươi) nhờ có 125 triệu “tiểu trượng giác cảm” (Bâtonnets sensibles) nằm trong nó, mà nó có một vùng thị giác rộng lớn. Những tế bào thị giác lại có tính dễ thích ứng, nên khi chúng ta từ ngoài sáng bước vào phòng tối. Thoạt đầu, chúng ta có cảm tưởng như không còn thấy gì cả, nhưng sau một thời gian, đôi mắt tự nhiên thích ứng, giúp chúng ta bắt đầu thấy dần dần, mặc dù không rõ như dưới ánh sáng thanh thiên bạch nhật, nhưng chúng ta vẫn có thể khả dĩ di chuyển trong bóng tối được, chứ không phải như máy chụp hình bấm trong bóng tối, là rửa ra hình đen thui.
Trong “đồng tử con ngươi” lại có 5 triệu rưỡi tế bào hình nón (cônes) có sự phản ứng rất mạnh đối với ánh sáng, có năng lực giúp chúng ta phân biệt được màu sắc. Những tế bào hình nón nầy có loại nhạy cảm với màu đỏ, có loại nhạy cảm với màu xanh lục, và có loại nhạy cảm với màu xanh biếc. Riêng màu trắng thì nó có sự kích thích đồng đều lên các tế bào trong thị giác loài người. Còn các súc vật thì sự phân biệt màu sắc rất kém. Có loại chỉ thấy màu trắng và màu đen mà thôi.
Thấy đủ màu sắc là một ưu đãi, một quả lành cho con người. Nhờ đó, con người mới thu nhận được nhiều “thích thú” trong cái thấy. Tất cả những nét đẹp thiên nhiên, hay nhân tạo, thường được diễn ra hình ảnh (như hội họa, điêu khắc, đóng kịch, võ thuật, khiêu vũ, ảo thuật…), nếu đôi mắt bị tàn tật, thì con người không thể nào chiêm ngưỡng được.
Nhà giải phẫu Rendle Short nói rằng: “Trong các cơ quan cần thiết cho con người, thì cặp mắt là cơ quan cần thiết nhất và cũng là cơ quan phi thường nhất”.
Phi thường ở chỗ những hình ảnh đập vào mắt, khi đã hội tụ trong “đồng tử con ngươi” thì chúng đảo ngược (như trên mặt phim chụp ảnh), nhưng qua nhãn thức thì chúng ta lại “thấy” các hình ảnh ấy một cách bình thường, không bị đảo ngược, lý do tại sao vậy?
Ông Rendle Short đã khảo sát tỉ mỉ máy chụp hình và giải thích rằng: “Bộ não của chúng ta có bản năng phản chiếu lại cho đúng thực tế những hình ảnh đã đập vào đồng tử trong con ngươi”. - Cái “quả lành chuyển hóa”, để tạo ra sự điều chỉnh đó thật là kỳ diệu.
Nhưng theo phân tích tâm linh trong Phật học, hiện tượng đó phát sinh do không gian dưới chân và trên đầu chúng ta, một bên hữu hạn đối lập với một bên vô hạn (cả hai là ngoại duyên). Khi máy chụp hình hoạt động, ánh sáng mang hình ảnh nằm giữa hữu hạn và vô hạn đối lập bên ngoài, “in vào” vùng tối (cả hai biến thành nội duyên), thì nó luôn luôn đi theo chiều xoáy, và đảo ngược trên dưới. - Chiều xoáy ấy ví vô minh vọng động trong mỗi người phàm tục. - Chính pháp hành “xoay tròn” này đã làm cho “sự ghi hình” trong tâm thức hay trong “hóa chất” (máy chụp hình) phải đảo nghịch. - Có lẽ người ta đã dựa theo “đặc tính” đó, mà chế ra máy chụp hình?
Còn một sự phi thường khác là phản động của thị giác chuyền ra mí mắt nhanh không thể tưởng tượng được. Mỗi khi có một vật gì thoáng qua trước mắt, ngay cả trí óc của chúng ta cũng chưa biết đó là cái gì, thì nhãn thức đã tự động kích thích làm cho mí mắt nhanh chóng khép lại, để bảo toàn tròng mắt.
Về phương diện hiểu biết, dĩ nhiên không cần phải nhắc thì chúng ta ai cũng biết rằng, con mắt chỉ cho chúng ta thấy rõ các nét chữ, các màu sắc (nhận diện). Nhưng ý nghĩa của những chữ và màu sắc đó, thì do ý thức trong bộ óc giúp cho chúng ta hiểu. Bộ phận nào có phần hành nấy, nhưng vì chúng phối hợp nhanh quá, cho chúng ta có cảm tưởng là cái thấy lẫn cái hiểu xảy ra một lượt, và đều nằm trong con mắt.
Phân tích theo khoa học, thì “nhãn căn” gồm có đôi mắt, đóng ở bên trái và bên phải của nửa phía trên khuôn mặt. Trong mỗi con mắt có ba lớp màng mỏng, tráng chất thủy dịch trơn nhờn làm thành “giác mạc” (Cornet de l’oeil).
Lớp màng mỏng thứ nhất tên “bạch mạc” (sclérotique) là lớp màng giáp với não bộ, bao trùm và che chở một cách tự động toàn thể “giác mạc” của mắt.
Lớp màng mỏng thứ nhì tên “mạch lạc mạc” (choroïde) có sắc tố và tư dưỡng. Lớp màng này lồi ở phía trước, tạo hình cho “mỏm mắt” (iris). Trong “mỏm mắt” có “đồng tử” (con ngươi=Pupille) như đã nói trên, có khả năng nở ra hay thu nhỏ lại (như lớp chắn co giản, mở đóng trong máy hình), tùy theo cường độ ánh sáng và kích thước hình ảnh ở ngoài chiếu vào.
Lớp màng mỏng thứ ba tên là “võng mạc” (rétine) có những dây thần kinh rất nhạy cảm ánh sáng, nối liền với não bộ (les encéphales), và cũng có những đường gân liên kết chúng lại, gọi là “thần kinh thị giác” (nerfotiques). Màng này có thể xem như một lớp kính thu hình từ ngoại giới.
Toàn thể lớp võng mạc “được ngâm” trong một chất, gọi là “thủy đạm trấp” (humeur aqueuse) rất trơn lỏng để hoạt động. Còn bộ phận “mạch lạc mạc” thì ở trong chất “thủy tinh dịch” (cristallin), có đặc tính bảo vệ sự trong láng, giữ cho “thể pha lê” (humeur vitrée) của nhãn cầu được thường xuyên.
Hai con mắt cũng có cái yếu cái mạnh như hai cánh tay vậy. Người thuận tay mặt thì nó mạnh hơn tay trái, hay ngược lại. Ðôi mắt cũng thế. Sự chính xác (rõ ràng) của nó trong đa số nhân loại không đồng đều. Vì vậy khi nhìn ống nhòm, chúng ta phải điều chỉnh hai ống kính, và thấy độ điều chỉnh không giống nhau. Muốn biết con mắt nào mạnh hơn hãy xem “số độ điều chỉnh” bên nào thấp.
Các nhà tinh thần học gọi đôi mắt là “cửa sổ” của tinh thần, hay linh hồn. Nếu xem tinh thần là cái “máy quay phim” thì hai con mắt là hai “ống kính kỳ diệu”. Chúng tinh vi hơn ống kính quay phim đến cả trăm lần.
Về phương diện “sức khỏe thị giác” thì chất đường có liên quan đến đôi mắt, qua công năng của một “hạch tuyến” (glande) nằm trong lá lách (pancréas). Hạch tuyến này sinh ra một loại “kích thích tố” gọi là “insuline”, có nhiệm vụ lấy đường trong máu (do thực phẩm cung cấp), rồi phân phối cho các tế bào. Nếu hạch tuyến ấy trong lá lách bị suy yếu, tiết chất “insuline” không đủ mạnh để làm việc bình thường (nghĩa là không lấy hết đường trong máu), thì kết quả sinh ra bệnh tiểu đường. Bệnh này sẽ làm rối loạn sự điều hòa trong hai con mắt, ảnh hưởng rất nhiều đến những hành động khác.
Do đó các bác sĩ thường cảnh báo rằng: Người mang chứng bệnh tiểu đường phải tuyệt đối kiêng ăn chất ngọt, vì nó rất có hại, nhất là hại cho thị giác.
Và từ cổ chí kim, từ Ðông sang Tây, nhà hiền triết nào cũng nhắc nhở: Hãy coi chừng các sắc đẹp, nhất là sắc đẹp mỹ nhân, một trong những “đối tượng” ưa thích của nhãn thức (đôi mắt). Sắc đẹp tự nó tuy không nguy hiểm. Nhưng dụng tâm dùng sắc đẹp, và tật say mê sắc đẹp có thể làm cho con người dở khóc dở cười, khốn khổ vô cùng.
Lịch sử nhân loại há đã chẳng ghi lại gương xấu của những bạo chúa, những lãnh tụ gian hùng khét tiếng, chẳng ai có thể đến gần để hãm hại được. Thế mà vì mê sắc đẹp, nên sau cùng họ vẫn bị chết thảm bại dưới bàn tay của thích khách mỹ nhân, sử dụng nhan sắc, trong những trường hợp rất tồi tàng, vô duyên, tầm thường.
Ngoài ra, còn nhiều sắc đẹp khác, như sắc đẹp vàng bạc, sắc đẹp kim cương, sắc đẹp bích châu, ngọc thạch, mã não, sắc đẹp xe hơi, nhà lầu, sắc đẹp của bằng cấp, của bạc giả, sắc đẹp của những hình ảnh khiêu dâm .v.v. cũng làm cho con người tối tăm tâm trí không ít. Lắm khi chỉ vì mê những sắc dẹp ấy, mà người ta đã vào tù ra khám, hay rơi vào những cạm bẩy không thể thoát ra dễ dàng được.
Như loài phù du, hễ thấy màu sắc của ngọn đèn (lửa) thì điên loạn lao mình tới để thiêu thân, tìm cái chết, mà hiền nhân cổ kim đã lấy đó làm biểu tượng, để khuyên nhủ người đời.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 21 – THÁNG 7 NĂM 2017 (PL. 2561)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 20 – THÁNG 4 NĂM 2017 (PL. 2560)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 19 – THÁNG 1 NĂM 2017 (PL. 2560)
- ĐÓN XEM TỪ QUANG TẬP 19
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 18 – THÁNG 10 NĂM 2016 (PL. 2560)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 17 – THÁNG 7 NĂM 2016 (PL. 2560)
Bình luận bài viết