Thông tin

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ NGHIÊN CỨU

KHU DI TÍCH NHẪM DƯƠNG

 

TĂNG BÁ HOÀNH*

 

Hôm nay, chúng ta có một khu di tích tích Nhẫm Dương, tại xã Duy Tân, huyện Kinh Môn đã xếp hạng Quốc gia. Di tích hôm nay không còn như nửa thế kỷ trước, nhưng hình ảnh, cổ vật, minh văn còn ở mức độ cần thiết để hôm nay hội thảo về những khía cạnh, những giá trị khác nhau của khu di tích trong tiến trình lịch sử. 

Về địa lý tự nhiên, vùng núi đá vôi Kinh Môn hình thàch cách ngày ngay ngót trăm triệu năm. Trong quá trình tồn tại địa hình, địa mạo đã bị phong hóa, tạo nên các hang động, núi đồi kỳ thú, nơi cư trú lý tưởng cho con người tiền sử.

Về địa lý hành chính, thời phong kiến, Nhẫm Dương là một thôn thuộc xã Duyên Linh, tổng Thượng Chiểu, huyện Đông Triều, cuối thế kỷ XIX, bỏ cấp phủ và cấp tổng, Nhẫm Dương thuộc huyện Kinh Môn. Năm 1946, khi tiến hành liên xã, là một thôn thuộc xã Duy Tân, huyện Kinh Môn.

1. Quá trình phát hiện di tích Khảo cổ học tiền sử tại động Thánh Hóa.

Cách đây nửa thế kỷ, Bảo tàng Hải Dương đặc biệt quan tâm đến hang động và mộ cổ thuộc Kinh Môn, nhất là từ khi phát hiện mộ Việt Khê và Tử Lạc, nhiều đồ đá, đồ đồng, đồ gốm đã phát hiện trong hang động và thung lũng ở khu đảo Kinh Môn thuộc thời đại đá mới, đồ đồng và phong kiến. Năm 1983, khi nghiên cứu nghề cổ truyền, chúng tôi đã thấy các hình động vật hoang dã khắc trên vách đá vùng núi Kính Chủ, nhiều di vật thuộc thời kỳ Đá mới và văn hóa Đông Sơn trong các hang động, nhưng việc nghiên cứu gặp nhiều khó khăn về kinh phí và thủ tục hành chính, bởi khi đó, hang động còn là các kho vũ khí, do quốc phòng quản lý. Năm 1991, khi thời cơ cho phép, Bảo tàng tỉnh thực hiện đề tài khoa học, nghiên cứu lịch sử và thực trạng các hang động tại vùng núi đá vôi, thuộc 6 xã khu đảo, lập danh mục các hang động cần bảo tồn tại đây, trong đó có các hang động tại Nhẫm Dương, có thể nói, như vậy là kịp thời. Khi đó, nhà máy xi măng Hoàng Thạch đã đi vào sản xuất, nhiều núi đá vôi có di tích lịch sử cần bảo vệ đã có quyết định giao cho nhà máy mà chưa có ý kiến của cơ quan chủ quản theo luật định. Tuy nhiên với ý kiến xác đáng và kiên quyết của ngành Văn hóa, hang Đốc Tít, Chùa Mộ vẫn được  xếp hạng Quốc gia vào năm 1993 và 1995. Nếu không có cuộc khảo sát, nghiên cứu, kiến nghị của đề tài khoa học này, chắc chắn những hang động nói trên không còn. Tuy đã xếp hạng Quốc gia và kiến nghị bảo tồn, nhưng cũng năm chìm bảy nổi, đấu tranh quyết liệt giữa lợi ích văn hóa với kinh tế, những di tích này mới còn một phần đến ngày nay. Bấy giờ, nhờ sự hy sinh của Nàng Tô Thị mà dư luận quan tâm đến các di tích thuộc núi đá vôi mà Động Kính Chủ thoát chết nhưng mình đầy thương tích, tuy là di tích được xếp hạng đợt đầu của cả nước (1962). Hang Đốc Tít và động Hàm Long mặc dầu đã được xếp hạng từ năm 1993, nhưng vẫn  bị chặt chém không thương tiếc phần lớn thân thể một cách bất hợp pháp.

 Từ năm 1991, tại Nhẫm Dương đã phát hiện là một cảnh quan kỳ thú. Kinh Môn khi đó có tới 26 hang động, nơi nhiều động vật hoang dã, đặc biệt là nhưng hiện vật thời đại Đồ đá, đặc biệt là Đá mới, Đồ đồng, nhất là văn hóa Đông Sơn sưu tầm được ở trong và ngoài hang động. Những sự kiện và di tích thời phong kiến cũng từng bước sáng tỏ qua quá trình khảo sát  cũng khá phong phú hiện vật như:

Các loại tiền thời Bắc thuộc cùng đồ gốm, đồ đồng đương thời, gạch ngói, tảng đá hoa sen, tháp đất nung, chứng minh đã có một ngôi chùa từng tồn tại ở đây muộn nhất cũng vào thời Trần.

Thế kỷ XVII là nơi khởi dựng thiền phái Tào Động mà người sáng lập là nhà sư Thủy Nguyệt, khi đó chùa có tên là Thánh Quang (聖光). Chùa được trùng tu, tôn tạo ở những thế kỷ sau, nhưng đến kháng chiến chống Pháp chùa đã bị hủy liệt, sau ngày thống nhất đất nước, chùa mới từng bước được khôi phục để được khang trang như hiện nay, công đầu thuộc về nhà sư Thích Diệu Mơ.

Đây từng là căn cứ chống giặc Bắc và kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ liên quan đến nhiều nhân vật lịch sử.

Vào những năm 90 của thế kỷ trước, chúng tôi muốn sớm xếp hạng khu di tích này để bảo tồn cảnh quan thiên nhiên tiêu biểu cho vùng núi đá vôi, liền kề với đồng bằng, giữ môi trường cho động vật hoang dã, cùng những di tích thời tiền sử và phong kiến. Nhưng kiến trúc chùa Thánh Quang khi đó hoang tàn, chỉ có vài gian cấp bốn xiêu vẹo nên khó thuyết phục các nhà chức trách về việc xếp hạng di tích mà chỉ thống nhất việc khoanh vùng bảo vệ.  Năm 1996, chùa bắt đầu được trùng tu. Năm 2000, nhà chùa tự khai quật động Thánh Hóa với mục đích tìm các pho tượng cổ từng được chôn cất ở đây trong kháng chiến chống Pháp. Rất may là quá trình tìm kiếm các tượng cổ đã phát hiện nhưng di vật có giá trị.

Ngày 20 tháng 4 năm 2000, chúng tôi đang khai quật ở di tích gốm Cậy (Bình Giang), thì thày Mơ cho biết tìm được nhiều xương động vật rất lạ. Ngay hôm sau, tôi đã đến hiện trường và thấy nhiều xương động vật, xương người, đồ đá, đồ đồng, tiền đồng từ Ngũ thù đến Quang Trung, có niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ XVIII. Ngay sau đó chúng tôi đã cho khai quật lại trên những lớp trầm tích màu vàng đang trong quá trình hóa thạch để tìm các mẫu xương và cổ vật. Kết quả thật khả quan. Để hiện vật cổ sinh vật học và đồ đá được xác định khoa học, tôi có mời TS. Trịnh Dánh, Giám đốc Bảo tàng Địa chất; PGS.TS Nguyễn Lân Cường cán bộ phụ trách cổ nhân học của Viện Khảo cổ học cùng tham gia nghiên cứu. Kết quả như chúng ta đã biết, đây là di tích quý hiếm thời hậu Cánh tân, cách ngày nay 3-5 vạn năm. Chỉ khoảng 20m2, với tầng văn hóa dày trên 4m, đã tìm được xương đang trong trình hóa thạch, bước đầu xác định được 27 loài, trong đó có voi, tê giác, pongo,…Có thể hình dung vùng Kinh Môn thời tiền sử, động vật hoang dã tương tự như rừng hoang dã Kenia, châu Phi.

Kết quả nghiên cứu: từ kết quả nghiên cứu nói trên, Bảo tàng tỉnh đã lập hồ sơ, được Bộ VHTT ra quyết định xếp hạng Quốc gia số 15/QĐ-BVHTT, ngày 14/4/2003, với diện tích khoanh vùng bảo vệ 34,23ha, trong đó có cả chùa Nhẫm Dương và núi có hang động cần bảo vệ. Khi đón bằng, nội dung di tích đã được công bố, chính quyền và nhân dân địa phương đều biết, báo chí cũng giới thiệu rộng rãi. Chúng ta có thể tóm tắt lịch sử và giá trị di tích như sau:

- Khu di tích Nhẫm Dương, trong đó có động Thánh Hóa là di tích thời tiền sử quý hiếm, có hóa thạch động vật và con người cách ngày nay từ 3 đến 5 vạn năm, di tích loại này rất hiếm trên đất nước ta. Nó giúp chúng ta có cái nhìn trực quan về quá khứ xa xăm.

- Nơi có núi đá vôi với hang động điển hình, tuy không phải kỳ quan thì cùng là danh thắng một vùng, khi mà phần lớn núi non, hang động đã hy sinh cho công nghiệp hóa.

- Nhẫm Dương còn là nơi có ngôi chùa cổ, gắn liền với sự ra đời của thiền phái Tào Động, từng được mệnh danh là danh lam cổ tích từ thế kỷ XVII, mà bằng chứng vật chất và minh văn còn đến ngày nay.

2. Nguyên nhân của việc vi phạm Luật Di sản

Mọi việc sau khi xếp hạng Quốc gia tưởng như an bài, nhưng thực tế đầy sóng gió, di tích luôn luôn bị xâm phạm. Vậy nguyên nhân từ đâu ?

Phải chăng ngành Văn hóa khi xếp hạng khu di tích đặc biệt này, không hiểu gì về phát triển kinh tế và công nghiệp hóa mà khoanh vùng quá mức cần thiết.

Phải chăng ngành công nghiệp, xây dựng, môi trường không hiểu về di tích lịch sử, văn hóa.

Chắc chắn là không ! Bởi cán bộ các ngành đó ngày nay đều có bằng cử nhân, thậm chí là tiến sĩ; một năm không thiếu những cuộc tập huấn khi luật mới ra đời, rồi thi bằng nọ cấp kia để chứng minh rằng mình có năng lực chuyên ngành. Nhưng tình trạng phạm pháp vẫn xảy ra trong quá trình thi hành công vụ. Điều đó, theo tôi, trước hết thể hiện sự thiếu sự hợp tác, thậm chí thiếu tôn trọng lẫn nhau trong quá trình công tác, hoặc thiếu nghiên cứu thực tiễn trước khi ra quyết định. Khi sự vi phạm bị phát hiện thì cơ quan chức năng thiếu kiên quyết, giải quyết nửa vời, đôi khi sự thanh tra lại hợp lý hóa cho những hành vi sai trái, không một cá nhân nào bị khiển trách hoặc thi hành kỷ luật, không một ai tự nhận trách nhiệm về mình, nghĩa là hòa cả làng. Chúng ta biết rằng, người xưa đi rừng, phải hỏi nhau cây lá ngón nó thế nào, nếu không biết, ăn nhầm sẽ chết. Còn pháp luật ngày nay không như lá ngón, nếu vi phạm, đương sự là cơ quan nhà nước vẫn vô sự, quá lắm đến khiển trách là cùng, trách nhiệm đó thuộc về tập thể, vì vậy việc vi pháp pháp luật còn là vấn đề nan giải, mà những gì xảy ra ở di tích Nhẫm Dương chỉ là một ví dụ. Kết quả là, di sản lịch sử bị vi phạm, thậm chí xóa sổ. Chúng ta biết rằng, con người chỉ có thể tạo ra những công trình cho tương lai, không thể tạo ra quá khứ. Mà di sản là ký ức của quá khứ, giúp con người hiểu lịch sử thiên nhiên và của chính mình. Nói như giáo sư Hà Văn Tấn:”Mất ký ức với mất trí cũng chỉ là một mà thôi !”. Tôi hy vọng rằng, sau hội thảo này việc vi phạm Luật Di sản không xảy ra trên đất Hải Dương, hay chí ít không xảy ra ở Nhẫm Dương để chúng ta có thể tự hào, Hải Dương là tỉnh văn hiến.

Hải Dương, ngày 6-12-2015 



* Chủ tịch Hội Sử học Hải Dương.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 18)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 17)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 16)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 55
    • Số lượt truy cập : 7268650