Thông tin

SINH TỬ LUÂN HỒI

SINH TỬ LUÂN HỒI

 

VŨ ĐÌNH LÂM

 

 

Chết - theo nghĩa thông thường nghĩa là chấm dứt sự sống. Vì bản chất sự sống là giả tạm nên sự chết cũng vậy. Sự sống mới bắt đầu ngay sau sự chết. Người sống ở cuộc sống mới này cuối cùng sẽ gặp lại cái chết. Sau khi chết có tái sinh, rồi lại chết, lại tái sinh... cứ như thế tiếp diễn mãi. Đó là điều mà chúng ta gọi là vòng tái sinh luân hồi (Samsarā) vô cùng vô tận.

Sự chết không phải là một điều lạ lùng bởi vì ai cũng phải chết. Nhiều người có thể nghĩ rằng chết là sự chấm dứt rốt ráo của cuộc sống. Là Phật tử, chúng ta không tin như vậy. Đối với chúng ta chết chỉ là một hiện tượng tạm thời.

Khi chúng ta quá thương yêu một người nào đó trong gia đình, thì chúng ta khó có thể chấp nhận việc mất người đó, nhưng hãy nghĩ lại xem bạn đâu có vĩnh viễn không còn gặp họ? Đức Phật thuyết rằng: Vì trong nhiều đời nhiều kiếp chúng sinh đó đã cùng chung sống nên các kiếp vị lai sẽ lại tìm gặp nhau để làm bạn hữu, làm thân bằng quyến thuộc của nhau. Cái chết của người thế tục thực ra chẳng chấm dứt được gì cả, bởi vậy chúng ta sẽ gặp lại người chết trong kiếp sống tương lai. Trong các chuyện tiền thân Jātaka, ta thấy Đức Phật và các môn đồ của Ngài như Ngài Sāriputta, Moggallāna, Ānanda, Rāhula... đã gặp gỡ nhau nhiều đời nhiều kiếp khác nhau.

Ở Mandalay, Myanmar, có xảy ra câu chuyện này: Một người đàn bà có chồng vừa mới mất. Bà thương tiếc ông chồng vô cùng nên than khóc không dứt. Chư tăng được mời đến làm lễ tại nghĩa trang để hồi hướng phước báu đến người đã chết, nhưng vì bà la khóc quá đỗi nên chư tăng không tụng kinh làm lễ được. Trong số các sư đến làm lễ có một trưởng lão tăng cao hạ và nổi tiếng trong việc dạy đạo thấy thế nói với bà:

- Bà khóc như thể bà không còn gặp lại ông nữa.

Nghe thế, bà chợt ngộ ra và nín khóc để chư tăng làm lễ.

Đức Phật dạy rằng trên thế gian này, khó tìm ra người chưa từng là ông bà, cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cháu của chúng ta. Điều quan trọng chúng ta cần phải hiểu là phải đối phó hay phản ứng thế nào trước chia ly, sự mất mát lớn lao như vậy. Khi trong gia đình có một người ra đi, trước sự mất mát này tất cả chúng ta đều đau khổ. Chúng ta nên khóc lóc thương tiếc hay nên tự chủ kiểm soát mình, hiểu rõ sự kiện thực tế và suy niệm về sự chết? Tôi không thể khuyên bạn và những người trong gia đình không nên thương tiếc, sầu muộn. Khuyên như vậy thì hơi khắt khe và có vẻ thiếu tình cảm quá, chẳng phải lẽ chút nào, bởi vì than khóc, tiếc nuối trước sự ra đi của một người thân yêu là chuyện tự nhiên. Tôi chỉ muốn nhắc nhở các bạn nên làm chủ và kiểm soát sự đau thương, phiền muộn của mình, đừng để sự tiếc thương chế ngự nặng nề khiến nhiều sự tai hại đáng tiếc có thể xảy đến cho bạn. Điều quan trọng là cần nhận ra rằng đây là cơ hội, đây là lúc thích hợp để bạn suy niệm về sự chết và để chấp nhận chúng với sự hiểu biết.

Có một chuyện tiền thân (Jātaka) kể về Đức Bồ tát - người đã có thái độ cùng phản ứng tốt đẹp và thích đáng trước cái chết của người thân. Thời bấy giờ, Bồ tát là một nông dân sống với vợ cùng con trai và con gái. Người con trai có vợ và người con dâu cùng sống với gia đình chồng. Trong nhà còn có thêm một người giúp việc.

Ngày nọ, người nông phu cùng con trai nhóm lửa để đốt rơm ngoài đồng. Chẳng may chỗ nhóm lửa gần một ổ mối, nơi một con rắn độc đang ăn mối trong đó. Giận dữ vì bị khói hun, con rắn phóng ra cắn chết người con trai. Sau khi cố gắng cứu con không thành, người nông phu bình tĩnh đặt xác con trai dưới cội cây, lấy áo đắp xác con rồi tiếp tục cày ruộng như thường. Thấy người hàng xóm đang trên đường về làng, người nông phu nhờ ông ta nhắn với vợ mình: "Hôm nay chỉ đem một phần cơm thôi. Tất cả mọi người trong gia đình đều phải tắm rửa sạch sẽ và xức dầu thơm, đeo tràng hoa và đi đến đây".

Người vợ hỏi người hàng xóm rằng ai là người nhắn tin này, họ cho biết đó là chồng bà. Vợ người nông phu hiểu rằng con trai mình đã chết. Tất cả mọi người trong gia đình bình tĩnh làm theo lời nhắn nhủ và không tỏ vẻ hoảng hốt chút nào.

Khi cơm đem đến, người nông phu yên lặng ngồi ăn, trong lúc đó những người khác trong gia đình đi gom củi để làm giàn hỏa thiêu. Họ làm việc trong yên lặng bình thản. Sự bình tĩnh đó đã khiến ghế của vua trời Đế Thích bị nóng lên, sau khi quán xét sự việc, vua trời rất thán phục trước thái độ của những người này vì muốn thử họ nên vua trời Đế Thích hiện thành một người đàn ông đến gặp:

- Các vị đang chuẩn bị củi để đốt cái gì đó?

- Chúng tôi gom củi để thiêu một người chết.

- Không thể là một người chết. Một con nai chết thì đúng hơn, bởi vì tôi thấy các vị chẳng tỏ vẻ thương tiếc gì cả.

- Không, đúng là một người chết!

- Như vậy người chết phải là kẻ thù của các vị à?

- Không! Đó là con trai của chúng tôi.

- Như vậy, chắc anh ta không phải là đứa con trai mà các vị rất yêu thương phải không?

- Không! Chúng tôi rất thương yêu nó.

- Trông các vị chẳng buồn bã chút nào cả?

- Cũng như con rắn lột vỏ bỏ đi, chẳng hề nhìn chiếc vỏ cũ để lại, con tôi bỏ xác thân này để đi đến một cảnh giới khác, chỉ có thế thôi. Khi một người chết đi, xác thân họ chẳng còn biết gì, chẳng cảm giác được sức nóng của ngọn lửa cũng chẳng hay biết sự khóc than của thân nhân. Họ đã đi theo lối đi của họ. Vậy buồn bã phỏng có ích gì đâu?

Đế Thích Thiên Vương quay sang vợ người nông phu và hỏi cùng câu hỏi. Bà ta trả lời:

- Khi nó đến chẳng ai mời, và khi ra đi, nó cũng chẳng cần hỏi ý kiến chúng tôi có bằng lòng không. Khi một người chết đi, xác thân họ chẳng còn biết gì, chẳng cảm giác được sức nóng của ngọn lửa cũng chẳng hay biết sự khóc than của thân nhân. Họ đã đi theo cách của họ.

Đế Thích Thiên Vương hỏi người em gái:

- Anh trai là người rất thương yêu của cô. Tại sao anh trai chết mà cô chẳng tỏ chút tiếc thương nào cả?

Cô em gái trả lời:

- Nếu khóc thương anh trai, tôi sẽ gầy còm. Gia đình và bạn bè tôi sẽ lo lắng buồn khổ vì tôi. Như vậy, tôi làm họ càng đau khổ hơn nữa. Khi một người chết đi, xác thân họ chẳng còn biết gì, chẳng cảm giác được sức nóng của ngọn lửa cũng chẳng hay biết sự khóc than của thân nhân. Họ đã đi theo lối đi của họ.

Đế Thích Thiên chủ bèn hỏi vợ của người chết, và cô ta trả lời:

- Đau buồn tiếc thương cho người chết chẳng khác nào trẻ con khóc cho mặt trăng khi đầy khi khuyết. Điều này chẳng ích lợi gì cả, vì vậy tôi chẳng khóc thương. Khi một người chết đi, xác thân họ chẳng còn biết gì, chẳng cảm giác được sức nóng của ngọn lửa cũng chẳng hay biết sự khóc than của thân nhân. Họ đã đi theo lối đi của họ.

Vua trời bèn hỏi người giúp việc:

- Phải chăng người chết là một người chủ không tốt nên khi anh ta chết thì bà chẳng khóc thương tiếc nuối?

- Không! Cậu ta đối xử với tôi rất tử tế. Tôi thương cậu ta chẳng khác nào thương con trai của mình.

- Thế sao bà chẳng tỏ vẻ tiếc thương chút nào?

- Bình đã vỡ thì chẳng thế nào đựng nước được. Không thể nào làm cho người chết sống lại, dẫu có phép thần thông đi nữa. Khi một người chết đi, xác thân họ chẳng còn biết gì, chẳng cảm giác được sức nóng của ngọn lửa cũng chẳng hay biết sự khóc than của thân nhân. Họ đã đi theo lối đi của họ.

Vua trời Đế Thích rất lấy làm hoan hỉ trước trước những câu trả lời trí tuệ của năm người.

Tại sao người nông phu - vị Bồ tát tiền thân Phật Thế Tôn, rất bình thản trước cái chết của con mình?

Theo chú giải thì Bồ tát luôn luôn dạy cho những người trong gia đình mình về sự chết, về bản chất của sự chết, về bản chất vô thường, hoại diệt của các sự vật trên thế gian. Chúng ta phải thực hành phương pháp quán niệm về sự chết này. "Quán niệm về sự chết" - một trong "Bốn điều bảo vệ cho việc hành thiền" là dụng cụ, là phương tiện hữu hiệu để chế ngự tình cảm, không buồn bã than khóc trước sự ra đi của người thân. "Suy niệm về sự chết" là một pháp suy niệm hỗ trợ đắc lực cho thiền minh sát. Suy niệm về sự chết giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận sự chết - sự chết của người khác cũng như sự chết của chính chúng ta.

Đó là bài học chúng ta đã học được qua những câu trả lời của năm người về thái độ của họ trước cái chết của người thân. Những câu trả lời trên rất ý nghĩa và ích lợi cho chúng ta. Khi buồn đau trước sự ra đi của người thân, hãy cố gắng nhớ đến những câu trả lời, và thái độ của những người trong câu chuyện này.

Chuyện tiền thân trên được Đức Phật kể ra để nhắc nhở và dạy dỗ cho một người đàn ông vừa mới mất con. Ông ta âu sầu than khóc mãi đến nỗi chẳng còn làm được việc gì hằng ngày nữa. Từ bài học này, chúng ta hãy cố gắng kiểm soát sự lo âu phiền muộn, sầu muộn than khóc để giảm thiểu chúng. Tôi không bảo bạn đừng ưu sầu, nhưng tôi muốn khuyên các bạn hãy cố gắng giới hạn đừng để ưu sầu vượt quá phạm vi của nó.

Một số người không thể dễ dàng bình thản trước sự ra đi của người thân, đặc biệt là trường hợp người thân mất đi trong một tai nạn thảm khốc, mất đi trong lúc còn trẻ tuổi. Bạn phiền trách ai bây giờ? Chẳng có ai để bạn phiền trách ngoại trừ cái nghiệp của mình. Chết là định luật chung của mọi người. Đây là một định luật khắc nghiệt, không dành riêng ân huệ cho một người nào. Bạn không thể trả giá hay mặc cả với nghiệp, xin nghiệp cho bạn một đặc ân. Những gì đã làm trong quá khứ, chúng ta sẽ gặt hái kết quả trong hiện tại. Một cách làm giảm thiểu ưu buồn hữu hiệu là hãy suy tưởng như sau: "Người thân ta chết là do nghiệp của họ. Bây giờ ta khóc lóc thương tiếc, sự khóc lóc thương tiếc này có đem lại chút lợi ích nào cho họ không? Chúng ta ai cũng biết rằng sự buồn bã than khóc chẳng đem lại lợi ích chi cho người chết cũng như người còn sống. Vậy chúng ta phải làm giờ bây giờ? Có hai điều cần phải xét đến. Trước tiên, đối với người chết, sau đó đối với chúng ta như sau:

- Theo lời dạy của Đức Phật chỉ có một cách duy nhất có thể giúp đỡ người quá vãng là hồi hướng phước báu đến họ. Muốn hồi hướng phước báu thì trước tiên chúng ta phải làm phước, bởi vì chúng ta chỉ có thể hồi hướng hay chia những gì chúng ta có mà thôi. Tạo phước báu để hồi hướng đến người đã khuất là bổn phận phải làm, một nghĩa vụ chúng ta phải hoàn mãn. Người quá vãng luôn trông chờ phước báu hồi hướng từ thân nhân của mình. Khi chúng ta hồi hướng phước báu đến người quá vãng, vì họ hoan hỉ với phước báu của chúng ta nên họ sẽ nhận được phước báu. Khác với trường hợp ở thế gian, phước báu này sẽ trả quả tức khắc đến họ. Trong thế giới của họ, họ hưởng phước báu ngay tức khắc dưới hình thức thực phẩm, áo quần, chỗ ở, v.v... Như vậy, bổn phận của chúng ta là hãy làm phước và hồi hướng phước báu đến người đã khuất.

- Còn đối với chúng ta? Hãy biến hoàn cảnh xấu thành cơ hội tốt. Hãy suy tưởng đến sự chết: "Người ấy chết và một ngày nào đó ta cũng sẽ chết, có thể hôm nay, ngày mai, 5 năm, hay 30 năm nữa". Có ai biết được lúc nào chúng ta sẽ ra đi? Đời người ngắn ngủi làm sao! Bây giờ, chúng ta còn có thời gian thì hãy tạo những phước báu mà chúng ta có thể làm, bởi một ngày nào đó chúng ta sẽ già nua hay bệnh hoạn không còn làm được nữa. Chúng ta phải tinh tấn thực hành Giới, Định, Tuệ. Chúng ta phải tạo nhiều phước báu để lúc rời bỏ thân thể này ra đi một cách nhẹ nhàng. Như vậy, cho dù có chuyện buồn thương xảy ra, chúng ta vẫn có thể học cách tạo nên những phước báu tốt đẹp cho kiếp sống sau này thay vì bi lụy một cách vô ích.

Tóm lại, có hai việc chúng ta cần nhớ để thực hiện trong hiện tại là năng làm phước và hồi hướng phước báu cho người quá vãng. Hãy quán niệm rằng đám tang được tổ chức nhằm đem lại lợi ích cho người đã khuất và cũng là dịp để cho người còn sống suy niệm về sự chết, suy niệm về sự vô thường, không nên vì sự chết chóc đó mà cổ súy cho những thói vô ích, mê mờ, lầm lạc, tà kiến và dị đoan.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 12
    • Số lượt truy cập : 6126400