Thông tin

SỨC MẠNH TRUYỀN THỐNG

TRONG PHONG TRÀO PHẬT GIÁO NĂM 1963

 

TS. TRẦN THUẬN
Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQG TP.HCM

 

Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam đã hơn 2.000 năm. Từ khi vào nước ta đến nay, Phật giáo luôn song hành cùng dân tộc và có những đóng góp lớn lao. Sức mạnh truyền thống của Phật giáo đã góp phần đưa dân tộc ta vượt qua nhiều thử thách nghiệt ngã, có lúc như ngọn sóng trào quét sạch những nguy cơ làm tổn thương tinh thần dân tộc, đem lại sự yên bình cho đất nước.

1. TINH THẦN NHẬP THẾ TÍCH CỰC LÀM NÊN SỨC MẠNH  CỦA

PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu sinh, hiếu nghĩa, độ lượng, vị tha, bình đẳng, bác ái,… Bản chất của Phật giáo là từ bi, trí tuệ, vô ngã, vị tha, yêu hòa bình, tôn trọng sự sống,… Có lẽ tinh thần Phật giáo và tinh thần dân tộc Việt Nam cơ bản đã gặp nhau, nên ngay từ lúc mới du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã được nhân dân ta đón nhận. Phật giáo nhanh chóng hòa nhập với văn hóa, đời sống con người Việt Nam, đồng hành cùng dân tộc Việt Nam với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời, phấn đấu vì niềm hạnh phúc và sự an vui cho mọi người.

Lịch sử nước nhà cho thấy, vận mệnh dân tộc có lúc thịnh, lúc suy, và Phật giáo Việt Nam cũng có lúc thăng lúc trầm. Qua hơn hai nghìn năm có mặt ở Việt Nam, với tinh thần “đời – đạo lưỡng toàn”, Phật giáo Việt Nam đã tập hợp đông đảo tín đồ để hun đúc nên các giá trị đạo đức, nhân văn vì hạnh phúc của chúng sinh, vì sự an bình của đất nước. Trải qua các thời kỳ lịch sử, Phật giáo Việt Nam đã minh chứng sinh động cho tinh thần nhập thế tích cực, đạo pháp gắn liền dân tộc, và thực tế Phật giáo Việt Nam đã đóng góp xứng đáng cho công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đã nhập thân sâu sắc vào dân tộc ta.

Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Phật giáo luôn đứng về phía những người yêu nước, cùng đấu tranh để bảo vệ nền độc lập, bảo vệ chân lý. Có những tín đồ Phật giáo đã trực tiếp lãnh đạo nhân dân đứng lên giành độc lập ngay từ thời “Bắc thuộc”, như cuộc khởi nghĩa của Lý Phật Tử cuối thế kỷ VI, đầu thế kỷ VII.

Từ thế kỷ X, nền độc lập tự chủ của dân tộc được khôi phục, nhân dân ta bước vào thời kỳ xây dựng lại đất nước về mọi mặt sau hơn “ngàn năm nô lệ”, chế độ quân chủ trung ương tập quyền từng bước hình thành và củng cố. Phật giáo đã nhanh chóng tạo được một vị thế và có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Ngô Chân Lưu là nhà tu hành, nhà chính trị, ngoại giao tài ba, là tấm gương sáng về tinh thần đạo pháp dấn thân cùng dân tộc. Ông được Đinh Tiên Hoàng “bái vi Tăng thống” và phong Khuông Việt Đại sư. Tư tưởng của ông không bó hẹp trong phạm vi luận bàn về khái niệm, một thứ lý luận kinh viện mà nhiều người mắc phải, mà thực sự gắn kết giáo lý với thực tiễn cuộc sống. Với ông Đạo gắn chặt với Đời. Với bài kệ thị tịch Trong cây có lửa, ông đã đưa tư tưởng Thiền vào trong cuộc sống một cách nhẹ nhàng, tự tin và đã mở ra khuynh hướng nhập thế cho Phật giáo Việt Nam.

Quốc sư Khuông Việt thực sự trở thành một biểu tượng sinh động, mở đầu cho một xu thế Phật giáo hướng nội, biện tâm phát triển mạnh mẽ vào thời Lý Trần, để các Thiền sư không chỉ góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước mà còn góp phần to lớn trong việc bảo vệ nền độc lập dân tộc. Ông là vị Tăng quan đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, đã tạo nên một hình ảnh đẹp đẽ của các vị sư tăng trong đời sống xã hội, góp phần xây dựng mô hình Đạo – Đời nhất thể, đưa Phật giáo gần gũi hơn với đời sống con người, tạo điều kiện cho Phật giáo đồng hành cùng dân tộc.

Thiền sư Đỗ Pháp Thuận giúp vua Lê Đại Hành từ lúc dựng nghiệp cho đến khi thiên hạ thái bình, được vua Lê kính trọng và giao phó cho việc soạn thảo văn thư, tiếp đón sứ thần. Hẳn mọi người còn nhớ hình ảnh “ông lái đò” và bài thơ “Nga nga lưỡng nga nga” làm cho sứ nhà Tống là Lý Giác lấy làm khâm phục, hay bài “Quốc tộ” mà nhà sư nói rõ quan điểm của mình khi bàn về vận nước với vua Lê:

Quốc tộ như đằng lạc,

Nam thiên lý thái bình.

Vô vi cư điện các,

Xứ xứ tức đao binh.

Nghĩa là, vận nước như mây quấn, ta phải giữ gìn đất nước này như thế quấn của dây mây. Một sợi mây tuy có dẻo dai nhưng vẫn dễ đứt, dễ gãy nếu ta biết cách bẻ, còn nhiều dây mây quấn lại thành bó khó có sức mạnh nào bẻ gãy. Trăm họ hướng về vua với một lòng tôn kính, vua lấy ý nguyện của dân làm ý nguyện của mình, nỗi khổ của dân cũng là nỗi khổ của mình. Tìm cách hóa giải những xung đột nội bộ của một quốc gia, liên kết nhân tâm lại với nhau như những dây mây riêng lẻ thành một bó mây. Thiền sư khẳng định, muốn cho đất nước được yên bình, vua phải biết cách áp dụng phương pháp, hay là nguyên lý tu dưỡng vô vi nơi triều đình của mình.

Thiền sư Vạn Hạnh có công giúp vua Lê Đại Hành đánh tan giặc Tống và cũng là người đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi khi Lê Long Đĩnh băng hà, dựng nên triều Lý; khuyên Lý Thái Tổ dời đô ra Đại La để đặt nền móng lâu dài cho đất nước. Ông còn khuyên dạy nhân dân tu tâm sửa tính, tu học giáo lý Phật giáo để được giải thoát an lạc.

Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV là giai đoạn phát triển cực thịnh của Phật giáo Việt Nam, đặc biệt vào triều Lý (1010 - 1025) và triều Trần (1226 - 1400), Phật giáo trở thành quốc giáo. Với sự phát triển và đóng góp của Phật giáo, văn hóa Việt Nam bước vào một thời kì phát triển rực rỡ, bừng lên như một cuộc hồi sinh. Trước hết, Phật giáo đã góp phần xây dựng nên triều đại nhà Lý, một triều đại thuần từ, thịnh trị nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Văn hóa thời Lý Trần được xem là một trong những đỉnh cao của văn hóa Thăng Long – Đại Việt, nền văn hóa tạo nên sức mạnh phi thường của dân tộc đánh bại kẻ thù xâm lược. Một trong những yếu tố tạo nên sắc thái riêng của nền văn hóa này là sự phát triển của Phật giáo với những đặc trưng cơ bản của nó, Phật giáo Lý Trần, Phật giáo Việt Nam.

Xuất phát từ những đòi hỏi phải củng cố sức mạnh dân tộc để chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ nền độc lập mới giành được và xây dựng tổ quốc. Các ông vua đầu triều Lý, triều Trần không chỉ là những anh hùng dân tộc có tài trị nước, giàu kiến thức,... mà còn là những Phật tử sùng đạo và hầu hết đã đắc đạo. Các vị đã ra sức xiển dương đạo Phật và đã thể hiện thành những chủ trương chính sách đối nội đúng đắn, động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến chống ngoại xâm. Mọi suy nghĩ và hành động của giai cấp lãnh đạo quốc gia luôn gắn với phương châm khoan thư sức dân làm kế bền gốc sâu rễ để giữ nước, lấy tư tưởng thân dân để phát huy sức mạnh của dân, và do nhu cầu xiển dương đạo Phật, các nhà lãnh đạo đất nước – các vị Thiền sư thật sự muốn xây dựng một xã hội Việt Nam trên nền tảng tinh thần Phật giáo nên đã quan hệ mật thiết với dân chúng. Chính vì vậy mà Phật giáo đã đóng vai trò liên kết, là chiếc cầu nối giữa nhà nước với dân, do đó quần chúng nhân dân đã có tác động trở lại thúc đẩy cho Phật giáo phát triển.

Có thể nói, Phật giáo thời này đã nhận truyền thống đoàn kết, thương yêu, tinh thần độ lượng của dân tộc Việt Nam làm yếu tố cho sự phát triển của nó. Tất nhiên, không khí phấn khởi của toàn xã hội được tạo nên từ những thắng lợi rực rỡ của các cuộc kháng chiến, đã tạo đà cho sự phát triển cường thịnh của đất nước đã tạo ra những cơ hội thuận lợi nhất cho việc phát triển tôn giáo, hoằng dương Chánh pháp.

Tính chất nhập thế tích cực là yếu tố có tính chất quyết định cho sự phát triển của Phật giáo thời này, làm cho nó gần gũi, gắn bó với quần chúng hơn, và dựa vào quần chúng để mà phát triển. Bên cạnh đó, tinh thần phóng khoáng, tự do, viên dung nhất quán; tinh thần vô ngã vị tha, thâu hóa sáng tạo của Phật giáo thời Lý Trần đã giúp nó có điều kiện phát triển.

Như vậy, khách quan, Phật giáo thời này tiếp tục phát triển rực rỡ là nhờ có sự ủng hộ của chính quyền và một hoàn cảnh đất nước có nhiều thuận lợi, nhưng về chủ quan, những tiềm năng nội tại đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo. Những vị vua vừa tài trí vừa anh minh, vừa uyên thâm về Phật học, lại là những nhà thực nghiệm sâu sắc. Điều đó có tác dụng thu hút cả triều đình, hoàng tộc và đông đảo dân chúng sùng đạo, tạo nên một tinh thần nhập thế tích cực, một chủ trương đời – đạo lưỡng toàn.

Trong những chặng đường đau thương của dân tộc, Phật giáo đã cùng nghiêng vai gánh vác và thực tế các Thiền sư đã hăng hái lên ngựa cầm quân ra trận ngay từ buổi đầu đánh đuổi giặc Mông – Nguyên. Đó là một cách giải thoát. Giải thoát cho mình và cho cả chúng sinh khỏi vòng khổ nhục. Những ông vua đầu thời Lý, thời Trần xem việc đời như việc đạo, việc nước cũng giống như việc chùa, vì họ hiểu rằng phụng sự chúng sanh tức cúng dường chư Phật như lời đức Phật đã dạy. Hơn nữa, Trần Thái Tông đã sớm đắc đạo qua câu nói của Quốc sư Trúc Lâm: “Trong núi vốn không có Phật, Phật tại tâm”, “phàm làm vua phải lấy ý muốn của nhân dân làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình” và lấy đó làm nền tảng tư tưởng của mình, dẫn đạo cho hậu thế, nên cả Trần Thái Tông lẫn Trần Nhân Tông sẵn sàng quên mình để lo cho dân, cho nước. Khi đất nước cần, vua “có thể cầm gươm lên ngựa, đi trước ba quân, xông pha giữa làn tên đạn, để cứu dân thoát ách ngoại xâm”(1). Hình ảnh Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ lên ngựa cầm gươm ra trận giết giặc Mông Thát để giữ gìn nền độc lập cho dân tộc, cứu nguy cho muôn dân đã trở thành một biểu tượng sinh động cho tinh thần nhập thế tích cực của Phật giáo thời này. Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống giặc Nguyên Mông xâm lược. Khi đất nước thái bình, Ngài nhường ngôi và đến nơi non cao Yên Tử để học Phật, tu hành, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, tạo nên hạt nhân tinh thần cho sự thống nhất tư tưởng, cố kết lòng dân. Đó là một thiền phái mang bản sắc riêng của thiền học Việt Nam. Cuộc đời phạm hạnh của Phật hoàng Trần Nhân Tông mãi mãi là một bản anh hùng ca bất diệt, là tấm gương cho hậu thế noi theo. Ở Ngài đã hội tụ đầy đủ các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống, hào khí dân tộc để cống hiến cho đạo pháp và dân tộc. Trần Quốc Tuấn khi viết Dụ chư tỳ tướng hịch văn chắc hẳn đã không vượt ra ngoài khuôn khổ triết lý đạo Thiền. Hình ảnh của vị Quốc công Tiết chế của triều đình ngồi tọa Thiền tại chùa Vĩnh Nghiêm đã nói lên đầy đủ tính chất cơ bản của Thiền tông Việt Nam thời Trần và ảnh hưởng của nó đối với đời sống xã hội. Hưng Đạo Vương tọa Thiền không phải để tìm con đường giải thoát cho riêng mình mà suy tư về thế sự. Trước thế mạnh của giặc, chỉ tự giác giải thoát cho mình là chưa đủ mà phải vì cả chúng sinh, phải vì vận nước!

Một xã hội mà ông vua vừa là một vị nguyên thủ quốc gia vừa là một nhà lãnh đạo tinh thần; vừa là những nhà chính trị xuất chúng, vừa là những nhà đạo đức gương mẫu; những ông vua nhưng lại là những nhà hiền triết, như Lý Thái Tổ, Lý Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông,... Họ là những con người vừa có kiến thức thế học vững chắc, vừa có trình độ Phật học uyên thâm, dùng đạo Phật phục vụ cho mục đích chính trị và vì sự giải thoát của con người. Sự dung hợp giữa nền chính trị quốc gia với tinh thần Phật giáo đã tạo ra một sự tương tác chi phối lẫn nhau và thúc đẩy nhau phát triển; nó chứng tỏ Phật giáo bấy giờ đóng vai trò như một lực lượng lãnh đạo toàn dân về mặt tinh thần.

Hơn nữa, Phật giáo Việt Nam, nhất là Phật giáo Lý - Trần là Phật giáo nhập thế tích cực. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định điều này khi nói chuyện với các đại biểu dự Đại hội lần thứ nhất Phật giáo Việt Nam (1981), tại Phủ Chủ tịch: “Phật giáo nước ta, không phải là Phật giáo tiêu cực, yếm thế mà là Phật giáo hành động. Đức Phật thiên nhãn thiên thủ (nghìn mắt nghìn tay) là biểu tượng cho tinh thần ấy. Nghìn mắt để nhìn thấy tất cả nỗi khổ của chúng sinh, nghìn tay là làm tất cả cho chúng sinh. Đây là một sáng tạo cực kỳ quý báu của nhân dân ta…”(2). Nhập thế để tồn tại. Hay nói cách khác, muốn tồn tại và phát triển, không tôn giáo nào không nhập thế. Tinh thần nhập thế của Phật giáo đã gặp sự nhập thế của các nhà nho Việt Nam làm cho xã hội trở nên năng động hơn; một xã hội với nhân sinh lạc quan, yêu đời, hành động có lý tưởng và đầy tinh thần trách nhiệm.

Nhà Hậu Lê được thành lập sau khi đánh bại quân Minh, lấy Nho giáo làm nền tảng tư tưởng cho đạo trị nước. Các nhà nho tuy bài xích Phật giáo nhưng họ không thoát khỏi ảnh hưởng của Phật giáo vì rằng, Nho giáo không thể đáp ứng được đời sống tâm linh của họ. Họ không chính thức thờ Phật nhưng trong tư tưởng đã thể hiện những yếu tố triết lý của đạo Phật, nhất là Thiền. Ngay cả những bậc đại nho như Lương Thế Vinh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông,... cũng không thoát khỏi tình trạng này.

Nguyễn Trãi, một môn đệ của Khổng Tử, thường tự hào đội mòn khăn Đỗ Phủ, thế mà trong bài Ngôn chí đã thể hiện rõ nét những tư tưởng cơ bản của Phật giáo, tư tưởng mà trước đây Quốc sư Trúc Lâm đã nêu lên với Trần Thái Tông, Nguyễn Trãi viết: “Thân đã hết lụy thân nên nhẹ, Bụt ấy là lòng, Bụt há cầu”(3).

Hương Hải Thiền sư, một trong hai vị Thiền sư nổi tiếng ở Đàng Ngoài, thường được vua Lê Dụ Tông mời vào cung đàm đạo. Cố nhiên, mỗi thời mỗi khác, các Thiền sư thời Lê, Nguyễn đều chịu ảnh hưởng của Mật tông và Tịnh Độ tông, đồng thời mang cả tư tưởng Lão Trang và Nho giáo. Phật, Nho, Lão hòa quyện vào nhau và tư tưởng Tam giáo đồng nguyên trở thành khuynh hướng chủ đạo trong đời sống xã hội nước ta bấy giờ: “Cho hay nhất thể đồng tam giáo, Đạo cả chưa hề lệch một bên”(4).

Thời Lê sơ và cả Lý – Trần trước đó đều có Tam giáo đồng nguyên, nhưng thời Lý – Trần Tam giáo đồng nguyên được xây dựng trên nền tảng tư tưởng Phật giáo, còn từ giữa thế kỷ XIV trở đi, Tam giáo đồng nguyên được xây dựng trên cơ sở lấy Nho giáo làm cốt lõi.

Cùng với công cuộc Nam tiến, Phật giáo không ngừng lớn mạnh. Quá trình phát triển của xứ Đàng Trong gắn liền với quá trình mở cõi về phương Nam của dân tộc. Từ buổi đầu tạo dựng xứ Đàng Trong, Phật giáo đã được đề cao, các nhà sư rất được trọng vọng. Phật giáo đã nhanh chóng trở thành chỗ dựa tin cậy đối với Nguyễn Hoàng và những người kế nghiệp. Các chúa Nguyễn cho xây cất nhiều chùa mới, trùng tu chùa cũ, ban sắc tứ cho nhiều chùa Phật khắp nơi ở Đàng Trong. Đặc biệt, chúa Nguyễn còn khuyến khích các vị sư trong nước cũng như từ Trung Hoa đến hoằng pháp tại Đàng Trong. Bằng những việc làm cụ thể, các chúa Nguyễn đã tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa Phật giáo và chính quyền Đàng Trong, thậm chí đã đưa Phật giáo lên vũ đài chính trị trên vùng đất mới.

Quá trình tạo lập xứ Đàng Trong gắn liền với quá trình khai khẩn của lưu dân. Cuộc sống vất vả khó nhọc lại phải đương đầu với bao thử thách khiến những người lao động không thể nghĩ đến những gì cao siêu mà cha ông họ ở quê nhà thường đề cập với một sự tôn kính: đạo Thánh hiền. Cái họ cần là những gì thiết thực hơn, phù hợp hơn với cuộc sống mới nơi đất khách quê người; những gì có thể vỗ về an ủi họ, giúp họ vượt qua khó khăn trước mắt. Chúng ta có thể nhận ra một điều rằng, đối với dân chúng, tín ngưỡng Phật giáo đã trở thành hành trang không thể thiếu được trong quá trình di dân mở đất. Nhất là “trong buổi đầu đặt nền móng tại vùng đất Gia Định, tín ngưỡng Phật giáo đã có một vai trò quan trọng, góp phần tăng cường lòng tự tin, khuyến khích sự bền chí và đã tạo được sự yên ổn và phát triển tại vùng đất mới. Nhu cầu cần có thầy cầu an khi đau ốm và cầu siêu khi qua đời là một đòi hỏi bức bách của lưu dân. Tín ngưỡng Phật giáo đã đáp ứng được nhu cầu ấy và đã tạo tiền đề để đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển nhanh chóng của nhiều ngôi chùa trong vùng đất Gia Định lúc bấy giờ”(5).

Trong tình cảnh đất nước loạn lạc vào thế kỷ XVII - XVIII, Phật giáo đã góp phần đáng kể trong việc xoa dịu những nỗi đau thương của dân lành, đồng thời Phật giáo trở thành phương tiện cho tầng lớp quan lại địa chủ có những giờ phút tĩnh tâm sau những hoạt động chính trị căng thẳng hay sau những cuộc vật lộn với việc tính toán làm ăn, đặc biệt là đối với tầng lớp trí thức Nho học đã chán chường thế sự, lui về làm bạn với cảnh chùa u tịch, vui cùng tiếng mõ, câu kinh. Những năm cuối thế kỷ XVIII, tình hình đất nước hết sức rối ren, Trịnh – Nguyễn phân tranh, Tây Sơn diệt Trịnh – Nguyễn, đánh bại Xiêm, Thanh, rồi Tây Sơn đổ, họ Nguyễn khôi phục quyền bính,... Mặc dù họ Nguyễn chủ trương độc tôn Nho học, nhưng chính các ông vua Nguyễn đã cho trùng tu chùa, sắc phong cho nhiều chùa Phật; không ít nhà nho đã quay về với Phật giáo. Thực tế đó chứng tỏ những học thuyết của Nho gia không còn giữ vai trò là khuôn vàng thước ngọc nữa đối với giai cấp thống trị. Bên cạnh những nhà nho cố chấp cho rằng trên đời này ngoài tu – tề – trị – bình không còn có một đạo nào nữa cả, thì cũng có những nhà nho trở thành người đứng đầu một tông phái Phật giáo và được tôn xưng là Đệ Tứ Tổ của phái Thiền Nhị Tổ Trúc Lâm Yên Tử như Ngô Thì Nhậm. Ông vốn là một nhà nho năng động, trước thực tế đất nước ông đã có cái nhìn mới thoát ra khỏi định kiến, cố chấp của đạo Nho mà chủ trương Tam giáo đồng nguyên. Ông đã đến với Thiền bằng những sở đắc Nho học và trở thành một nhà Thiền học, một vị Thiền sư và ông đã tự xưng là người tiếp nối phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Những đồng chí của Ngô Thì Nhậm đã tôn xưng ông là Đệ Tứ Tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, tiếp nối Thiền tông Việt Nam thời Trần.

Từ giữa thế kỷ XIX, trước sự xâm lăng và thống trị của thực dân Pháp, cùng với nỗi đau của dân tộc là nỗi đau tín ngưỡng đối với tín đồ Phật giáo. Đa số Tăng Ni, Phật tử đã không ngần ngại tham gia vào phong trào giải phóng dân tộc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với chính sách đại đoàn kết dân tộc, Phật giáo trở thành một trong những thành viên tích cực của Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi và có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp giải phóng nước nhà.

Phát huy tinh thần nhập thế tích cực của Phật giáo Việt Nam, tiếp Quân lệnh số I của Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc, ngày 15.8.1945, tạp chí Đuốc Tuệ của Hội Phật giáo Bắc Kỳ ra lời kêu gọi: “Tăng Ni các hạt mau mau lập đoàn thể Tăng già Cứu quốc, theo mục đích mà tham gia vào cuộc cách mạng hiện thời”(6). Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều Tăng Ni, Phật tử đã cởi áo cà-sa mặc chiến bào tham gia kháng chiến chống Pháp(7) và suốt chín năm trời kháng chiến, Tăng Ni, Phật tử đã có mặt trên khắp các mặt trận. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước một lần nữa huy động đông đảo các tín đồ Phật giáo tham gia. Nhiều nhà sư đã trở thành cán bộ lãnh đạo, nhiều ngôi chùa trở thành cơ sở cách mạng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Có thể nói “Phật giáo từ hàng nghìn năm nay đã chiếm được một chỗ đứng khá vững chắc trong lòng của hàng triệu con người” (Trần Văn Giàu) và “hai ngàn năm Phật giáo Việt Nam là hai ngàn năm Phật giáo nhập thân với dân tộc” (Hà Văn Tấn). Quả đúng như Hồ Chí Minh đã nhận xét: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”(8).

Chỉ có nhập thế một cách tích cực, Phật giáo (cũng như mọi tôn giáo khác) mới có đủ điều kiện để tồn tại và phát triển. Và, chỉ có đồng hành cùng dân tộc, Phật giáo Việt Nam mới có thể tạo nên sức mạnh phi thường để dẫn dắt chúng sinh, góp phần giải thoát chúng sinh khỏi những tai ương, khổ nhục.

2. PHONG TRÀO PHẬT GIÁO NĂM 1963 VÀ SỨC MẠNH TRUYỀN THỐNG

Vì những lẽ trên đây, Phật giáo Việt Nam được ghi nhận là tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, “hộ quốc, an dân”. Khi đất nước lâm nguy, cộc sống của người dân bị đe dọa, các nhà sư không thể ngồi yên, không thể bàng quan trước thế sự. Các vị đã tập hợp lực lượng, tiến hành cuộc đấu tranh, một cuộc đấu tranh bất bạo động nhưng với sức mạnh phi thường, một sức mạnh được tạo nên từ truyền thống gần hai ngàn năm gắn bó với dân tộc. Sức mạnh đó đã làm nên một phong trào Phật giáo 1963 đi vào lịch sử, cộng hưởng để trở thành sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, làm sụp đổ nền Đệ nhất Cộng hòa do người Mỹ dựng lên mà Ngô Đình Diệm là tổng thống.

Ngô Đình Diệm, một quan lại phong kiến thời Pháp thuộc, được Mỹ đưa lên nắm quyền ở miền Nam Việt Nam từ sau khi Hiệp định Genève được ký kết, hầu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới.

Chín năm cầm quyền, Ngô Đình Diệm và gia đình họ Ngô đã tỏ ra trung thành với quan thầy Mỹ, thực thi chương trình chống cộng, diệt cộng một cách cực đoan. Nhưng rồi, vì bản chất của chính quyền tay sai và chính sách dùng người của Mỹ, lại đứng trước sự tấn công mạnh mẽ của phong trào cách mạng miền Nam, trong đó có phong trào đô thị, mà phong trào Phật giáo có vai trò quan trọng, chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ bằng một cuộc đảo chính quân sự do Mỹ bật đèn xanh.

Sau khi nắm chính quyền, bên cạnh chính sách “tố cộng, diệt cộng”, Ngô Đình Diệm thẳng tay đàn áp, khủng bố đối với nhân dân miền Nam, đồng thời đẩy mạnh chính sách kỳ thị tôn giáo nhằm thực hiện âm mưu loại Phật giáo ra khỏi đời sống tín ngưỡng của nhân dân miền Nam. Trước thực tế đó, Tăng Ni, Phật tử đã cùng với toàn thể nhân dân miền Nam liên tục tiến hành đấu tranh chống chế độ độc tài, gia đình trị và giáo trị Ngô Đình Diệm, mà đỉnh cao là phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963.

Khởi đầu từ Huế, khi đồng bào Phật tử bao vây Tỉnh tòa Thừa Thiên vào chiều ngày 7.5.1963 để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm cấm treo cờ Phật giáo trong ngày Phật đản. Hôm sau (8.5.1963, ngày Phật đản), từ chùa Diệu Đế, một cuộc xuống đường của hai vạn quần chúng Phật tử Huế diễn ra với các khẩu hiệu: “Tự do tín ngưỡng”; “Đả đảo những kẻ chống lại tôn giáo”; “Phật giáo bất diệt”,... Đến tối, đoàn biểu tình bao vây Đài phát thanh Huế đòi giải quyết những yêu sách của mình. Chính quyền Diệm đã huy động xe tăng và binh lính đến đàn áp làm 8 Phật tử ở tuổi thiếu niên thiệt mạng và nhiều người khác bị thương.

Ngày 10.5.1963, Tăng Ni, Phật tử họp tại chùa Từ Đàm tỏ rõ quyết tâm đấu tranh một mất một còn với chính quyền Ngô Đình Diệm để bảo vệ Phật pháp, đồng thời ra Tuyên ngôn đòi chính quyền Ngô Đình Diệm thực thi chính sách bình đẳng tôn giáo.

Từ Huế, phong trào đã lan khắp miền Nam, được dư luận trong và ngoài nước ủng hộ.

Ngày 30.5.1963, tại Sài Gòn, bốn trăm nhà sư biểu tình ngồi trước trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng hòa và loan báo một cuộc tuyệt thực lớn trên toàn miền Nam. Ở hầu khắp miền Nam, cả thành thị lẫn nông thôn, Phật tử cùng sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân, tham gia tích cực những cuộc biểu tình, tuyệt thực lên án chính quyền chính Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo. Cuộc đấu tranh đã lôi kéo đông đảo sinh viên, học sinh và giáo chức tham gia. Phong trào được tiếp thêm sức mạnh khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn ngày 11.6.1963(9). Vụ tự thiêu đã gây một sự chấn động mạnh mẽ ở cả trong và ngoài nước. GS. Trần Văn Giàu viết: “Cuộc hy sinh phi thường và dũng cảm của Hòa thượng Thích Quảng Đức, hình ảnh cụ ngồi thẳng như tượng đá trong ngọn lửa rực hồng đã nhanh như một làn sóng điện làm sôi nổi dư luận trong cả nước Việt Nam và trên thế giới. Ảnh của vị Hòa thượng Việt Nam Thích Quảng Đức ngồi trong ngọn lửa được đăng trên hầu hết các báo khắp năm châu, với những dòng chữ nói lên sự khâm phục”(10). Đặc biệt, cuộc tự thiêu đã làm cho dư luận Mỹ sang quay chống Ngô Đình Diệm và gia đình họ Ngô. Hình ảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức với ngọn lửa hồng được khắc sâu trong tâm trí người dân miền Nam và được xem là biểu tượng cao nhất về sự căm phẫn của đồng bào Phật giáo đối với chính quyền Ngô Đình Diệm. Nó có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy quần chúng tiếp tục cuộc đấu tranh chống chính quyền họ Ngô. Ngày 16.6.1963, đồng bào Sài Gòn biểu tình kéo đến chùa Xá Lợi, nơi đặt thi hài của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Không ngăn cấm được, chính quyền Diệm cho hiến binh và cảnh sát đàn áp. Cuộc đấu tranh diễn ra hàng giờ đồng hồ với sự hăng hái của thanh niên, học sinh sinh viên. “Đây là cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt nhất ở Sài Gòn trong mấy năm nay. Nó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chế độ độc tài phát xít Mỹ - Diệm, đẩy chúng vào tình thế bị cô lập hơn bao giờ hết”(11).

Sau khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, chính quyền Ngô Đình Diệm có sự nhượng bộ bằng việc ký kết một bản Thông cáo chung ngày 16.6.1963. Nội dung Thông cáo về cơ bản thỏa mãn được năm nguyện vọng mà Phật giáo đã đề ra trong bản Tuyên ngôn ngày 10.5.1963. Nhưng thực ra, đây chỉ là một kế hoãn binh của chính quyền Ngô Đình Diệm để chuẩn bị cho một kế hoạch quy mô rộng lớn nhằm đè dập tắt phong trào Phật giáo. Điều đó được Ngô Đình Nhu nói rõ trong một cuộc họp với mười tám tướng tá vào đầu tháng 7.1963: “Nếu chính phủ này không giải quyết vấn đề Phật giáo, nó sẽ bị lật đổ vì cuộc đảo chính quân sự”(12). Theo ông Nhu, “Bất cứ một chính phủ nào thay thế chính phủ này trước hết sẽ đập tan những người Phật giáo”(13).

Nửa đêm ngày 20.8.1963, dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Ngô Đình Nhu, quân đội đặc biệt của Diệm đã tấn công tất cả các ngôi chùa miền Nam. Ở Sài Gòn, chùa Xá Lợi là trọng điểm đánh phá của quân đội Diệm. Tăng Ni, Phật tử tay không đã chống cự quyết liệt với quân đội. Ở Huế, chính quyền Ngô Đình Diệm cho quân chiếm thành phố và tấn công chùa. Dân chúng lập tức đổ ra đường đánh mõ báo động. Khắp miền Nam các chùa chiền đều bị quân đội Diệm tấn công. Phật giáo gọi đây là ngày “Pháp nạn” (21.8.1963).

Lệnh thiết quân luật được ban bố trên khắp miền Nam. Nhưng phong trào đấu tranh vẫn tiếp tục. Các cuộc tự thiêu vẫn diễn ra và thu hút mạnh mẽ sự chú ý của dư luận. Các tướng lĩnh chóp bu trong quân đội Sài Gòn đã bắt đầu vận động lôi kéo các phần tử không ăn cánh với Diệm, lập ra “Hội đồng quân nhân cách mạng” bàn kế hoạch lật đổ Diệm.

Sự thất bại của quân đội Sài Gòn trên chiến trường, sự mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ngày càng lên cao ở các đô thị, đặc biệt là phong trào Phật giáo,… đã khiến cho Mỹ thấy rằng, anh em Diệm không còn là công cụ thực thi chính sách thực dân mới của chúng ở miền Nam. Mâu thuẫn Mỹ - Diệm càng trở nên căng thẳng và Mỹ đã quyết định “thay ngựa giữa dòng”. Ngày 01.11.1963, Mỹ ủng hộ nhóm tướng lĩnh quân đội Sài Gòn do Dương Văn Minh cầm đầu làm cuộc đảo chính lật đổ Diệm - Nhu. Chế độ độc tài gia đình trị và nền Đệ nhất Cộng hòa với thuyết “Cần lao Nhân vị” do Mỹ đẻ ra đã hoàn toàn sụp đổ(14).

Cuộc đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử năm 1963 đã thực sự trở thành phong trào mà nhiều người gọi là “Biến cố Phật giáo năm 1963”. Từ thực tế phong trào, có thể nhận ra mấy vấn đề cơ bản:

• Phong trào Phật giáo năm 1963 không phải là sự bộc phát trước chủ trương của chính quyền Ngô Đình Diệm cấm đồng bào treo cờ Phật giáo trong ngày lễ Phật đản. Bởi, ngay từ khi Diệm mới lên nắm quyền ở miền Nam, các nhà lãnh đạo Phật giáo miền Nam đã nhận định: “Cuộc sống sẽ hiểm nghèo hơn dưới chế độ Diệm, hơn bất cứ thời gian nào dưới Pháp thuộc trước đây. Chúng ta chắc phải qua những ngày tháng khó khăn hơn”(15). Thực tế đã chứng minh nhận định đó hoàn toàn chính xác. Vì rằng, “chủ nghĩa nhân vị” mà Ngô Đình Nhu đề ra làm nền tảng tư tưởng cho nền Cộng hòa đệ nhất “là một thủ đoạn bịp bợm nhằm làm cho Thiên Chúa giáo trở nên hấp dẫn. Gia đình họ Ngô tượng trưng không chỉ cho Thiên Chúa giáo, mà cả cho sự can thiệp của nước ngoài”(16). Chính quyền họ Ngô tìm cách loại trừ Phật giáo ra khỏi đời sống tín ngưỡng miền Nam bằng cách gạt bỏ ngày Phật đản ra khỏi danh sách những ngày nghỉ lễ chính thức trong năm, tăng cường khủng bố Phật tử và bắt ép tín đồ Phật giáo cải đạo qua Thiên Chúa giáo với nhiều biện pháp tàn nhẫn. Nghĩa là, trong tư duy của họ Ngô, miền Nam Việt Nam chỉ có thể tồn tại duy nhất một tôn giáo: Thiên Chúa giáo. Sự kiện Phật đản năm 1963 chỉ là sự bùng nổ của các mâu thuẫn vì lý do tôn giáo tích tụ trong lòng xã hội, và đặc biệt bị đẩy lên mức độ cực đoan trong thời kỳ của Chính phủ Ngô Đình Diệm, từ 1954 đến 1963. Trong “Bản Tuyên ngôn” của Phật giáo Việt Nam(17) gửi chính quyền Ngô Đình Diệm đã nêu rõ lý do và mục đích của cuộc đấu tranh. Với chủ trương kỳ thị tôn giáo hết sức nặng nề đó, chính quyền họ Ngô đã tự đặt mình trước thái độ bất hợp tác và cao hơn nữa là sự phản kháng của toàn thể nhân dân miền Nam, của những tín đồ Phật giáo chiếm tỉ lệ đông đảo trong xã hội miền Nam lúc bấy giờ. Cũng chính từ lẽ đó, phong trào Phật giáo không tách khỏi phong trào đấu tranh của quần chúng miền Nam trong suốt chín năm cầm quyền của Ngô Đình Diệm, nó cứ âm ỉ, sục sôi rồi bùng phát lên khi “tình thế” xuất hiện vào năm 1963.

Trong quá trình tồn tại và phát triển của Phật giáo nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng, chưa bao giờ Phật giáo chủ trương bài xích hay kỳ thị tôn giáo, chưa hề có chủ trương độc tôn tôn giáo. Ngay cả trong thời kỳ Lý Trần, khi mà Phật giáo Việt Nam cực thịnh, Nho giáo và Đạo giáo vẫn có điều kiện để phát triển. Với tinh thần viên dung, Phật giáo đã tạo điều kiện cho Tam giáo đồng nguyên. Khi Nho giáo bước lên vũ đài chính trị, đẩy lùi Phật giáo, Phật giáo vẫn tồn tại và phát triển trong dân chúng mà không hề mất đi. Điều quan trọng là Phật giáo không hề có chủ trương đấu tranh để giành quyền thống trị xã hội và nếu có đấu tranh cũng chỉ nhằm mục tiêu bình đẳng tôn giáo, đấu tranh cho hòa bình, cho độc lập dân tộc, cho sự an bình của chúng sinh. Đối với Thiên Chúa giáo cũng vậy, Phật giáo vẫn tỏ rõ sự viên dung. Chính vì lẽ đó mà ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ trước, lúc đang hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã gửi cho mục sư đạo Tin Lành Ulysse Soulier một bức thư, trong đó có đoạn: “Tôi tin rằng chỉ có một triết lý, một nguyên lý và một tôn giáo cho tất cả mọi người, bởi vì chỉ có một Chân lý. Chúng ta chỉ được phép thấy Chân lý này từ phía chúng ta đang đứng và chúng ta đặt tên cho nó theo cái mà chúng ta thấy hay đúng như chúng ta có thể thấy: Khổng Tử hay Phật đối với người phương Đông và Chúa Cơ Đốc đối với người phương Tây.

Phật giáo + Khổng giáo + Cơ Đốc giáo = Điều Tốt Đẹp.

(…)

Bởi vì chúng ta có được hạnh phúc chiêm ngưỡng cùng một lúc cả ba nguồn sáng này, nên chăng ông yêu thích cả ba và cố gắng điều hòa cả ba với bản tính của chúng ta để làm cho bản tính đó tốt hơn, thay vì đem ba cái đó ra đối chọi lẫn nhau.

Nhưng để thay đổi tinh thần của một dân tộc, nhất là của một dân tộc đã có những phong tục, những truyền thống và tính mẫn cảm được hình thành qua nhiều nghìn năm lịch sử, trước hết ông phải thấu triệt não trạng của dân tộc đó”(18).

• Phong trào Phật giáo năm 1963 mang tinh thần “bất bạo động” đúng nghĩa của Phật giáo. Cuộc đấu tranh đó dã diễn ra qua nhiều năm từ khi chính quyền Ngô Đình Diệm tỏ rõ thái độ kỳ thị đối với Phật giáo. Bằng những phản ứng nhẹ nhàng và khéo léo ở những mức độ khác nhau với mong muốn chính quyền họ Ngô nhận ra sự cần thiết của một chính sách bình đẳng tôn giáo. Sự gia tăng áp bức tôn giáo của họ Ngô đã làm cho phong trào đấu tranh Phật giáo ngày càng có quy mô rộng lớn hơn, mạnh mẽ hơn, và liên tục tấn công vào nền chính trị phản dân tộc, phản nhân văn, làm cho nội bộ chính quyền Sài Gòn ngày càng lục đục, mâu thuẫn sâu sắc. Phong trào Phật giáo đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng miền Nam phát triển. Trong điện chào mừng Đại hội các nhà sư, họp ngày 18.10.1961, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam miền Đông Nam Bộ khẳng định: “Từ 7 năm qua, giới Tăng Ni và Phật tử đã luôn anh dũng xả thân vì nguyện hòa bình, độc lập, thống nhất của nhân dân, đã cùng với tầng lớp đồng bào đấu tranh chống kẻ thù xâm lược là bọn đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm. Nhiều vị đã anh dũng hy sinh. Thành tích đó đã làm rạng rỡ giới Phật giáo và góp phần quan trọng vào việc mở rộng đoàn kết giáo lương, dân tộc, đưa đến sự thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày nay”(19).

Nói như Thiền sư Nhất Hạnh, “Cuộc tranh đấu của lực lượng Phật tử Việt Nam nằm trong cuộc đấu tranh chung của dân tộc để sống còn và vươn lên một thể chế nhân bản tiến bộ. Nó chỉ là một bộ phận của cuộc tranh đấu, một cuộc tranh đấu lớn lao âm thầm của dân tộc để vượt thắng, để thu hóa, để dung hợp, và để tạo nên hòa điệu Việt Nam. Nhận thức rằng những phương tiện tranh chấp máu lửa cần được chấm dứt, lực lượng chủ trì Phật giáo đã khởi xướng phong trào tranh đấu bất bạo động… Cuộc tranh đấu bất bạo động tại Việt Nam không bắt đầu bằng một lý thuyết về bất bạo động mà bằng ý thức về những khổ đau cùng cực do bạo động gây nên”(20). Tìm hiểu phong trào ta thấy tất cả các hình thức đấu tranh đều thể hiện rõ tính chất truyền thống cơ bản của Phật giáo Việt Nam mà mục tiêu hướng tới là xây dựng một nền văn hóa dân tộc, khai phá một đường lối chính trị dân tộc và nhân bản; trực tiếp đặt ra và giải quyết các vấn đề xã hội một cách bức thiết và dấy lên một nền văn học phản chiến mà trong đó ca dao, kinh cầu nguyện, sấm truyền,… được sử dụng một cách phổ biến. Phong trào đã mở rộng liên minh với tất cả các lực lượng dân tộc và hòa bình và phương thức nổi bật là thực hiện bất hợp tác, biểu tình hòa bình, gửi kiến nghị, cạo đầu phản đối chính quyền(21), chặt bàn tay để cảnh báo bạo quyền(22), kêu gọi đoàn kết lương giáo, đem bàn thờ ra đường chặn chiến xa, cao hơn nữa là tổ chức tuyệt thực, đặc biệt là áp dụng phương pháp tự thiêu(23) để cảnh tỉnh nhân tâm, tỏ rõ tinh thần phản kháng.

Cuộc đấu tranh bất bạo động ấy đã làm rung chuyển tận lòng người. Đông đảo người dân miền Nam đã tìm đến với Phật giáo “với ý thức tỏ lòng yêu nước, mến mộ một thứ đạo đã ăn sâu vào tâm linh dân chúng từ bao đời nhờ phẩm chất cao quý đó, thứ phẩm chất kết hợp được Đạo pháp và Dân tộc, kết hợp được cả tình yêu Tổ quốc và lòng thiết tha thương quý đồng bào, đồng loại của mình”(24).

Phong trào Phật giáo năm 1963 khởi phát từ Huế rồi lan ra các đô thị ở miền Nam và tỏa về các vùng nông thôn, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Nó như một đợt sóng cồn có tác dụng nhấn chìm cường quyền và bạo lực. Sức mạnh được tạo nên trong phong trào Phật giáo thời kỳ này là sức mạnh của Phật giáo Việt Nam gần hai nghìn năm cộng lại, nó được hun đúc qua các thời kỳ lịch sử và không chỉ là sự nhập thế đơn thuần của các nhà sư hòa quang đồng trần mà là sự dấn thân vì đại nghĩa. Trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, Phật giáo luôn song hành và có những sáng tạo phù hợp với yêu cầu lịch sử. “Cuộc đấu tranh bất bạo động ở Việt Nam đã thừa hưởng rõ rệt những kinh nghiệm của quá trình đấu tranh và xây dựng đất nước Việt Nam của tiền nhân. Những phương tiện và hình thái tranh đấu biểu lộ được cá tính Việt Nam và mang những giác sắc mới lạ khác hẳn với cuộc tranh đấu bất bạo động do thánh Gandhi lãnh đạo”(25). Có thể thấy rằng, bằng triết lý duyên sinh, đạo Phật đã thể nhập vào triết lý sống của người Việt trong các mối quan hệ, và trong sự gắn bó Đạo pháp – Dân tộc, quá trình hun đúc sức mạnh và bản lĩnh dân tộc cũng chính là quá trình tạo nên sức mạnh truyền thống của Phật giáo Việt Nam. Đến lượt mình, Phật giáo đã góp sức vào cùng dân tộc. Cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm vào ngày 01.11.1963, là kết quả trực tiếp của phong trào Phật giáo và phong trào nhân dân đô thị miền Nam cuối thập niên 50 đầu 60 của thế kỷ trước.

Trước sức mạnh của súng đạn và bạo quyền, Phật giáo miền Nam đã dựa vào sự ủng hộ của dân chúng mà củng cố sức mạnh tinh thần và sẵn sàng “chấp nhận một sự hy sinh đến cùng độ và lấy sự hy sinh ấy làm sức mạnh để rung chuyển tận lòng người chứ không phải rung chuyển chính sách mà thôi”. Và trên thực tế “bất bạo động” đã làm “rung chuyển tận lòng người”. Chính sự “rung chuyển tận lòng người” ấy đã góp một phần rất quan trọng trong việc kết liễu chế độ Ngô Đình Diệm”(26).

3. THAY LỜI KẾT

Xét đến cùng, mọi tôn giáo trên đời cùng gặp nhau ở một điểm: Hướng thiện cho con người, giúp con người thoát khỏi vòng tục lụy của cuộc đời. Song trong quá trình tồn tại, không phải tôn giáo nào cũng giữ được bản lĩnh để thực thi chân lý, mà thường có lúc bị các thế lực cầm quyền lợi dụng để phục vụ cho mục đích chính trị của họ. Phàm mọi thứ trên đời đều có giá của nó. Mỗi khi ai đó đã sử dụng tôn giáo để làm điều bất nhân, bất nghĩa, đi ngược lại tinh thần nhân bản và lợi ích dân tộc, thì phải trả giá đắt. Chính quyền và anh em gia đình Ngô Đình Diệm là một trường hợp điển hình.

Yêu cầu khách quan lịch sử đặt ra cho mỗi tôn giáo là phải “Lợi đạo – Ích đời”, điều này phù hợp với tôn chỉ của mỗi tôn giáo ngay từ khi mới ra đời. Phật giáo Việt Nam đã luôn gắn bó với dân tộc và đã góp phần đưa dân tộc vượt qua nhiều khó khăn thử thách. Ngày nay, Phật giáo Việt Nam tiếp tục khơi thông dòng chảy và truyền thống 2.000 năm qua, để thực hành phương châm sống tốt đạo – đẹp đời.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Phật giáo Việt Nam - Ban Phật học chuyên môn (1995), Thiền học đời Trần, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam,

2. Lê Cung (1996), Phật giáo Việt Nam với Cộng đồng dân tộc, Thành hội Phật giáo Tp. HCM.

3. Lê Cung, Phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963 với cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm (01.11.1963), Chuyên luận số tháng 12.2003.

4. Lê Cung (1999), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam - năm 1963, Nxb. ĐHQG Hà Nội.

5. Lê Cung - Trần Thuận - Hoàng Chí Hiếu (2008), Trần Nhân Tông, cuộc đời và sự nghiệp, Nxb. Thuận Hóa.

6. Trần Bạch Đằng (1986), Mấy vấn đề về nghiên cứu Phật giáo và lịch sử dân tộc. Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Uỷ ban KHXH Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội.

7. Thích Nhất Hạnh, Cuộc tranh đấu bất bạo động tại Việt Nam, 1969.

8. Phan Văn Hoàng, Một tư liệu lịch sử mới được phát hiện: Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi một mục sư Pháp, Hồn Việt.

9. Phạm Kế (1996), Cảm nhận đạo Phật, Nxb. Hà Nội

10. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, Hà Nội.

11. Trần Hồng Liên (2004), Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội.

12. Thích Đức Nhuận, Phật giáo và dòng sử Việt, Phật học viện Quốc tế, California, Hoa Kỳ ấn hành 1998.

13. Những sự kiện lịch sử Đảng, Tập III, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985.

14. Lê Mạnh Thát (CB, 2005), Bồ-tát Thích Quảng Đức – Ngọn lửa và trái tim, Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.

15. Thích Minh Tuệ (1993), Lược sử Phật giáo Việt Nam, Thành hội Phật giáo Tp. HCM.

16. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Triết học (1986), Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Hà Nội.

 


1. Ban Phật giáo Việt Nam - Ban Phật học chuyên môn (1995), Thiền học đời Trần, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, tr. 273.

2. Dẫn theo: Phạm Kế (1996), Cảm nhận đạo Phật, Nxb. Hà Nội, tr. 6.

3. Thích Minh Tuệ (1993), Lược sử Phật giáo Việt Nam, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, tr. 404.

4. Thích Minh Tuệ, Lược sử Phật giáo Việt Nam, Sđd, tr. 417.

5. Trần Hồng Liên (2004), Góp phần tim hiểu Phật giáo Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, tr.15.

6. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.207.

7. Lê Cung (1999), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam - năm 1963, Nxb. ĐHQG Hà Nội, tr.18.

8. Trích theo: Thích Đức Nghiệp. Dẫn theo Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam - năm 1963, Sđd, tr.21.

9. Sau khi 8 Phật tử bị giết hại, tối ngày 8.5.1963 tại Đài phát thanh Huế, và 5 nguyện vọng chính đáng của Phật giáo không được chính quyền Ngô Đình Diệm thỏa thuận, Hòa thượng Thích Quảng Đức, người đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, sau nhiều tuần thiền định để tăng trưởng nội lực, đã tự nguyện hy hiến cuộc đời cho đại nghĩa giữa ngã tư đường Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt Sài Gòn (nay là ngã tư Nguyễn Đình Chiểu - Cách mạng tháng Tám) vào sáng ngày 11.6.1963. Mặc dầu đã được loan báo trước ba ngày, chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn ngoan cố cho rằng đó chỉ là sự đe dọa không thể thực hiện được, nên không cần phải có một sự nhân nhượng nào đối với Phật giáo.

10. Trần Văn Giàu (1996), miền Nam giữ vững thành đồng, Tập II, Nxb. Khoa học, Hà Nội, tr. 342. Dẫn theo Lê Cung, Tlđd.

11. Những sự kiện lịch sử Đảng, Tập III, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985, tr. 268.

12. Jerrold Schecter (1967), The New Face of the Buddhas, John Weatherhill, Tokyo, tr. 197. Dẫn theo Lê Cung, Tlđd.

13. Jerrold Schecter, Sđd, tr. 182. Dẫn theo Lê Cung, Tlđd.

14. Dẫn theo Lê Cung, Tlđd.

15. Phong trào Phật giáo ở miền Nam Việt Nam (tài liệu tham khảo đặc biệt), Sđd, tr. 13.

16. Phong trào Phật giáo ở miền Nam Việt Nam (tài liệu tham khảo đặc biệt), Sđd, tr. 10.

17. Ngày 10.5.1963, cuộc meeting lớn của chư vị Tăng, Ni và toàn thể đồng bào Phật tử Thừa Thiên (Huế) diễn ra tại chùa Từ Đàm. Bản Tuyên ngôn mở đầu cuộc vận động đòi quyền “BÌNH ĐẲNG và TỰ DO TÔN GIÁO” của năm cấp Trị sự Phật giáo toàn quốc – Trung phần và Thừa Thiên được công bố. Nguyên văn bản Tuyên ngôn có đoạn:

“Đã từ nhiều ngàn năm Tăng và tín đồ Phật giáo trên thế giới cũng như trong nước vẫn trung thành với tôn chỉ: Từ bi, Vị Tha và Như Thật của Đức Từ phụ Thích Ca Mâu Ni.

Phật giáo đến đâu đều đem lại một không khí an lành ở đó. Điều ấy lịch sử đã chứng minh.

Và, đã từ nhiều năm nay Phật giáo đồ bị khủng bố, đàn áp khắp nơi, chúng tôi vẫn nhẫn nhục, đương nhiên không phải hèn yếu mà vì ý thức những nỗi đau khổ, tang tóc của hoàn cảnh dân tộc hiện tại. Nhưng đau đớn thay, một số người đã lợi dụng quyền hành gây ra không biết bao nhiêu tang tóc đối với Tăng và tín đồ Phật giáo khắp trong nước, đối xử một cách bất công với một tôn giáo có hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc. Từ hành động này đến hành động khác, thậm chí đã chà đạp lên quyền lợi thiêng liêng nhất của Phật giáo đồ: Cờ Phật giáo quốc tế bị triệt hạ. Quyết định này đã trái hiến pháp và ngang nhiên vi phạm quyền tự do tín ngưỡng. Trước những hành động bất công đó, bắt buộc Tăng và tín đồ khắp trong nước chúng tôi phải đứng dậy tranh đấu cho lý tưởng của mình...”. Nguồn: Thích Đức Nhuận, Phật giáo và dòng sử Việt, Phật học viện Quốc tế California, Hoa Kỳ ấn hành 1998.

18. Phan Văn Hoàng, Một tư liệu lịch sử mới được phát hiện: Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi một mục sư Pháp, Hồn Việt.

19. Hùng Lý (1962), Tôn giáo miền Nam đấu tranh chống Mỹ - Diệm, Nxb. Phổ thông, Hà Nội, tr. 34. Dẫn theo Lê Cung, Phan Văn Hoàng, Phong trào Phật giáo miền Nam đấu tranh chống chính quyền Ngô Đình Diệm trước năm 1963, trong sách Bồ-tát Thích Quảng Đức ngọn lửa và trái tim do Lê Mạnh Thát chủ biên, Nxb. Tổng Hợp Tp. HCM, 2005.

20. Thích Nhất Hạnh, Cuộc tranh đấu bất bạo động tại Việt Nam, 1969, tr. 24 - 25.

21. Trường hợp Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu trong Chính phủ Ngô Đình Diệm đã từ chức và cạo đầu để phản đối bạo quyền. Việc làm này đã mở đầu phong trào với nhiều sinh viên giáo chức làm theo.

22. Năm 1963, nữ sinh Mai Tuyết An chặt bàn tay của mình để cảnh cáo bạo quyền đã làm cho giới trẻ vô cùng xúc động, sau đó phong trào mổ bụng để phản đối chiến tranh diễn ra.

23. Chỉ riêng trong năm 1963 có 8 vị Tăng Ni tự thiêu, mở đầu là Hòa thượng Thích Quảng Đức (ngày 11.6.1963). Từ năm 1965 đến 1975 còn có thêm 23 vị tăng ni tự thiêu để phản đối chiến tranh, cầu nguyện cho hòa bình.

24. Bùi Thị Kim Quỳ, “Một số đặc điểm của Phật giáo trong khung cảnh chính trị và tư tưởng của xã hội miền Nam trong thời kỳ lịch sử 1954 - 1975” trong Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội, 1986, tr.168.

25. Thích Nhất Hạnh, Cuộc tranh đấu bất bạo động tại Việt Nam, Tlđd, tr. 33.

26. Lê Cung (1996), Phật giáo Việt Nam với Cộng đồng dân tộc, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, tr. 19 - 20.

 

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 25
    • Số lượt truy cập : 6783266