Thông tin

TÁC ĐỘNG TỪ PHONG TRÀO

 CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO MIỀN TRUNG

ĐỐI VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG PHẬT GIÁO MIỀN NAM NĂM 1963

 

TS. NGUYỄN TẤT THẮNG
Khoa Lịch sử,
Trường Đại học Sư phạm Huế
DƯƠNG THANH MỪNG
Học viên Cao học, Khoa Lịch sử,
Trường Đại học Sư phạm Huế

 

ĐẶT VẤN ĐỀ

Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963 đã đi vào tâm thức của mỗi người dân Việt như một dấu ấn khó phai mờ. Bằng sức mạnh và tinh thần đại hùng - đại lực - đại từ bi của đạo Phật, phong trào đã góp phần đưa chế độ độc tài Ngô Đình Diệm đi đến sự sụp đổ, tạo đà và lực cho cách mạng Việt Nam tiến lên đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Có được những thành quả nói trên là bởi sự gắn kết của nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Trong đó, phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung diễn ra vào những thập kỷ trước đó được xem là một trong những nhân tố quan trọng góp phần đưa đến sự thành công của phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963.

Trong khuôn khổ của Hội thảo kỷ niệm 50 năm phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam (1963 - 2013), chúng tôi xin được đi sâu phân tích và trình bày những nét cơ bản về những tác động từ phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung đối với cuộc vận động Phật giáo miền Nam năm 1963. Qua đó, góp thêm những cứ liệu nhằm góp phần khỏa lấp những khoảng trống khi nghiên cứu về biến cố Phật giáo tại miền Nam trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

1. Sự hình thành phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung

Vào những năm đầu thế kỷ XX, Phật giáo Việt Nam sau thời kỳ đồng hành cùng dân tộc đã bộc lộ những dấu hiệu của sự khủng hoảng và suy yếu. Do vậy, những người có nhiệt huyết với sự tồn vong của Phật giáo đã đứng ra kêu gọi chấn hưng, cải tạo sơn môn, đào tạo tăng tài, hoằng dương Phật pháp. Có thể nói, phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam nói chung và phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung nói riêng là một trong những hiện tượng nổi bật trong lịch sử tư tưởng dân tộc lúc bấy giờ. Sự xuất hiện của phong trào không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà là một tất yếu lịch sử, bởi nó có những căn nguyên rất rõ nét. Có thể lược kể khái quát một số nguyên nhân chính sau:

Thứ nhất, xét trên bình diện quốc tế, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự giao lưu văn hóa Đông - Tây những năm đầu thế kỷ XX đã làm cho các học giả phương Tây có thêm những điều kiện tiếp xúc sâu hơn với những giá trị cao siêu của Phật giáo. “Sự đối thoại giữa các bộ môn khoa học với tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng đã mở rộng ở tầm mức thế giới. Nằm chung trong cuộc đối thoại học thuật và tư tưởng Đông - Tây, sự cọ xát giữa tôn giáo và triết thuyết lớn phương Đông (chủ yếu là Phật giáo) với các tôn giáo và triết thuyết phương Tây (Công giáo, tư tưởng triết học ánh sáng…) đã khiến Phật giáo có điều kiện để hình thành một nền Phật học mới có thể đáp ứng được trước những tiến bộ xã hội”(1). Từ đó, các học giả phương Tây đã đánh giá cao về Phật giáo và đứng ra kêu gọi bảo vệ và phục hưng những giá trị của Phật giáo. Bên cạnh đó, ở nhiều nước khác trong và ngoài khu vực, thực trạng Phật giáo suy vi cũng diễn ra tương tự như ở nước ta. Cuộc vận động chấn hưng Phật giáo diễn ra tại Ấn Độ, Tích Lan, Nhật Bản và nhất là tại Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XX đã tác động mạnh mẽ đến sự thức tỉnh của Phật giáo Việt Nam.

Thứ hai, ở trong nước, sự khủng hoảng và suy yếu của Phật giáo Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, thực sự là một mối đau nhức nhối của các bậc Tăng hạnh. Làm thế nào để kết hợp các chư sơn, tự tăng lại với nhau; làm thế nào để xiển dương những giá trị Phật giáo đã và đang dần bị mai một là câu hỏi lớn lúc bấy giờ. Thứ nữa, quá trình xâm lược của thực dân Pháp cùng với sự du nhập của đạo Thiên Chúa và sự hình thành các các giáo phái mới cũng tạo nên những sức ép lớn đối với sự tồn vong của Phật giáo trong lòng dân tộc. Phong trào cách mạng theo ý thức hệ phong kiến và phong trào cách mạng theo ý thức hệ tư sản bùng nổ rồi lần lượt bị thất bại nhưng nó đã có những tác động mạnh mẽ đến Phật giáo Việt Nam lúc này. Các luồng tư tưởng mới từ bên ngoài dội vào đã mang đến một làn gió mới trong nhận thức của giới sĩ phu cũng như các bậc tôn túc Phật giáo. Đây chính là thời điểm quan trọng cho sự khởi phát của phong trào chấn hưng Phật giáo.

Thứ ba, về phía Phật giáo ở miền Trung lúc này cũng mang trong mình những nguyên nhân nội tại của nó. Theo Nguyệt san Viên Âm - cơ quan hoằng dương Phật pháp của Hội An Nam Phật học trong phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung đã nêu lên những lý do sau:

Một là, sự sụp đổ của niềm tin quốc dân nơi những giá trị cổ truyền do ý thức hệ Nho giáo đại diện đã tạo nên một hoang mang lớn. Văn hóa cũ đã suy sụp mà văn hóa mới chưa được hình thành dù đã gần 50 năm tiếp xúc với Tây phương. Đạo Phật lại rất thích hợp với tinh thần và ước vọng của người Việt, lại có tính cách dung hợp cởi mở, có thể đóng vai trò dung hòa cũ mới (bảo tồn những giá trị cũ và tiếp thu những giá trị mới). Vì vậy xướng minh đạo Phật tức là xây dựng nền tảng cho một nền văn hóa dân tộc vừa tiến bộ vừa không mất gốc.

Hai là, nền tảng văn hóa ấy được xây dựng sẽ khẳng định bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam, đủ tiêu chuẩn và khả năng hấp thụ văn hóa Tây phương mà không bị đồng hóa, phân biệt được những gì thích hợp và có lợi cho dân tộc, và những gì trái chống với sự tồn tại và phát triển của quốc gia, nói một cách khác có thể phân biệt được chính tà trong quá trình tiếp nhận và hình thành văn hóa mới.

Ba là, tinh thần Phật giáo rất thích hợp với tinh thần khoa học và tinh thần tự lực tự cường. Khoa học tiếp thu được của Tây phương nếu đi đôi với đạo học Phật giáo thì mới tránh được sự tác hại trong khi sử dụng.

Bốn là, hình thức tôn giáo lễ nghi của Phật giáo lâu nay lưu hành chỉ là một phần phương tiện nhỏ bé của Phật giáo, và phần này không thích hợp với những con người chuộng lý trí và khoa học. Vậy nên sự phát huy giáo nghĩa cao sâu của Phật giáo để trình bày một nền Phật giáo tân tiến, sống động đáp ứng được nhu cầu của những thế hệ mới là điều cần thiết.(2)

Chính từ những nguyên nhân trên đây đã dẫn đến sự khởi phát của phong trào chấn hưng Phật giáo tại miền Trung trong những năm đầu thế kỷ XX. Phong trào bắt đầu với việc thành lập Hội An Nam Phật học (1932) và xuất bản Nguyệt san Viên Âm (1933) làm cơ quan hoằng pháp. Nguyệt san Viên Âm số 2 năm 1934 có đoạn viết: “Vì những lẽ đó mà trong vài ba năm trở lại, trên mặt báo chương, nào là xương minh Phật học, nào là chấn chỉnh tăng già, ngoài Bắc, trong Nam đứng lên một lượt hô hào xem có chiều hăng hái. Ở Trung Kỳ xứ ta, so với Nam - Bắc hai kỳ, mọi điều còn thua kém mà cũng đồng thời lập thành Phật học Hội ở Kinh đô, dùng Quốc âm mà giảng diễn giáo lí của đạo Phật, ngày nay lại xuất bản Nguyệt san Viên Âm đặng hoằng tuyên Phật pháp”(3). Trong bối cảnh Phật giáo Việt Nam đang có những dấu hiệu tụt dốc, phong trào chấn hưng Phật giáo tại miền Trung đã góp phần tạo dựng hướng đi mới. Đồng thời, bằng những nỗ lực của mình, phong trào đã tạo nên những phương tiện và tiền đề cần thiết cho sự phát triển của Phật giáo trong những giai đoạn tiếp theo mà nhất là sự đứng vững của Phật giáo trước pháp nạn năm 1963.

2. Tác động từ phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung đối với cuộc vận động Phật giáo năm 1963

Không phải ngẫu nhiên mà Huế hay miền Trung lại chính là nơi mở đầu cho phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963. Cũng không phải là ngẫu nhiên khi Huế hay miền Trung lại đóng vai trò là một trong những trung tâm chính của phong trào Phật giáo năm 1963. Những thành quả này có được là nhờ sự hậu thuẫn của phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung và Việt Nam được hình thành và phát triển trong những thập niên trước đó. Có thể nói, phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung đã có những tác động không nhỏ đối với sự hình thành và phát triển của cuộc vận động Phật giáo miền Nam năm 1963.

Thứ nhất, phong trào đã góp phần đưa Phật giáo Việt Nam đi đến con đường thống nhất. Qua đó tạo nên nguồn sức mạnh tổng hợp về vật chất lẫn tinh thần giúp cuộc vận động Phật giáo miền Nam năm 1963 thu được nhiều thắng lợi quan trọng.

Thứ hai, phong trào đã góp phần vào việc hình thành, xây dựng và thống nhất các đoàn thể các cấp, từ đó tạo đà và lực cho phong trào Phật giáo miền Nam tiến lên lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm cùng chính sách kì thị và đàn áp Phật giáo của gia đình họ Ngô.

Thứ ba, qua phong trào, hình thành đội ngũ cán bộ lãnh đạo làm nòng cốt cho cuộc vận động Phật giáo miền Nam.

2.1. Thống nhất Phật giáo Việt Nam - tạo nguồn sức mạnh cho phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963

Ý tưởng thống nhất Phật giáo Việt Nam được đặt ra từ những năm đầu của thế kỷ XX. Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau nên ý tưởng này vẫn chưa nhận được sự đồng thuận của các bậc Tăng, Ni trên toàn quốc. Phong trào chấn hưng Phật giáo khởi phát khắp 3 miền Nam - Trung - Bắc tiếp theo sau ý tưởng thống nhất Phật giáo đã tạo nên những tiền đề quan trọng cho quá trình tiến tới thống nhất Phật giáo trong toàn quốc.

Tại miền Trung, trong giai đoạn chấn hưng Phật giáo đã hình thành nên 3 tổ chức giáo hội: Thứ nhất là Hội An Nam Phật học ở Huế (1932) gắn liền với vai trò của Thiền sư Giác Tiên và Cư sĩ Lê Đình Thám. Thứ hai là Hội Phật học Bình Định (1934) trụ sở đặt tại chùa Thập Tháp và sự ra đời của hội gắn liền với vai trò của các vị Hòa thượng như Phước Huệ, Phổ Huệ, Trí Độ, Pháp sư Bích Liên Tôn. Thứ ba là Hội Phật học Đà Thành tại Đà Nẵng (1937). Sự hình thành những tổ chức Giáo hội Phật giáo ở những thời điểm khác nhau đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phong trào tiến lên một bước mới. Sự xuất hiện của các Hội Phật giáo này không phải là sự chia rẽ hay thiếu đoàn kết của phong trào mà đó chính là một dạng biến thể của Hội An Nam Phật học ở những giai đoạn nhất định nhằm thúc đẩy phong trào chấn hưng đi vào chiều sâu và thu được nhiều kết quả. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng giúp cho phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung đạt được nhiều kết quả so với phong trào ở 2 miền Bắc và Nam. Có thể nói, Hội Phật học Bình Định hay Hội Phật học Đà Thành được hình thành đều bắt nguồn từ mô hình của Hội An Nam Phật học và mục đích cuối cùng của các Hội là đều nhằm hoằng dương Phật pháp, đoàn kết Tăng Ni ba miền, tiến tới thành lập một Giáo hội Phật giáo thống nhất trong toàn quốc. Điều đáng nói là, trong quá trình tiến tới thống nhất Phật giáo, Hội An Nam Phật học là Hội có sức ảnh hưởng lớn nhất. Do vậy, chúng tôi xin được tập trung đi sâu phân tích một số đặc điểm của Hội này.

Về thành phần tham gia, có 3 thành phần chính: Thứ nhất là những người tân học, có bằng cấp cao về Tây học và Hán học. Họ là những vị quan lại giữ chức cao trong triều đình, nhưng đã về trí sĩ như Nguyễn Đình Hòe, Nguyễn Khoa Tân, Phạm Quỳnh hay trong hoàng tộc như Ưng Bình, Viễn Đệ, các trí thức như Lê Thanh Cảnh, Lê Đình Thám, Trương Xướng, Nguyễn Khoa Toàn và một số phụ nữ như Cao Xuân Xang, Công Tôn Nữ Thị Bân, Hồ Thị Thể Anh… Đây là những người học kinh, giảng pháp theo phương pháp mới, chủ trương chấn hưng Phật giáo cho phù hợp với thời đại. Thứ hai là những nhà nho danh tiếng, trong đó có người đỗ đại khoa như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, và một số nhà văn như Phan Khôi, nữ sĩ Đạm Phương. Đây còn là những nhà hoạt động chính trị xã hội. Họ hiểu Phật giáo là một thành phần cốt lõi của văn hóa dân tộc và chủ trương chấn hưng Phật giáo để củng cố tinh thần dân tộc. Thứ ba và cũng là thành phần quan trọng nhất trong công cuộc chấn hưng Phật giáo ở miền Trung là giới Tăng sĩ. Dưới sự vận động của Thiền sư Giác Tiên, các Tăng sĩ có tâm huyết với sự tồn vong của Phật giáo như Thiền sư Phước Hậu, Tịnh Hạnh, Mật Khế, Mật Nguyện, Mật Thể, Trí Thủ, Đôn Hậu,… đã tích cực chung tay xây dựng và phát triển Hội An Nam Phật học.

Mục đích và tôn chỉ thành lập của Hội nhằm: “Thiệt hành và truyền bá đạo Phật. Trong hội quán, không được luận bàn về chính trị và công kích các tôn giáo đã có chỗ đứng trong bản xứ”(4). Mặt khác, “làm hậu thuẫn để chấn hưng và duy trì phát triển Phật giáo, làm việc hữu ích và thống nhất đạo pháp. Bảo trì các vị tăng già có giới hạnh, có khả năng hướng dẫn Phật tử, nhất là những người có chí nguyện với công đức Phật sự. Hướng dẫn, giải thích giáo lí Phật giáo, những nếp sống đạo vị, lòng tâm thành hướng thiện. Hướng dẫn giúp nhau đào tạo, tu dưỡng chính bản thân một cách xứng đáng, thực hiện trong gia tộc và xã hội, tạo niềm tin vào đạo hạnh của Phật giáo. Công bố và hoạt động cho lí tưởng từ bi, chống thù hận, chia rẽ và gây chiến tranh”(5).

Về cơ cấu tổ chức, đứng đầu Hội là Ban Trị sự gồm có 2 người Chánh và Phó Hội trưởng, tiếp đến là hai người Chánh - Phó Thư ký, Chánh - Phó Thủ quỹ, ba người kiểm soát viên và cuối cùng là hai cố vấn. Toàn Ban Trị sự gồm có 11 người đều do các cư sĩ đảm nhiệm. Hội An Nam Phật học lại thỉnh các vị Thiền sư đức cao, vọng trọng để lập nên Ban Chứng minh Đạo sư cho Hội. Đồng thời, thỉnh các Tăng, Ni có nhiệt tâm chấn hưng Phật giáo vào Ban giảng sư.

Về cách thức tổ chức, trên hết là Hội An Nam Phật học, Hội quán đóng ở chùa Từ Đàm, Huế. Dưới Hội là Tỉnh hội, dưới nữa là cấp huyện thì có các Chi hội, mỗi chi hội gồm nhiều Khuôn hội tại các làng xã và cuối cùng là các Vức. Mỗi Vức đều sinh hoạt tại các Khuôn hội của mình. Đứng đầu mỗi Khuôn hội là Khuôn trưởng và Ban Trị sự của Khuôn gọi là Tịnh Độ. Hội viên của Khuôn hội có cả nam lẫn nữ và không kể về mặt tuổi tác. Riêng ở Huế “từ năm 1933 đến năm 1935 đã có 5 Khuôn hội là Bến Ngự, Cầu Đất, Đập Đá, Phường Đúc, Diệu Đế. Đến khoảng từ năm 1941 - 1942 thì Khuôn hội đã có mặt khắp các làng xã”(6).

Xét từ cơ cấu đến cách thức tổ chức có thể nói rằng, Hội An Nam Phật học là “một dạng nguyên thủy của một Giáo hội Phật giáo có quy mô toàn quốc”(7). Nếu như ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ, cơ cấu tổ chức các Hội Phật giáo chỉ bao gồm 2 cấp là Trung ương Hội và Ban Đại lý Hội thì ở Trung Kỳ đã hình thành cơ cấu tổ chức gồm 6 cấp là Trung ương Hội, Tỉnh hội, Huyện hội, Chi hội, Khuôn hội và Vức. Với cơ cấu tổ chức này cho phép Hội An Nam Phật học tạo nên những mối quan hệ hành chính đạo chặt chẽ giữa các cấp, giữa các Tăng tín đồ Phật giáo với quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, nếu như ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ chúng ta không thấy sự hình thành tổ chức theo cơ cấu dọc, thì ở An Nam Phật học Hội đã có sự tổ chức chặt chẽ theo cơ chế hàng dọc từ trung ương xuống đến địa phương và ngược lại. Tính chính đáng của Hội càng thêm khẳng định khi mô hình tổ chức của Hội chính thức được chính quyền trung ương phê chuẩn và cho phép hoạt động. Nguyệt san Viên Âm số 12 năm 1935 đã viết: “Sự thể càng thêm khẳng định khi chúng ta biết mô hình tổ chức này lại được chính nhà vua phê chuẩn, cho thấy tính chính đáng và hợp pháp của An Nam Phật học Hội trên dải đất miền Trung do triều đình Huế cai quản”(8). Tiếng vang của Hội chắc chắn là một nguồn động lực mạnh mẽ để Phật giáo tiến thêm trên con đường chấn hưng trong phạm vi toàn quốc.

Cùng với sự ra đời của những tổ chức cơ sở của một Giáo hội trong tương lai, chúng ta đã chứng kiến một loại hình Giáo hội hoàn toàn mới ra đời vào năm 1932 là An Nam Phật học Hội. Trước đó năm 1931, Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội ra đời, song tổ chức này không thể làm hình mẫu cho một Giáo hội trong tương lai. Muộn hơn, vào năm 1935, ở ngoài Bắc cũng hình thành Bắc Kỳ Phật giáo Hội, nhưng tổ chức này cũng không thể có được một mô hình tổ chức nào khả dĩ làm mẫu cho một Giáo hội mới. Vì vậy, “có thể xem An Nam Phật học Hội là hình mẫu của một Giáo hội toàn quốc vào năm 1951, khi Tăng già và cư sĩ của sáu tổ chức Phật giáo tiến hành đại hội thống nhất lần thứ nhất tại chùa Từ Đàm (Huế)”(9).

Từ năm 1950, sự phát triển của phong trào chấn hưng Phật giáo trên cả 3 miền đất nước đã đặt ra yêu cầu bức thiết phải thống nhất Phật giáo trong toàn quốc. Báo chí ở Bắc - Trung - Nam đều đăng tải nhiều bài viết nói lên nguyện vọng thống nhất của Phật giáo đồ trong cả nước. Ở miền Bắc, Hòa thượng Tố Liên trong một bài viết giải thích về lý do thành lập Giáo hội Tăng già Bắc Việt đã nói lên ý muốn thống nhất: “Ta phải tuân theo mục đích của Hội Phật giáo quốc tế là thống nhất lực lượng Phật giáo, theo đà tiến triển thì phải thống nhất lực lượng từng xứ sở rồi đi đến thống nhất Phật giáo toàn quốc để gia nhập cơ quan thống nhất Phật giáo quốc tế”(10). Ở trong Nam, Cư sĩ Nguyễn Văn Khỏe, Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt gửi thư tới Phật tử trong cả nước bày tỏ nguyện vọng thống nhất Phật giáo. Bức thư có đoạn viết: “Ở Bắc cũng như ở Trung, công cuộc hoằng pháp lợi sinh trong vòng 4 - 5 năm dù gặp phải cảnh khó đã và đang mãnh tiến rất có quy củ. Nội việc Hội Phật giáo Bắc Việt thành lập được trường Bảo trợ giáo dục nhi đồng, thâu thập, nuôi dưỡng, dạy nghề cho một số trẻ em lúc đầu vài chục, nay đến non 200 đủ chứng minh hễ muốn là làm được. Đề xướng việc lập Hội Phật học chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc - Trung - Nam sẽ bắt tay nhau thành một khối phát triển quảng đại và thống nhất trên nguyên tắc cũng như trong hành động”(11). Tại miền Trung, Hòa thượng Thích Trí Quang trong một bài viết Hãy bước tới Phật giáo toàn quốc đã nói lên ý nguyện thống nhất Phật giáo đồ miền Trung: “Phải bước tới Phật giáo toàn quốc, thống nhất Phật giáo, đấy là nguyện vọng từ lâu, nguyện vọng duy nhất của toàn thể Phật tử xuất gia cũng như Phật tử tại gia… Nguyện vọng thống nhất có từ lâu và là nguyện vọng duy nhất, nguyện vọng thiết tha của Phật tử”(12).

Trước yêu cầu của đông đảo Tăng - tín đồ Phật giáo, ngày 6/5/1951, Hội nghị Phật giáo thống nhất toàn quốc Việt Nam đã long trọng khai mạc tại chùa Từ Đàm (Huế), với sự tham dự của 51 vị đại biểu đại diện cho Phật giáo đồ trên khắp cả nước. Hội nghị đã nhất trí bản Điều lệ và Nội quy của Hội, bầu ra một Ban Trị sự với nhiệm kì ba năm. Hòa thượng Thích Tịnh Khiết được suy tôn làm Hội chủ, Thượng tọa Thích Trí Hải làm Phó Hội chủ. Hội lấy tên là Tổng hội Phật giáo Việt Nam, trụ sở đặt tại Huế và lấy ngày Phật đản hàng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam.

Sự ra đời của Tổng hội Phật giáo Việt Nam năm 1951 là đỉnh cao và là sự kết thúc giai đoạn một (1920-1951) trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam thế kỷ XX, mở ra một thời kì mới - thời kì mà Phật giáo Việt Nam có sự chuyển hóa về chất trong cuộc tranh đấu chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm và bảo vệ sự vẹn toàn của Đạo pháp. Mặc dù, sự thống nhất Phật giáo lần thứ nhất này còn có nhiều hạn chế, song nó đã thực sự tạo nên những nguồn sức mạnh vô cùng lớn lao cho cuộc đấu tranh của Tăng tín đồ Phật tử sau này. Sau gần 20 thế kỷ du nhập và đồng hành cùng dân tộc, đây là lần đầu tiên Phật giáo đồ trong cả nước có chung một mái ấm thực sự và cùng nhau thể hiện những khát vọng của mình. Điều quan trọng hơn là chính từ mái ấm này, đã tạo nên sức mạnh đoàn kết cho Phật giáo Việt Nam vượt qua pháp nạn năm 1963, tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong lòng dân tộc.

2.2. Hình thành và xây dựng các tổ chức đoàn thể các cấp - tạo đà và lực cho phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963

Theo trình tự của thời gian, các đoàn thể Phật giáo miền Trung đã được tập hợp dưới một tổ chức thống nhất với tên gọi là Gia đình Phật tử. Tiền thân của nó chính là từ những Ban Đồng Ấu được hình thành từ năm 1935. Bước vào những năm 40 của thế kỷ XX, chính sách đánh lạc hướng thanh niên vào những giấc mộng ru êm của thực dân Pháp được tiến hành đến mức độ tinh vi và có hiệu quả mạnh. Văn chương lãng mạn của Tự Lực Văn Đoàn với hàng trăm cuốn tiểu thuyết, được thanh niên nam nữ say mê đọc đến quên ăn, quên ngủ, nền tảng đạo đức gia đình truyền thống bị rạn nứt. Bên cạnh đó, thực dân Pháp lại tiến hành các hoạt động như Phong trào Hướng Đạo đoàn, Phong trào Quốc Anh đoàn, trong tất cả các trường học, hướng giới thanh niên vào con đường tài hoa son trẻ để lãng quên bổn phận và nghĩa vụ đối với dân tộc, với tổ quốc. Văn hóa, tôn giáo, đời sống thôn quê hầu như bị thế lực ngoại bang thống trị bóp nghẹt. Trong hoàn cảnh đó, một nhóm thanh niên khoảng 12 người, xuất phát từ các gia đình Phật giáo truyền thống đã cùng nhau lập “Đoàn thanh niên Phật học Đức Dục” dưới sự dẫn dắt của Cư sĩ Lê Đình Thám và dưới sự bảo trợ của Hội An Nam Phật học. Mục đích của Đoàn là “tập hợp đội ngũ thanh niên trí thức nghiên cứu Phật giáo với tinh thần mới có tính chất tổng hợp và so sánh; nhận định tư tưởng Phật giáo dưới ảnh hưởng của nền khoa học và tư tưởng hiện đại; mở các lớp triết học, so sánh nghiên cứu ba tôn giáo Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo dành cho các thanh niên Tân học; dùng các hình thức phổ biến như báo chí, sách truyện tiến đến thành lập các đoàn thể thanh niên Phật giáo”(13).

Đến năm 1947, Tổng Trị sự Hội An Nam Phật học quyết định cải tổ chương trình tu học, hợp nhất các tổ chức trên thành một tổ chức thống nhất lấy tên gọi là Gia đình Phật hóa phổ. Mục đích của Gia đình Phật hóa phổ là “đào tạo những Phật tử chân chính và xây dựng hạnh phúc trên nền luân lí đạo Phật, với châm ngôn là Hòa thuận - Tin yêu - Vui vẻ”(14).

Nhìn chung, do những người sáng lập là các thanh niên trí thức có tinh thần yêu nước, nên các hoạt động của hai tổ chức trên ít nhiều mang màu sắc dân tộc, đạo đức, truyền thống; phản ứng lại tinh thần nô dịch, ngoại lai và trụy lạc trong xã hội đương thời. Nội dung hoạt động của Gia đình Phật hóa phổ chủ yếu tập trung vào “Đức dục” và “Trí dục” cho thanh thiếu niên theo tinh thần Phật giáo được chấn hưng và cải cách.

Từ miền Trung, Gia đình Phật hóa phổ đã phát triển ra các vùng miền trên khắp cả nước. Ở miền Nam, cư sĩ Nguyễn Văn Thục đã thành lập Gia đình Phật hóa phổ Chân Tri Sài Gòn tại chùa Sùng Đức. Năm 1950, Gia đình Phật hóa phổ Chân Tri đã dời về chùa Phật Quang (Sài Gòn) và đổi danh hiệu là Gia đình Phật hóa phổ Chánh Giác. Ở miền Bắc, Gia đình Phật hóa phổ Minh Tâm đã được thành lập ở Hà Nội vào năm 1950. Cũng trong khoảng thời gian này, một số Gia đình Phật hóa phổ khác được thành lập ở miền Bắc như Thiên Tuệ, Liên Hoa, Phổ Quang, Minh Đạo, Từ Quang… Sự phát triển mạnh mẽ của các Gia đình Phật hóa phổ đã đặt ra yêu cầu về sự hợp nhất nhằm thống nhất về cách thức tu học, sinh hoạt cũng như đường lối hoạt động. Đến tháng 4 năm 1951, cùng với sự kiện thống nhất Phật giáo trong toàn quốc, Ban lãnh đạo Phật giáo Việt Nam đã triệu tập Đại hội Huynh trưởng Gia đình Phật hóa phổ toàn quốc tại chùa Từ Đàm (Huế), gồm đại biểu của 8 tỉnh miền Trung và đại diện của các Gia đình Phật hóa phổ ở hai miền Nam - Bắc. Mục đích của Đại hội là báo cáo về tình hình sinh hoạt, phát triển của Gia đình Phật hóa phổ tại các vùng miền, trao đổi kinh nghiệm xây dựng Gia đình Phật hóa phổ, thảo luận nội quy và vấn đề tên gọi… Tại đại hội này, tên gọi của Gia đình Phật hóa phổ được đổi thành Gia đình Phật tử Việt Nam. Đồng thời, Đại hội cũng đã thống nhất bản nội quy Gia đình Phật tử nhằm: “Huấn luyện thanh thiếu và đồng niên Phật tử về phương diện trí dục, đức dục và thể dục trên nền tảng Phật giáo, để đào tạo những Phật tử chân chính”(15).

Đại hội Huynh trưởng đánh dấu một bước phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng của Gia đình Phật tử. Với sự phát triển đáng kể như vậy, Gia đình Phật tử đã trở thành một lực lượng quan trọng trong phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam chống chính sách kì thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Đoàn sinh của những Gia đình Phật tử đã tham gia tích cực vào các cuộc biểu tình của Phật tử lúc này. “Họ thường là lực lượng mũi nhọn đi đầu cầm Phật kì, trướng, biểu ngữ trong các cuộc biểu tình đó. Do vậy, khi bị quân đội của chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp, họ là những người bị thương vong trước tiên”(16). “Cuộc đàn áp đẫm máu của chính quyền Ngô Đình Diệm làm nhiều người bị thương đêm 8/5/1963 ở Đài phát thanh Huế, trong đó có một thanh nữ 20 tuổi, số còn lại gồm 2 nam và 5 nữ ở lứa tuổi thiếu niên… không hề làm lung lay ý chí đấu tranh của Tăng Ni, tín đồ Phật tử”(17). Sau sự kiện này, tổ chức sinh viên Phật tử Sài Gòn ở các nơi liên tiếp ra lời hiệu triệu cho học sinh, sinh viên đứng lên đấu tranh. Đoàn Sinh viên Phật tử đã ra lời hiệu triệu: “Chúng ta, toàn thể sinh viên và học sinh Phật tử không thể làm ngơ trước tình thế gay go này, cũng không thể ngồi yên nhìn các Tăng Ni tự thiêu để rồi mất xác vào tay chính quyền”(18). Hưởng ứng lời kêu gọi trên, hàng ngàn sinh viên Phật tử Huế đã tham gia biểu tình, tuyệt thực “thề nguyện đem tính mạng của mình để hiến cho 5 nguyện vọng của Phật giáo liên hệ đến lí tưởng tự do, bình đẳng”(19). Phong trào tranh đấu của học sinh, sinh viên Phật tử cũng như sự lãnh đạo tối cao từ các vị Tăng Ni, cư sĩ của Gia đình Phật tử đã góp phần vào việc làm suy yếu và sụp đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, từng bước đánh bại bọn xâm lược và tay sai, biểu hiện ý thức dân tộc, lòng yêu nước của đông đảo Tăng, tín đồ Phật giáo. Chính chính sách kì thị, phân biệt tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm “đã tạo điều kiện cho Gia đình Phật tử Phát triển, thu hút đông đảo thanh thiếu niên tham gia và là lực lượng đi đầu trong các cuộc đấu tranh bảo vệ Phật giáo, chống chế độ độc tài gia đình trị, chống bạo quyền, chống chiến tranh phi nghĩa”(20).

Cách thức tổ chức Gia đình Phật tử hết sức chặt chẽ; đường hướng giáo dục thanh thiếu niên mang những sắc thái độc đáo, phương pháp giáo dục linh hoạt, hợp với từng lứa tuổi; phối hợp nhiều môn học khác nhau… Tất cả đều được xây dựng trên nền tảng và tinh thần Phật giáo. Qua đó, góp phần đào tạo ra hàng vạn thanh niên nam nữ mục đích và lí tưởng sống cao đẹp - đó chính là sự kết hợp hài hòa giữa đạo và đời, giữa Phật pháp và xã hội, giữa tự do tín ngưỡng với độc lập và khát vọng độc lập, thống nhất. Chính vì vậy, Gia đình Phật tử đã sớm trở thành nơi hội tụ của nhiều thanh niên và trí thức có tâm huyết với sự tồn vong của đạo pháp và dân tộc. Cần phải nói thêm rằng, giới lãnh đạo phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung đã sớm nắm bắt được xu thế và yêu cầu của thời cuộc. Bởi vì, chấn hưng Phật giáo không những chỉ dừng lại ở việc chỉnh đốn tăng hạnh của các bậc Tăng già, xiển dương các giá trị Phật giáo hay là đào tạo tăng tài mà nó còn phải làm mới các giá trị Phật giáo, làm cho Phật giáo ngày càng trở nên phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại. Ngay từ những ngày đầu của phong trào, Ban lãnh đạo Phật giáo miền Trung đã tích cực chú trọng đến việc giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ - là thế hệ ươm mầm cho sự phát triển của Phật giáo sau này và xem đây là một hoạt động trọng tâm. Do vậy, đến khi các tổ chức đoàn thể thống nhất với tên gọi là Gia đình Phật tử, Phật giáo miền Trung đã đóng góp một lực lượng khá đông đảo những thành phần làm trụ cột cho các hoạt động của Gia đình Phật tử trên khắp cả nước, đặc biệt là đối với phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963 đại đa số thành phần tham gia phong trào đều là quần chúng Tăng Ni, Phật tử tươi trẻ.

2.3. Đào tạo Tăng Ni làm trụ cột cho phong trào Phật giáo năm 1963

Một cơ thể Phật giáo khỏe mạnh sẽ cho phép cơ thể đó chống lại được nhiều yếu tố khách quan từ bên ngoài tác động vào. Hẳn nhiên, khi sức đề kháng của cơ thể bị suy giảm nó sẽ kéo theo sự xuống cấp của nhiều bộ phận trong cơ thể ấy. Vào những năm đầu thế kỷ XX, cũng như thực trạng chung của Phật giáo trên toàn quốc, Phật giáo miền Trung đã bộc lộ những dấu hiệu của sự suy yếu. Đó là tình trạng “tăng đồ trong nước dần dần sa vào con đường trụy lạc, cờ bạc, rượu chè, đắm trước thanh sắc”(21). Số lượng Tăng sĩ thiếu học vấn cũng như khá đông các vị thầy chùa, tức là thành phần mang áo Tăng sĩ nhưng lại chuyên đi cúng trong dân gian bất kể cúng gì: Đám ma, đám chay, cầu an, cúng dường sao giải hạn… Chính hai thành phần trên cũng tự họ xa rời và làm cho dân chúng xa rời các bậc chân truyền Chánh pháp, làm mất uy tín của Phật giáo trong nhân dân. Sự kiện này làm cho những người nhìn xa trông rộng lo âu. Làm thế nào để kết hợp “chư sơn Tự Tăng” (chỉ các vị xuất gia ở chùa) lại với nhau để có một đường lối phát triển Phật giáo đúng đắn, hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại, thứ nữa là phải giải quyết nạn thất học trong Tăng giới, nhằm đào tạo một lớp sư tăng trẻ tuổi để những người này trở thành thông kinh điển nhà Phật. Trước năm 1920 ở miền Trung cũng như trong toàn quốc chưa có cơ sở đào tạo chính thức về Phật học. Mãi đến khi Hội An Nam Phật học ra đời, các Phật học đường mới tuần tự được thành lập. Các Phật học đường mở ra nhằm đào tạo Tăng Ni có tài năng, đức độ làm nòng cốt cho tiến trình phát triển của Phật giáo ở miền Trung nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung trong giai đoạn chấn hưng cũng như sau này.

Hình thức đào tạo tăng tài đầu tiên làm nền tảng cho sự ra đời của các Phật học đường đó là các “Đạo tràng” do các ngài Huệ Pháp, Tâm Tịnh… tổ chức. “Cứ vào mùa hạ, vị hòa thượng ở chùa tập trung một số đệ tử giảng Kinh - Luận - Luật bằng Hán văn ghi chép rất đơn giản. Bàn ghế ngồi không cần thiết, ngồi ở bàn, ở giường và thậm chí ngồi trên nền. Dẫu sao người học hiểu được và hành trì tu chứng thăng tiến là tốt”(22). Hình thức thứ hai là “Sơn môn học đường” do Đại sư Giác Tiên tổ chức tại chùa Trúc Lâm (Huế). Các Thiền sư Mật Khế, Mật Nguyện, Mật Thể, Mật Hiển, Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám là những người có vai trò to lớn đối với phong trào chấn hưng Phật giáo sau này đã theo học ngay từ những khóa đầu tiên.

Năm 1933, Thiền sư Giác Tiên cùng đệ tử là Mật Khế đã khai giảng lớp học “An Nam Phật học đường” đầu tiên tại chùa Vạn Phước (Huế), nhận 50 Tăng sinh chưa thọ Sa-di giới vào học. Đến năm 1935, lớp học thứ hai do Thiền sư Giác Tiên và Mật Khế tổ chức tại chùa Trúc Lâm (Huế). Chương trình học được hoạch định làm hai cấp là tiểu học và đại học. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, học tăng thụ Sa-di giới và đủ điều kiện học lên đại học. Tốt nghiệp đại học, học tăng được thụ Tì-khưu giới. Sau khi học xong đại học, học tăng có thể ở lại trường ghi tên vào lớp Tham cứu, lớp học này cũng được tổ chức trong vòng 5 năm. “Điểm tích cực của chương trình này là xây dựng một chương trình đào tạo tăng tài rõ ràng với hai cấp học cho mỗi học tăng, số lượng học phần cụ thể cho mỗi năm, số lượng năm học cho mỗi cấp. Tuy nhiên, hạn chế của chương trình này là chương trình học quá nặng và còn nhiều chỗ chưa hợp lí”(23).

Đến năm 1944, một chương trình học mới được xây dựng thành 3 cấp sơ đẳng, trung đẳng và cao đẳng. So với chương trình học được hoạch định vào năm 1934, chương trình học lần này thực tế hơn và đã có bổ sung một số tác phẩm mới như những sách giảng lục của Thiền sư Thái Hư và Đại Viên. Đồng thời, để được vào học, học tăng phải trải qua một kì khảo thí với trình độ căn bản là: Đậu sơ học Pháp - Việt; biết đọc và biết viết chữ Hán; thông thạo chữ Quốc ngữ, có thể dịch một bài kinh luận từ chữ Hán ra chữ Quốc ngữ và một vài câu Quốc văn ra chữ Hán.

Song song với việc hoạch định chương trình học tập, Hội An Nam Phật học tích cực khuyến khích mở các Phật học đường tại các cấp cơ sở. Đồng thời, Hội còn ban hành những chỉ dẫn cụ thể về thể thức thành lập Phật học đường: Về mặt tài chính, cần có từ 100 đến 150 đồng để làm phương tiện chuẩn bị cư xá cho học tăng và lộ phí cho giảng sư. Vì vậy, Hội An Nam Phật học kêu gọi các tín đồ hữu tâm mỗi người bảo trợ một hoặc hai học tăng từ 10 đến 15 năm, mỗi năm đóng góp 3 đồng cho các học tăng. Nếu thiếu phương tiện thì hai hoặc ba người hợp tác để bảo trợ một học tăng. Sau khi đủ 40 học tăng thì có thể mở lớp học. Đối với trường học, chọn chùa rộng rãi, khí hậu tốt không sinh bệnh, các Tăng sĩ cư trú nổi tiếng là giới hạnh tinh nghiêm. Vì vậy, trụ trì chùa có thể là ít học nhưng phải là người tu hành chân chính. Đối với giảng sư, chọn trong số các vị Tăng sĩ địa phương hai vị giảng sư, một vị Trưởng một vị Phó. Vị trụ trì nếu là người có khả năng thì mời tham gia vào việc giảng dạy. Nếu chưa có thầy giỏi thì chỉ nên mở một lớp sơ đẳng cho giới Sa-di mà thôi. Đối với học tăng, chọn những chú tiểu thông minh và phúc hậu, con nhà hiền lành từ mười tới hai mươi tuổi lập nên lớp sơ đẳng. Mỗi lớp chỉ nên nhận từ 30 đến 40 người. Những học tăng không thi đậu lên lớp, nhất là đối với những người trẻ không có khả năng tu học thì cho về quê. Ban đầu chỉ mở một lớp và khi có cơ sở rộng rãi sẽ mở thêm.

Ngoài ra, để nâng cao trí năng cho Tăng Ni, cư sĩ, Hội cho thỉnh và dịch nhiều kinh từ chữ Hán sang chữ Quốc ngữ như Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Kim Cang Bát Nhã, Kinh Ưu Bà Tắc Giới…, và mỗi tháng định kì giảng kinh hai lần tại chùa Từ Quang (Huế). Bên cạnh đó, Hội còn gửi một số Tăng sĩ ra nước ngoài du học được chu cấp học phí trong quá trình học tập.

Có thể nhận thấy rằng, chương trình giáo dục trong phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung trên đây là hết sức tích cực. Nhờ có đường hướng giáo dục đúng đắn, khoa học và sự tham gia giảng dạy của các bậc tôn túc có trình độ học vấn, có phương pháp giảng dạy nên đã thu hút được đông đảo Tăng tín đồ theo học. Đến trước năm 1963, hệ thống trường học của Hội An Nam Phật học đã phát triển rộng rãi khắp dải đất miền Trung. Hàng vạn Tăng sinh được đào tạo về mặt chuyên môn cũng như được giáo dục về tư tưởng lối sống đều xuất phát từ các mái trường của Phật giáo miền Trung đã kịp thời bổ sung nguồn nhân lực trong cuộc đấu tranh chống lại chính sách kì thị tôn giáo của Ngô Đình Diệm. Những trí thức mới này đã có những cách nhìn nhận mới về Phật giáo về trách nhiệm của họ với sự tồn vong của đạo pháp của dân tộc. Do vậy, họ đã tích cực đấu tranh bảo vệ sự trường tồn của đạo pháp, bảo vệ nền độc lập tự do của đất nước. Trong phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963, dưới nhiều hình thức khác nhau, các phần tử trí thức này luôn đóng vai trò là những người “châm ngòi”, là lực lượng nòng cốt đi đầu trong các cuộc đấu tranh.

Như vậy, cùng với những bước tiến của phong trào chấn hưng ở hai miền Nam - Bắc, Phật giáo miền Trung đã từng bước kiện toàn các cấp học, đổi mới nội dung và phương pháp học tập; xây dựng và mở rộng các Phật học đường, đào tạo được Tăng Ni trụ cột, làm bước đầu trong quá trình phát triển Phật giáo Việt Nam nói chung, miền Trung nói riêng cũng như đặt nền móng cho việc thống nhất Phật giáo sau này. Những vị lãnh đạo cao cấp trong Phật giáo Trung ương cũng như các tỉnh đều xuất thân từ các Phật học đường tại miền Trung như chư vị Hòa thượng - Thượng tọa Thích Thiện Hoa, Thiện Hòa, Thiện Siêu, Trí Quang, Thiện Minh, Trí Tịnh, Trí Thủ, Mật Thể, Mật Nguyện, Mật Khế, Mật Hiển, Đôn Hậu, Tịnh Khiết(24)… Đây cũng chính là những thành viên làm nòng cốt cho phong trào dấn thân của Phật giáo vào năm 1963. Bàn về vấn đề này, Trần Quốc Tuấn trong công trình Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX đã viết: “Điều đáng chú ý là những nhân vật Phật giáo đóng vai trò lãnh đạo trong phong trào đấu tranh Phật giáo năm 1963 đều đã xuất hiện với những chức vụ cao trong Giáo hội. Đó là trường hợp của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Ban Quản trị Trung ương Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Ngài đã đứng mũi chịu sào trong các cuộc đấu tranh quyết liệt đối với chế độ Ngô Đình Diệm”(25).

KẾT LUẬN

Có thể nói, phong trào chấn hưng Phật giáo miền Trung diễn ra vào nửa đầu thế kỷ XX có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Nó đã tạo ra một bước ngoặt trong tiến trình phát triển của Phật giáo Việt Nam trong những năm tháng tiếp theo. Bởi vì, với công cuộc chấn hưng này, lần đầu tiên trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam có sự đổi mới căn bản tổ chức Tăng đoàn Giáo hội và hình thức đào tạo tăng tài. Mặc dù thực dân Pháp chưa cho phép thành lập Tổng hội Phật giáo trong cả nước, nhưng sự ra đời của Hội Phật giáo ba kỳ Bắc - Trung - Nam và chi hội Phật giáo ở các tỉnh đã thúc đẩy hoạt động tôn giáo của đạo Phật ở Việt Nam tiến lên phía trước. Hoạt động đào tạo Tăng Ni không dừng lại ở các tổ đình, các khóa hạ dưới mái chùa, mà đã tiến tới thành lập các trường lớp đào tạo tăng tài từ sơ cấp đến cao cấp rất quy củ và có hệ thống gắn liền với việc đi sâu nghiên cứu Phật học. Hơn nữa phương tiện truyền bá và hoằng dương Phật pháp lúc này là báo chí, và xuất bản với chữ Quốc ngữ đơn giản dễ học. Việc sử dụng chữ Quốc ngữ để phổ biến giáo lí của đạo Phật cũng góp phần thúc đẩy việc học chữ Quốc ngữ trong quần chúng nhân dân.

Trên một phương diện khác, phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giới Phật giáo và ngoài xã hội. Chấn hưng Phật giáo đã đưa Phật giáo trở lại đúng với truyền thống và vai trò, vị trí của Phật giáo trong xã hội Việt Nam. Chấn hưng Phật giáo là bước chuẩn bị để Phật giáo Việt Nam - với vai trò “Hộ quốc an dân”, tiếp bước cùng dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Chấn hưng Phật giáo tạo ra nguồn mạch để sau này, khi đất nước thống nhất, non sông quy về một mối, năm 1981, giới Phật giáo Việt Nam đã đi đến quyết định thống nhất Phật giáo, thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam - ngôi nhà chung của Phật giáo Việt Nam. Với những ý nghĩa đó, phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung nói riêng và phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam nói chung được ví như một cuộc cách mạng về Phật giáo. Xin đừng hiểu “cách mạng” theo nghĩa thông thường là “thay cũ đổi mới” mà hãy hiểu tác động và sự ảnh hưởng, hay đúng hơn là ý nghĩa của phong trào.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thích Hải Ấn, Hà Xuân Liêm (2006), Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Ban Tôn giáo Chính phủ (1995), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Hà Nội.

3. Lê Cung (2008), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, Nxb Thuận Hóa, Huế.

4. Lê Tâm Đắc (2012), Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 - 1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Lê Tâm Đắc - Nguyễn Đức Sự, “Vài nét về các đoàn thể Phật giáo Việt Nam”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 1, 2011, tr.19 - 28.

6. Nguyễn Đại Đồng, “Nhìn lại tiến trình thống nhất Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ XX”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 4, 2008, tr.14 - 21.

7. Lê Văn Đính “Về lịch sử hình thành và hoạt động của Gia đình Phật tử trong Phật giáo Việt Nam”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 3, 2004, tr.26 - 35.

8. Gia đình Phật tử Việt Nam, Tài liệu tu học bậc trí, tr.142.

9. Thích Trung Hậu, Thích Hải Ấn (2011), Chư tôn thiền đức và cư sĩ hữu công Phật giáo Thuận Hóa, tập 1, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

10. Thích Trung Hậu, Thích Hải Ấn (2011), Chư tôn thiền đức và cư sĩ hữu công Phật giáo Thuận Hóa, tập 2, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

11. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Nxb Văn học Hà Nội, Hà Nội, tr.102.

12. Mục “Luận đàn: Chúc từ của cụ Chánh Hội trưởng Nguyễn Khoa Tân”, Nguyệt san Viên Âm, số 12, năm 1935, tr. 64.

13. Mục “Thế gian thuyết”, Nguyệt san Viên Âm, số 2, 1934, tr.32 - 35.

14. Nguyệt san Viên Âm, số 21, năm 1936, tr.59 - 60.

15. Thích Trí Quang, “Hãy bước tới Phật giáo toàn quốc”, Nguyệt san Viên Âm, số 99, 1950, tr.3 - 5.

16. Thích Mật Thể (1960), Việt Nam Phật giáo sử lược, Minh Đức tái bản và phát hành, Huế.

17. Trần Thiều, “Khái lược sự phát triển của Phật giáo Thừa Thiên Huế giai đoạn 1930 - 1945”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 4, 2006, tr.25 - 32.

18. Nguyễn Quốc Tuấn (2012), “Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX”, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.108.

19. Quốc Tuệ (1967), Cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt Nam, Nxb Sài Gòn, tr.84.

 


1. Lê Tâm Đắc (2012), Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924 - 1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.12.

2. Dẫn theo Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.27 - 28.

3. Mục “Thế gian thuyết”, Nguyệt san Viên Âm, số 2, 1934, tr.35.

4. Mục “Thế gian thuyết”, Nguyệt san Viên Âm, số 2, 1934, tr.35.

5. Trần Thiều, “Khái lược sự phát triển của Phật giáo Thừa Thiên Huế giai đoạn 1930 - 1945”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 4, 2006, tr.26.

6. Thích Hải Ấn, Hà Xuân Liêm (2006), Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh, tr.388.

7. Nguyễn Quốc Tuấn (2012), “Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX”, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.108.

8. Mục “Luận đàn: Chúc từ của cụ Chánh Hội trưởng Nguyễn Khoa Tân”, Nguyệt san Viên Âm, Số 12, năm 1935, tr. 64.

9. Nguyễn Quốc Tuấn, Sđd, tr.112.

10. Nguyễn Đại Đồng, “Nhìn lại tiến trình thống nhất Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ XX”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 4, 2008, tr.17.

11. Nguyễn Đại Đồng, Tlđd, tr.18.

12. Thích Trí Quang, “Hãy bước tới Phật giáo toàn quốc” Nguyệt san Viên Âm, số 99, 1950, tr.3

13. Lê Văn Đính “Về lịch sử hình thành và hoạt động của Gia đình Phật tử trong Phật giáo Việt Nam”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 3, 2004, tr.27.

14. Lê Văn Đính, Tlđd, tr.28.

15. Gia đình Phật tử Việt Nam, Tài liệu tu học bậc trí, tr.142.

16. Lê Tâm Đắc - Nguyễn Đức Sự, “Vài nét về các đoàn thể Phật giáo Việt Nam”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 1, 2011, tr.23.

17. Lê Cung (2008), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.168.

18. Quốc Tuệ (1967), Cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt Nam, Nxb Sài Gòn, tr.84.

19. Lê Cung (2008), Sđd, tr.194.

20. Ban Tôn giáo Chính phủ (1995), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Hà Nội, tr.234.

21. Thích Mật Thể (1960), Việt Nam Phật giáo sử lược, Minh Đức tái bản và phát hành, Huế, tr.233.

22. Thích Hải Ấn, Hà Xuân Liêm (2006), Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Sđd, tr.393

23. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, Sđd, tr.102.

24. Về vai trò cụ thể của các vị Hòa thượng trong phong trào Phật giáo miền Nam năm 1963, xin xem thêm công trình: Chư tôn thiền đức và cư sĩ hữu công với Phật giáo Thuận Hóa, tập 1 - 2, của tác giả Thích Trung Hậu và Thích Hải Ấn, do Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh ấn hành năm 2011. Tiểu sử Danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập 1 - 2 của tác giả Thích Đồng Bổn, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, năm 2011.

25. Nguyễn Quốc Tuấn (2012), “Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX”, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr.140.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 35
    • Số lượt truy cập : 6783335