THIỀN PHÁI TÀO ĐỘNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Cư sĩ THANH NGUYÊN*
Mở đầu
Hiện nay thực tập thiền Phật giáo là một nhu cầu của thời đại, do sự bức bách và những xáo trộn trong cuộc sống mà con người muốn tìm một sự bình yên và hạnh phúc. Ở thời đại nào cũng vậy luôn có những mối bất an mà con người phải tìm cách đối phó. Thiền như một liệu pháp mà bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể thực tập và tìm nơi an trú vững chắc cho tâm hồn được. Trong Phật giáo có rất nhiều trường phái thiền mà hiện nay ngoài các nước có truyền thống Phật giáo như Ấn Độ, Tích Lan, Thái Lan, Lào, Campuchia đa phần thực tập theo pháp thiền quán Vipassana. Các nước như Trung Hoa, Tây Tạng, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, v.v... theo truyền thống Đại thừa Bắc tông (Mahayana) và Kim Cương Thừa ( 金剛乘, vajrayāna). Các nước có tôn giáo khác như Pháp Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Đức, Ý, v.v... cũng tìm học và thực tập các pháp môn thiền.
Thiền có rất nhiều trường phái, những nước thuộc Nam Tông hành theo phương pháp thiền Tứ Niệm Xứ: quán sát về hoạt động của thân, cảm xúc vui buồn (Cảm thọ)... sự sanh khởi của Tâm và các Pháp, được gọi là Như lai thiền, và nhiều phái thiền khác được gọi là Tổ sư thiền như Lâm Tế, Tào Động, v.v... Thiền Tào Động là một trong những phái thiền được hoạt động rất mạnh ở Việt Nam từ thế kỷ thứ XVII ở xứ Đàng Ngoài và xứ Đàng Trong.
* * *
Thế kỷ thứ XII ở Đàng Ngoài phái thiền Tào Động được truyền vào Việt Nam do ngài Thủy Nguyệt Thông Giác (1637-1704) và đệ tử là Tông Diễn Chơn Dung (1640-1711), mà cho đến nay phái thiền này là các ngôi tổ đình như Hòe Nhai, Trấn Quốc, v.v... cùng các bậc cao tăng thạc đức hậu duệ của chư tổ vẫn đang hoạt động và phát triển rất mạnh qua bao năm tháng hưng suy cùng với vận mệnh của dân tộc.
Dĩ nhiên, thiền tất cả mọi tông phái đều bắt nguồn từ pháp thiền của đức Thích Ca, Ngài đản sanh và thành đạo dưới cội cây tất bát la còn gọi là cây Bồ đề (bodhi) cách đây gần 3.000 năm, tại Ấn Độ. Đức Thích Ca đã tu thiền, chứng thiền và dạy thiền. Sau một thời gian tu tập Ngài thấy những mầm móng gây nên bất an (Nguyên nhân của sự khổ) và cách đoạn trừ những bất an, đau khổ đó, Ngài dạy: "Chư Tỳ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ"[1] hay được hiểu một cách khác là loại trừ những mầm móng gây bất hạnh cho con người và làm thế nào để có được hạnh phúc.
Khi nghiên cứu về đạo Phật nói chung, pháp thiền nói riêng chúng ta thấy trong kinh điển Phật giáo cả Nam lẫn Bắc Tông và các ngữ lục của các tông phái đều có một sự xuyên suốt là chỉ rõ cách hành trì để an tĩnh nội tâm và đưa đến đến sự giác ngộ, giải thoát và niết bàn. Đức Phật dạy: "Này các tỳ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ niết bàn, đó là bốn niệm xứ."[2]
Qua đoạn kinh trên chúng ta thấy khởi nguyên đức Phật giới thiệu pháp thiền quán căn bản: Thiền Tứ Niệm Xứ. Đặc biệt truyền thống thiền của Phật giáo Đại thừa tùy theo căn cơ, trình độ, tập tục văn hóa của từng địa phương mà đức Phật và chư tổ thường hay ứng dụng từ buổi đầu bình minh của thiền học như chúng ta đã biết qua hình tượng "Niêm Hoa Vi Tiếu" hay thuyết "Giáo Ngoại Biệt Truyền Bất Lập Văn Tự" "Kiến Tánh Thành Phật".v.v... như các phái thiền ở Trung Quốc.
Thiền tông Trung Quốc gồm có năm phái "Ngũ Gia Tông Phái" Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn, trong năm tông phái này tông Tào Động không thịnh bằng tông Lâm Tế và Quy Ngưỡng, cũng không suy như Vân Môn và Pháp Nhãn[3]. Tồn tại theo hướng trung dung, phải chăng đây cũng là một điểm ưu việt của phái Tào Động. Chúng ta lần lượt khảo sát một số tư tưởng hình thành và truyền thừa của tông phái này.
1. Ngồn gốc Thiền phái Tào Động
Tên Phái Tào Động có 2 thuyết, thuyết 1. Được ghép hai tên và trú xứ của hai vị là Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bản Tịch mà gọi là TÀO ĐỘNG (đọc theo âm vận). Thuyết 2. Ngài Lương Giới là thuộc dòng phái chính thống của tổ Tào Khê Huệ Năng cũng có thể lấy trú xứ Tào Khê để đặt tên.
Thiền sư Lương Giới (840-901)- Sơ Tổ Tông Tào Động, Trung Quốc
Ngài xuất gia với ngài Linh Mặc về sau đến ngài Vân Nham Đàm Thạnh hỏi về nghĩa Vô tình thuyết pháp và được truyền tâm ấn lúc từ tạ trở về nhân lội qua sông thấy bóng mình dưới nước tức thì đại ngộ. Nói kệ:
Thiết kỵ tùng tha mích 切忌從他覓。
Điều điều dữ ngã sơ 迢迢與我疎。
Ngã kim độc tự vãng 我今獨自往。
Xứ xứ đắc phùng cừ. 處處得逢渠。
Cừ kim chánh thị ngã 渠今正是我。
Ngã kim bất thị cừ 我今不是渠。
Ưng tu nhậm ma hội 應須恁麽會。
Phương đắc khế như như. 方得契如如。
DỊCH:
Rất kỵ tìm nơi khác
Xa xôi bỏ lảng ta,
Ta nay riêng tự đến
Chỗ chỗ đều gặp ta.
Ngươi nay chính là ta
Ta nay chẳng phải ngươi
Phải nên như thế hiểu
Mới mong hợp như như.
Mục đích tối hậu của thiền là giác ngộ được tự tâm ngay tại đây và bây giờ, không lạc vào quá khứ và mê vọng vào tương lai, chính ngay tại nơi đây mà không "tìm nơi khác". Chỉ cần hướng tâm vọng ngoại là đã đánh mất chính mình "Xa xôi bỏ lảng ta", khi tâm cảnh bất nhị không còn tự không còn tha, thể nhập nhất như chính là bản tâm tự tỏa sáng soi thấu bản thể của muôn vật, thể và dụng là một sóng không xa rời nước, nước chính là sóng, sóng chính là nước "Ta nay riêng tự đến", chủ thể không xa rời đối tượng, đối tượng chính là bản thể "Chỗ chỗ đều gặp ta. Ngươi nay chính là ta" tâm pháp nhất như bình đẳng, "Mới mong hợp như như".
Vào năm Hàm Thông thứ 10 (869), vua Đường Ý Tông sư thị tịch thọ 63 tuổi, thụy hiệu là Ngộ Bản Thiền Sư.
Thiền sư Bản Tịch (840-901)) - Đệ nhị tổ thiền Phái Tào Động, Trung Quốc
Vào năm 19 tuổi lên núi Linh Thạch huyện Phước Đường xuất gia, 25 tuổi thọ cụ túc giới, sư đến Động Sơn tham vấn thiền sư Lương Giới và cũng là đệ tử nối pháp của thiền sư Lương Giới, sư chấn hưng và giảng truyền diệu chỉ ngủ vị của Động Sơn. Năm Thiên Phục thứ nhất (901) vua Đường Chiêu Tông vào ngày 15-6 thị tịch thọ 62 tuổi, thụy hiệu Nguyên chứng thiền sư.
Ngài có bài kệ Tứ Cấm để khai thị người học:
Chớ đi đường tâm xứ.
Đừng khoác áo bản lai;
Sao cần phải như thế,
Rất kị lúc chưa sinh.
Không đeo bám vào ý thức "đường tâm xứ", buông bỏ ý thức chính là chỗ tu đạo. Không truy tìm bản lai diện mục, vì bản lai diện mục ở ngay đó rồi. Cái mà phân tích, chia chẻ hiểu qua ý thức không phải là chân thực. "Rất kị" nếu có chưa sinh thì có hiện sinh và đã sinh, cứ loanh quanh truy tìm ảo giác quá khứ và ước vọng tương lai.
Ngài Lương Giới chủ trương "Chính" thẳng và "Thiên" nghiêng tượng trưng cho ý nghĩa tuyệt đối và tương đối của các hiện tượng, chúng không bao giờ tách rời nhau, một thực thể có hai mặt phải và trái. Từ đó chia ra thành năm vị, về sau ngài Bản Tịch kế tục và truyền dạy cho hậu duệ:
1. Chính Trung Thiên (cái thẳng đi vào cái nghiêng) trong tuyệt đối có tương đối.
2.Thiên Trung Chính (cái nghiêng đi vào cái thẳng) cái tương đối có trong cái tuyệt đối.
3. Chính Trung lai (cái thẳng trong tự thân của nó) đây là tuyệt đối, pháp thân, chân như.
4. Thiên Trung Chí (cái nghiêng trong tự thân của nó) người đạt đến địa vị nầy đã thâm nhập vào thế giới pháp thân và tự tại trong thế giới hiện tượng.
5. Kiên Trung Đáo (cái thẳng và cái nghiêng trong cùng một tự tánh) bặt dứt giữa bản thể và hiện tượng không còn phân biệt nữa.
Năm vị còn được giải thích qua sự liên hệ của ngũ vị quân thần:
1. Vua trông thấy bầy tôi.
2. Bầy tôi hướng về vua.
3. Vua.
4. Bầy tôi.
5. Vua và bầy tôi[4].
Nhị vị Tổ Sư đã thân chứng thâm sâu của “Thiên chính Hồi hỗ - chỉ ra công phu tu hành chính là sự diệu dụng của Bản lai diện mục”[5]. Các thế hệ sau như ngài Thanh Liễu soạn Tịnh độ thuyết để khuyến tiến người tu Tịnh độ; ngài Chính Giác ở núi Thiên Đồng tiếp hóa người học hơn 30 năm, đề xướng thiền Mặc chiếu song hành cùng với thiền Khán thoại đầu của tông Lâm Tế.
Tông phái Tào Động cũng được truyền bá rất mạnh ở Nhật Bản, Ngài Hi Huyền Đạo Nguyên đến núi Thiên Đồng ở Trung Quốc thụ pháp nơi ngài Như Tịnh, rồi truyền về Nhật Bản. Đến thời ngài Thiệu Cẩn thì phong cách Thiền được thay đổi, chủ trương “Chỉ quản đả tọa” (chỉ cần tọa thiền), tiếp thụ nghi thức cầu nguyện lưu hành trong dân gian và tích cực truyền giáo cho quần chúng phổ thông. Tông phong lấy tọa thiền hành đạo nhằm mở ra con đường hướng thượng, lấy việc dò tìm tâm địa người học làm phương pháp tiếp cơ, phương pháp này được gọi là “Tào Động dụng xao xướng”, tức bậc thầy ứng theo nhịp gõ (xao) của người học mà chỉ dạy, trong đó không xen tạp hay gián đoạn mảy may[6].
Thiền sư NHẤT CÚ TRÍ GIÁO (Đời pháp thứ 35, tông Tào Động, Trung Quốc)
Sư trụ trì tại núi Phụng Hoàng, Hồ Châu, Trung Hoa tham yết Hòa thượng Tịnh Chu, sau khi vấn đạo Tịnh Chu thấy Sư lợi căn bèn cho nhập chúng, truyền tâm ấn cho Sư và cho hiệu là Nhất Cú. Sư bái trở về núi Phụng Hoàng.Về đây, Sư khai đường dạy chúng, đạo pháp rất tinh nghiêm.Học giả bốn phương nghe danh qui tụ về rất đông. Khi sắp tịch, Sư truyền tâm ấn cho đệ tử là Thông Giác để kế thừa tông Tào Động. Bài kệ phó pháp cho Tông Giác:
Xuân sắc sắc, thảo nhung nhung 春色色草茸茸
Vạn vũ chi điều khai thiết thiết 萬宇枝條開切切
Nhất hành dương phát sản trùng trùng 一莖楊發産重重
Thủy tẩm nguyệt viên trừng hải để 水浸月圓澄海底
Sơn đầu nhật xuất lộ nham phong. 山頭日出露巖峰
DỊCH:
Xuân sặc sỡ, cỏ như nhung
Khắp chốn ngàn cây bông trổ gấp
Một cành dương liễu nảy trùng trùng
Trăng chìm đáy biển nước lóng lặng
Đảnh núi nhật lên bày chót cao.
Nói kệ xong Sư từ giã chúng, ngồi yên nhập Niết-bàn[7].
2. Thiền phái Tào Động Việt Nam
2.1. Hành trạng chư vị Tổ sư phái Tào Động Việt Nam:
1. Thiền sư THỦY NGUYỆT hiệu THÔNG GIÁC đời 36 (1637 - 1704):
Sư sinh năm Đinh Sửu (1637), quê ở Thanh Triều, huyện Ngự Thiên, phủ Tiên Hưng, đạo Sơn Nam, đời thứ 36, tông Tào Động, húy là Thông Giác Đạo Nam thiền sư. Khoảng năm 20 tuổi xin đến chùa xã Hỗ Đội huyện Thụy Anh xuất gia, vào niên hiệu Cảnh Trị (1664) triều Lê sư sang Trung Quốc tầm sư học đạo. Vào năm 30 tuổi sư thọ đại giới, sau một thời gian 6 năm một hôm sư phụ gọi sư vào trượng thất hỏi:
Đã thấy tánh chưa?
Sư Trình kệ thấy tánh:
Viên minh thường tại thái hư trung, 圓明常在太虚中
Cương bị mê vân vọng khởi lung. 剛彼迷雲妄起籠
Nhất đắc phong xuy vân tứ tán, 一得風吹雲四散
Hằng sa thế giới chiếu quang thông. 恒沙法界照光通
Dịch:
Sáng tròn thường ở giữa hư không
Bởi bị mây mê vọng khởi lồng
Một phen gió thổi mây tứ tán
Thế giới hà sa sáng chiếu thông.[8]
Hòa thượng điểm đầu và ban hiệu Thông Giác Đạo Nam thiền sư, truyền kệ để truyền đăng phái Tào Động.
Tịnh Trí ThôngTông 浄智通宗
Từ Tính Hải Khoan 慈性海寬
Giác Đạo Sinh Quang 覺道生光
Chính Tâm Mật Hạnh 正心蜜行
Nhân Đức Di Lương 仁德弥良
Huệ Đăng Phổ Chiếu 慧燈普照
Hoằng Pháp Vĩnh Trường 弘法永長[9]
Sư viên tịch vào ngày 6 tháng 3 năm Giáp Thìn, niên hiệu Chính Hòa thứ hai mươi, đời vua Lê Hy Tông (1704), thọ sáu mươi tám tuổi. Tứ chúng thỉnh nhục thân Sư về hỏa táng chia linh cốt thờ hai nơi, một ở chùa Hạ Long, một ở hang núi Nhẫm.
2. Thiền sư TÔNG DIỄN hiệu CHÂN DUNG đời 37 (1640 - 1711)(Còn gọi là Tổ cáy)
Thiền sư Tông Diễn được ngài Thông Giác truyền pháp đặt pháp danh Tông Diễn.
Sư thọ giới Cụ túc năm 32 tuổi. Niên hiệu Vĩnh Trị (1678), vua Lê Hy Tông ra lệnh bài Phật, Sư tự nghĩ: “Tại sao nhà vua đối với đạo Phật lại cho là vô dụng? Nếu ở núi rừng, dù thuyết pháp đá phải gật đầu, giảng kinh được hoa trời rơi loạn, cũng chẳng có lợi ích gì cho chúng sanh. Sư bèn quyết tâm về đất thần kinh, mong cảnh tỉnh nhà vua, cứu vãn Phật pháp trong khi tai nạn. Sư xin phép đến kinh đô, Thiền sư Thông Giác hoan hỉ.
Quan Đề lĩnh bắt đem về dinh chất vấn: Tăng Ni già trẻ đều phải vào ở trong rừng núi. Sao ông đi lại tự nhiên thế? Dạ không dám trái phạm nhưng kẻ Tăng quê mùa này có một một viên ngọc quí, muốn dâng nhà vua, Quan Đề lĩnh tâu lên vua, vua sai quan Đề lĩnh ra nhận ngọc đem vào Vua xem.Vua không bằng lòng cho gặp, Sư bèn viết một tờ biểu, nói về trị quốc an dân. Nội dung nói về đạo như ngọc quí, và nhờ quan dâng lên Vua, Khi vua xem xong liền nghĩ “Đạo Phật là viên ngọc quí, chẳng lẽ trong nước chúng ta không dùng, Tăng Ni hay khuyên người làm thiện, tại sao lại vất bỏ đi? Người đem Phật pháp khai hóa dân chúng cũng là phương pháp tốt giúp cho triều đình trị dân”. Vua liền mời Sư ở lại chùa Báo Thiên để bàn luận đạo lý.
Sau đó trong triều thường xuyên mời sư thuyết pháp và vua cùng đi nghe, được thấm nhuần đạo lý Vua bỏ lệnh trục xuất Tăng Ni và thành tâm sám hối.Vua cho tạc hình Vua quỳ mọp để tượng Phật trên lưng để tỏ lòng thành sám hối.Tượng này hiện còn thờ ở chùa Hồng Phúc.
Sư thị tịch vào ngày 16 tháng 7 năm Tân Sửu, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ năm (1711) triều Lê Dụ Tông, Sư thọ bảy mươi hai tuổi. Đệ tử làm lễ hỏa táng xong, thu xá-lợi xây tháp ở Đông Sơn để thờ.
Trong khi đó ở Đàng Trong ngài Thạch Liêm đời thứ 29[10], tông Tào Động do chúa Nguyễn Phúc Chu mời đến Việt Nam hoằng pháp, thật ra ngày trước Thánh khảo Nghĩa vương Nguyễn Phúc Tần đã sắc lệnh ngài Nguyên Thiều mời[11], chứng tỏ ngài Thạch Liêm là một vị tăng có tiếng, khi đến Việt Nam ngài đã chấn chỉnh một phần nội bộ tăng già và sau đó khai mở giới đàn tại chùa Thiền Lâm có 3.000 vị trong đó có 1.400 vị thọ tỳ kheo và sa di[12].
Phương pháp tu trì của Hòa thượng Thạch Liêm: Thiền tịnh song tu, Nho Phật nhất trí và Lâm Tào tổng hợp[13].
Có lần ngài khuyên mẹ chúa Nguyễn Phúc Chu là Tống Thị tu pháp môn niệm Phật khi ngài sắp trở về cố quốc:
"Quốc mẫu thường làm việc thiện, nhứt tâm niệm Phật, chẳng chút gián đoạn..." "Đường tu hành giản tiện không chi bằng niệm Phật. Quý hồ ngăn dứt mọi trần duyên, tâm niệm sáu chữ, tâm chẳng tán loạn, niệm ắt tinh thành, sáng niệm chiều niệm, sao cho chẳng niệm mà niệm, niệm đến chỗ không niệm, niệm chẳng ngừng, niệm thành một phiến."[14]
Chúa Nguyễn Phúc Chu rất khâm phục đức độ và kiến thức của Ngài Thạch Liêm, một bữa nọ trời đang mưa ngài Thạch Liêm trì chú trời tạnh, chúa liền năn nỉ học cách trì chú, ngài Thạch Liêm nói rằng quan trọng không ở bài chú mà là ở người trì chú thanh tịnh và đức độ mới linh nghiệm, rồi Ngài đưa đến ông bản điều trần mười tám điều để trị nước theo tinh thần Phật giáo. Ý nói làm được những điều đó thì phong điều vũ thuận như trì chú vậy[15].
Có hai sự kiện lớn của Phật giáo trong thời vua Lê chúa Nguyễn: Một là, Ở Đàng Ngoài thiền sư Thủy Nguyệt chuyển hóa được vua Lê thay đổi chính sách trục xuất và bắt bớ tăng ni. Hai là, ở Đàng Trong Thiền sư Thạch Liêm đã kết hợp với chúa Nguyễn để xây dựng một nền Phật giáo được trang nghiêm và phát triển hơn.
Qua một số hành trạng của chư vị chúng ta thấy như đức Phật Thích Ca ngài ra đời trong một bối cảnh xã hội bị những tà kiến bao phủ, cuộc sống của người dân bao trùm bởi một một mạng lưới phủ kín sự tối tăm vô minh. Thời đại của thiền sư Thông Giác và Thủy Nguyệt ở Đàng Ngoài cũng không kém, dân chúng thì khổ nhục cuộc sống của bá tánh thì lầm than từ những cuộc nội chiến tham vọng quyền bính Lê-Mạc và Trịnh Nguyễn phân tranh.
Có một điểm chung của các vị thiền sư ngộ đạo là tùy cơ mà ứng tùy thời mà chuyển, "tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên", với những năng lực như vậy mới chuyển hóa được những việc mà thông thường tưởng chừng như bất khả!
Theo cứ liệu văn bia truyền thừa các vị Tổ sư phái Tào Đông.
Chùa Hồng Phúc, Hà Nội...Tổ sư thứ nhất Hòa thượng Thủy Nguyệt.Tổ thứ nhì Hòa thượng Chân Dung, tức từ đời 36 đến 47 theo thứ tự truyền đăng phái Tào Động ở phía Đàng Ngoài:
Đời 36, TS. Thủy Nguyệt, pháp húy Thông Giác Đạo Nam, Đại thừa Nhục Thân Bồ tát.
Đời 37, TS. Chân Dung, húy Tông Diễn, Đại thừa hóa thân Bồ tát
Đời 38, TS. Tính Giác, húy Từ Sơn hành Nhất, Phổ tế hóa thân đại Bồ tát
Đời 39, TS. Bản Lai Thiện Thuận, húy Tỉnh Chúc Đạo Chu, Phổ hóa độ sinh đại Bồ tát.
Đời 40, TS. Viên Thông Tăng thống Lại Nguyên, húy Hải Điện Mật Đa.
- TS. Hải Tại Trí Thiếp, Tự tại Hòa thượng, Lợi Sinh Bồ tát.
- Sa môn Nhu Nhã, TS. Hải Hoằng Tịnh Đức.
- Sa môn Thanh Từ, TS. Khoan Nhân Phổ Tế.
Đời 41, TS. Tăng thống Đạo Nguyên Thanh Lãng, húy Khoan Nhật Phổ Tế.
- Ma ha Tăng chính Thiện Căn sa môn, húy Khoan giáo Nhu Hòa thiền sư.
- Sa môn Thanh Quang, húy Khoan Thông Chính Trí thiền sư.
- Sa môn Thanh nguyên, húy Giác bản Minh Nam thiền sư.
Đời 42, Tăng cang Thanh Đàm, húy Giác Đạo Tuân minh Chánh Hằng Quang Thiền sư.
Đời 43.Sa môn Lục Hòa, húy Giác Lâm Minh Liễu thiền sư.
Đời 44.Sa môn Thanh Như Chiếu, húy Đạo Sinh Quang Lịch Minh Đạt thiền sư.
Đời 45.Sa môn Hồng Phúc. húy Quang Lự Thích Đường Đường hiệu Như Như thiền sư.
Đời 46.Sa môn Hòa Thái, húy Chính Bỉnh Thích Bình Bình Vô tướng thiền sư.
Đời 47.Thiền sư Chân Nghĩa Thích Nhân Từ.[16]
Ngoài những vị mà trong văn bia chùa Hòe Nhai còn có những vị mà long vị được tôn thờ các chùa ở Hà Nội và một số vị đã đi giáo hóa một số nước trên thế giới như Canada, Pháp Quốc, Mỹ, v.v...:
Nam Mô Tào Động Chính Tông Phúc Viên Tháp Ma Ha Sa Môn Pháp Húy Thích Tâm Đạo hiệu Chân Tịnh Thiền Sư, sinh năm 188 tịch năm Quý Sửu 1973.
Nam Mô Tào Động Tông Ma Ha Sa Môn, pháp húy Thích Trung Quán, thế danh Vũ Thanh Quất thiền sư, sinh năm Mậu Ngọ (1918), tịch năm Quý Mùi (2003) thọ 86 tuổi. (tịch tại Pháp quốc).
Sự truyền đăng của thiền phái Tào Động có một sự kế thừa và phát triển liên tục cho đến nay. Sau khi đất nước dành lại độc lập tự chủ, một trong những sự kiện quan trọng nhất của Phật giáo Việt Nam là thống nhất Nam, Bắc, Trung để suy tôn ngôi vị Pháp chủ, vị lãnh đạo tinh thần tối cao của Phật giáo chính là đức Hòa thượng, thượng Đức hạ Nhuận thuộc dòng tổ Tào Động, ngài đã đạt ngộ với hạnh Lắng Nghe "Phản văn Văn Tự tánh"[17] và với sứ mạng độ sinh ngài đã đảm nhiệm trú trì nhiều chốn tổ ở Hà Nội như Đồng Đắc, chốn Tổ Đào Xuyên, chốn Tổ Bằng v.v...đặc biệt vào năm 1980 cung thỉnh ngài làm chứng minh Ban vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam, Ngài làm trú trì Tổ đình Vĩnh Nghiêm tại thành phố Hồ Chí Minh. Ơn đức sâu dày của ngài mà một số vị tôn túc đã phát biểu:
Hòa thượng Thích Thiện Siêu: Uy phong đạo hạnh, ngôn từ, hoài vọng của cụ Đồng Đắc mà tôi được nghe danh năm nào, bây giờ lại hiện ra đích thực trước mắt tôi và đại chúng. ...ba đề nghị của Cụ nêu ra với Đại hội, như là một tia sáng soi đường làm cho cả Đại hội xúc động, kính trọng, phấn khởi, vui mừng, tin tưởng ...có được một bậc chúng trung tôn như Ngài để suy tôn ngôi Pháp chủ, thì ... Ngài là cột trụ chính chống đỡ ngôi nhà Giáo hội. ... để có được ngày hôm nay. ... tấm gương đạo hạnh, chí nguyện lợi tha của Ngài vẫn còn in đậm nét trong tâm tư tôi và trong Giáo hội – những người có nhân duyên trực tiếp, gián tiếp thụ ân pháp hoá của Ngài.
Hòa thượng Thích Minh Châu: Tôi nhớ đến trong một buổi họp Phật tử Châu Á vì Hòa Bình (ABCP) tại phòng khách chùa Quán Sứ, khi ấy Ngài đang chứng minh cuộc họp của ban chấp hành ABCP...gồm hơn 15 trung tâm quốc gia. ... sự im lặng của Ngài, thái độ an nhiên tự tại của Ngài, lòng từ bi trí tuệ chói sáng từ thân tâm của Ngài ...đối với uy phong đức độ của Ngài. ... đức độ tu hành chân thành và kiên trì của một con người có khả năng tạo những sức mạnh vô hình ảnh hưởng tốt đẹp đến những người xung quanh. trong Kinh tạng Pa-li, một câu diễn đạt được một cách trọn vẹn đời sống và công hạnh tu hành của Ngài Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam: “Yo sãro so thassati”, Việt dịch là: “Cái gì là lõi cây cái ấy sẽ tồn tại lâu dài”.[18]
Nam Mô Việt Nam Phật Giáo, Tào Động Chính Tông Kim Liên tháp Ma Ha Sa Môn, pháp húy Thích Thanh Hiệu, hiệu Đức Huy, Thế danh Phạm Đức Nhuận thiền sư sinh năm Đinh Dậu (1897) tịch năm Quý dậu (1993) thọ 97 tuổi.
Kết luận
Tào Động tông chủ trương về lý ngộ và sự tu:
1. Phật tính hiện hữu trong mỗi chúng sinh (nhất nhất chúng sinh giai hữu Phật tính, kinh Pháp Hoa).
2. Vạn pháp từ nhân duyên mà sinh và cũng từ nhân duyên mà diệt, một trong tất cả, tất cả trong một (nhất tức nhất thiết nhất thiết tức nhất, lý duyên khởi trong kinh Hoa Nghiêm).
3. Nghiêm trì "Ba môn" tu Giới-Định-Tuệ.
4. Hành Lục Độ nghiêm mật, tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.
5. Nhận chân các pháp từ sự diệu dụng của "Bản lai diện mục".
6. Phối hợp pháp tu Thiền, Tịnh, Mật tùy cơ diệu dụng.
Phật giáo Việt Nam trượng thừa ân đức sâu dày của chư tổ mà ngày nay được chứng kiến qua những dấu tích về văn hóa vật thể và phi vật thể như các chốn tổ ở miền Bắc, Nam, Trung các tổ đình tự viện và cả về nhân sự hiện nay đang giữ những chức vụ quan trọng trong Giáo Hội Phật giáo Việt Nam đều là hậu duệ của chư Tổ.
Tài liệu tham khảo.
1. Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang NXB Phương Đông. Xuất bản năm 2012.
2. Thiền sư Việt Nam,HT. Thích Thanh Từ, NXB Văn Hóa Văn Nghệ, 2015.
3. Thiền Uyển Truyền Đăng Lục,Thích Thiện Phước dịch, NXB Hồng Đức,2015.
4. Phật Quang Đại Từ Điển. NXB Phương Đông. 2015.
5. Bộ Kinh tập 1,2,3. Toàn tập Thích Minh Châu, xuất bản năm 2015. NXBTp HCM.
6. Tào Động Nam Truyền Đệ Nhất Tổ sư Ngữ Lục (bản chữ Hán).
7. Văn bia chùa Quốc Ân và chùa Linh Mụ Huế.
8. Cảnh Đức Truyền Đăng Lục 3 tập, NXB Hồng Đức, 2013.
9. Hải Ngoại Ký Sự, Viện Đại Học Huế, Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam, 1963.
10. Tuyển Tập văn Bia Hà Nội, tập 1, 2, NXB Khoa Học Xã Hội Hà Nội 1978.
11. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, HT. Thích Đức Nhuận, đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhân dịp 20 năm ngày viên tịch.
12. Kỷ yếu đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, HT. Thích Đức Nhuận, NXB Phương Đông, 2011.
13. Bản Hán văn, 曹峒南傳第一祖師語錄,Tào Động Nam Truyền đệ nhất Tông ngữ Lục.
* Ủy viên Ban Văn hóa Trung ương, GHPGVN.
[1] Kinh Ví Dụ Con rắn, Trung Bộ Kinh tập 1, trang 306, Toàn tập Thích Minh Châu, xuất bản năm 2015. NXBTp HCM.
[2] Kinh Niệm Xứ, Trung Bộ Kinh tập 1, trang 132, Toàn tập Thích Minh Châu, xuất bản năm 2015. NXBTp HCM.
[3] Phật Quang Đại Từ Điển tập 4, trang 5554. NXB Phương Đông.
[4] Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang. Nxb Phương Đông, tr. 498
[5] Phật Quang Đại Từ Điển tập 4, trang 5554.NXB Phương Đông. Xuất bản 2015.
[6] Phật Quang Đại Từ Điển tập 4, trang 5555.NXB Phương Đông.
[7] Tham khảo tài liệu Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, Thích Thiện Phước dịch, NXB Hồng Đức,2015. Thiền sư Việt Nam, HT. Thích Thanh Từ, NXB Văn Hóa Văn Nghệ, 2015.
[8] Thiền sư Việt Nam HT, Thích Thanh Từ trang 423.
[9] Kệ truyền thừa này căn cứ vào bản chữ Hán Tào Động Nam Truyền Đệ Nhất Tổ sư Ngữ Lục trang 20.
[10] Văn bia chùa Linh Mụ. 御建天姥寺.國主阮福週嗣洞上正宗三十世法名興龍號天縱道人鼎建順化天姥寺碑記銘。
Ngự kiến Thiên Mụ tự. Quốc chủ Nguyễn Phúc Chu, tự Động Thượng chính tông tam thập thế, pháp danh Hưng Long, hiệu Thiêng Túng Đạo Nhơn, đỉnh kiến Thuận Hóa Thiên Mụ tự bi ký minh.
Dịch nghĩa: Ngự kiến Thiên Mụ tự. Quốc chủ Nguyễn Phúc Chu, dòng Tào Động, đời thứ 30, pháp danh Hưng Long hiệu Thiên Túng Đạo Nhân nói về việc trùng khiến chùa Linh Mụ.
[11] Văn bia chùa Quốc Ân.
至聖考前朝又命禪師回廣東,延請長壽石老和尚,幷請佛像及法器,回來往完,成頗多功績。
保泰拾年四月初八日頒奉立。國恩寺
(Chí Thánh Khảo Tiền Triều hựu mệnh thiền sư hồi Quảng Đông, diên thỉnh Trường Thọ Thạch Hòa Thượng, tịnh thỉnh Phật tượng cập pháp khí, hồi lai vãng hoàn, thành phả đa công tích.)
Bảo Thái thập niên tứ nguyệt sơ bát nhật ban phụng lập. Quốc Ân tự.
Dịch nghĩa: Đến Thánh Khảo triều trước lệnh nhờ ngài trở về Quảng Đông thỉnh Trường Thọ Thạch Liêm Hòa thượng và tượng Phật cùng pháp khí, xong rồi trở về thành tựu công đức lớn lao.
Bảo Thái năm thứ 10, ngày mồng 8 tháng 4 ban phụng lập, chùa Quốc Ân.
[12] Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang NXB Phương Đông tr. 503.
[13] Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tr. 508. Nguyễn Lang NXB Phương Đông. Xuất bản năm 2012.
[14]Hải Ngoại Ký Sự, Viện Đại Học Huế, Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam, 1963, trang 114.
[15] Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang NXB Phương Đông tr. 514.
[16] Tuyển Tập văn Bia Hà Nội, tập 1, tr.119, NXB Khoa Học Xã Hội Hà Nội 1978.
[17] Hòa thượng Thích Thiện Nhơn. Ân Đức Hiện Diện, tr.113. Kỷ yếu hội thảo. bản copy.
[18] Kỷ yếu đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, HT. Thích Đức Nhuận, tr. 95-96. NXB Phương Đông, 2011.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết