Thông tin

THIỀN PHÁI TÀO ĐỘNG VIỆT NAM

DU NHẬP – KẾ THỪA – PHÁT TRIỂN

 

HT. THICH THIỆN NHƠN*

 

1. Nguồn gốc:

Thiền phái Tào Động do Thiền sư Động Sơn Lương Giới (807 - 869) đời 38 Thiền Ấn - Hoa sáng lập. Ngài là đệ tử Thiền sư Vân Nham Thanh Đàm đời 37, đệ tôn Tổ Huệ Năng đời thứ 33 Thiền tông Ấn – Hoa, đời thứ 1 Tông Tào Động. Bởi lẽ, Tổ Huệ Năng có hai đệ tử xuất sắc là Nam Nhạc Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành Tư. Trong đó, Thanh Nguyên Hành Tư truyền pháp cho Thạch Đầu Hy Thiên. Thạch Đầu Hy Thiên truyền pháp cho Dược Sơn Duy Nghiễm. Dược Sơn Duy Nghiễm truyền pháp cho Vân Nham Thanh Đàm. Vân Nham Thanh Đàm truyền pháp cho Động Sơn Lương Giới. Về Tông Tào Động thì Đông Sơn Lương Giới là đời thứ 1 truyền cho Tào Sơn Bản Tịch đời thứ 2 cho đến Thiền sư Tịnh Chu là đời thứ 34… Đạo tràng của Tông Tào Động là Viện Sùng Thọ, núi Tào Sơn tỉnh Giang Tây và đạo tràng thứ hai là Ngọc Hà Sơn – Trung Quốc.

2. Du nhập, truyền thừa, phát triển:

2.1 Đàng Ngoài: 

Tông Tào Động du nhập vào Đại Việt (Việt Nam) từ nửa thế kỷ 17, cả hai vùng Đàng Trong và Đàng Ngoài dưới thời Vua Lê Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn (Lê Thần Tông, Anh Tông). Về Đàng Ngoài, do Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt (1637 - 1704), tên đời là Đặng Giáp quê Thanh Triều, Hưng Nhân, Thái Bình (Đạo Nam Sơn), năm 1657 xuất gia tại chùa Hồ Đội, huyện Thụy Anh. Năm 1664, Ngài sang Hồ Châu Trung Quốc học đạo với Thiền sư Trí Giáo Nhất Cú đời thứ 35 đệ tử Thiền sư Tịnh Chu đời thứ 34 Tông Tào Động tại núi Phụng Hoàng, Hồ Châu – Trung Quốc.

Trong thời gian tu học tại núi Phụng Hoàng, có một hôm Thiền sư Trí Giáo hỏi: Chổ an thân lập mạng của Ông là thế nào?

- Thông Giác đáp:

Trong gió lửa nổi dậy

Trên sông nước an nhiên.

- Trí Giáo hỏi tiếp:

Đêm ngày Ông giữ nó ra sao?

- Thông Giác đáp:

Đúng ngọ trăng sao hiện

Nửa đêm mặt trời hồng.

- Trí Giáo nói tiếp: Chuyện an thân lập mạng như thế được rồi. Còn chuyện mặt mũi của Ông xưa nay như thế nào?

- Thông Giác đáp:

Quơ sào trên bóng cỏ

Tên nhọn sẽ bay qua.

- Trí Giáo khen: Con rắn hai đầu ấy, đừng để cho nó chạy thoát, hãy xỏ mũi nó, cẩn thận nhé. Ngươi thật là xứng đáng con cháu Tông Tào Động, Ta ban cho pháp danh Thông Giác và bài kệ về Đại Việt hoằng hóa Tông Tào Động như sau:

1. Tịnh trí Thông tông từ tánh hải

Khoan giác đạo sinh quang chính tâm

Mật hạnh nhân đức xưng lương tuệ

Đăng phổ chiếu hoằng pháp vĩnh trường.

(Hòa thượng Kim Cương Tử dịch)

Về đoạn đối đáp nầy, theo Thiên phả chùa Hồng Phúc Hòe Nhai, HT. Thanh Từ dịch: Một hôm Tổ gọi Thông Giác vào liêu hỏi: Thấy Tánh chưa? Thông Giác đáp: Sáng tròn thường ở giữa hư không. Bởi bị mây che, vọng sinh lồng. Một phen gió thổi mây tứ tán. Thế giới hà sa sáng chiếu thông.

Tổ Trí Giáo điểm đầu và ban cho pháp danh Thông Giác Đạo Nam và bài kệ:

2. Tịnh trí Thông tông

Từ tánh hải khoan

Giác đạo sinh quang

Chính tâm mật hạnh

Nhân đức vi lương

Hoằng pháp vĩnh trường.

(HT. Thích Thanh Từ dịch)

Sau ba năm học đạo tại Trung Quốc, năm 1667 Thiền sư trở về Đại Việt (Việt Nam) lưu trú tại chùa Vọng Lão núi An Sơn, huyện Đông Triều, Hải Dương. Ở Hải Dương Thiền sư gặp lại pháp hữu là Thiền sư Tuệ Nhãn tu ở chùa Đông Sơn (chùa Thượng Long), thế danh Mai Tư Phụng, quê Dưỡng Mông, Kim Thành, Hải Dương, còn gọi là Tổ Muống, được Vua Lê sắc phong Đại Thánh Đông Sơn Tuệ Nhãn Từ Giác Quốc Sư.

Tổ Thông Giác về trụ núi Thẩm Dương và tái thiết chùa Nhẫm Dương (chùa Thánh Quang) núi Thẩm Dương đã có từ thời Trần 1279 và hành đạo tại các chùa Tứ Phúc (Côn Sơn) Hạ Long… Do đó, chùa Nhẫm Dương là chốn Tổ thứ nhất Tông Tào Động. Từ đấy phát triển giai đoạn một là tại chùa Thánh Quang – Nhẫm Dương, giai đoạn 2 chùa Hồng Phúc Hòe Nhai (Hà Nội) cho đến ngày nay.

Sau thời gian hóa đạo, công viên quả mãn, Ngài gọi Tông Diễn lại di chúc:

Nước cốt tuôn ra rửa bụi trần

Sạch rồi nước lại trở về Chân

Cho người bát nước Cam lồ quý

Ân tưới chan hòa độ vạn dân.

Sau đó Ngài hóa thân viên tịch năm 1704, đời Vua Lê Huy Tông, thọ 68 tuổi. Môn đồ đệ tử làm lễ Trà tỳ, thu lấy xá lợi, xây tháp tôn thờ tại chùa Nhẫm Dương (núi Thẩm Dương) Hải Dương, chốn Tổ đầu tiên của Tông Tào Động. Thiền sư Tông Diễn Chân Dung (1640 - 1711), sau khi Bổn sư viên tịch, Ngài kế thế trụ trì chùa Nhẫm Dương – Thánh Quang.

Trong thời gian Tông Diễn còn học đạo, một hôm Tổ Thông Giác gọi lại hỏi: Như khi Ta đang nghỉ, đợi đến bao giờ có tin tức? Tông Diễn đáp: Đúng ngọ thấy bóng tròn, giờ Dần mặt trời mọc. Thông Giác hỏi: Giữ gìn như thế nào? Tông Diễn đáp:

Cần có muôn duyên có

Ưng không tất cả không

Có không hai chẳng lập

Mặt trời hiện lên cao.

(Về đoạn đối đáp nầy, bản dịch Thiên Phước, Lý Việt Dũng ghi: Hòa thượng Tông Diễn – Chơn Dung ở Đông Sơn nghe tin đồn Hòa thượng Thông Giác đi đến Bắc Kinh mà đắc đạo, sau đó trở về Vong Lão ở An Sơn, nghỉ ngơi 3 ngày, Diễn đều thăm hỏi. Tổ bảo: Ta đang nghỉ, đợi khi nào Ta nghỉ xong hả! Diễn nói: Đúng ngọ bóng sẽ tròn, giờ Dần mặt trời ló lên phân nửa…)

Thông Giác đáp: Tào Động Tông có ngũ vị thần, Người khế hợp Tâm Tông đáng kế thừa Tông Tào Động, hãy cẩn thận nhé, và cho pháp danh Tông Diễn. Với bài kệ phú pháp như sau:

Tất cả pháp không sanh

Tất cả pháp không diệt

Phật Phật, Tổ Tổ truyền

Uẩn không sen (mọc) đầu lưỡi.

Ngài trụ trì chùa Nhẫm Dương (Thánh Quang) và Hạ Long – Hải Dương một thời gian dài để hoằng hóa Tông Tào Động, thu nhận đệ tử, tiếp Tăng độ chúng rất đông. Về sau Ngài về trụ trì chùa Hồng Phúc Hòe Nhai (Thăng Long – Hà Nội), hóa độ chúng sanh, vào cung Vua thuyết pháp, thi hành Phật sự không biết mõi mệt, cảm hóa được Vua Lê Hy Tông. Sau một thời gian hóa đạo, thân tứ đại đến hồi tạm bỏ, Ngài gọi Tịnh Giác – Hành Nhất húy Từ Sơn đến dặn dò và ban cho bài kệ:

Xuân đến hoa chớm nở

Thu về lá vàng rơi

Đầu cành sương lóng lánh

Cánh hoa tuyết rạng ngời.

Buổi sáng trời trong rồng bày vảy

Ngày trưa mây sáng voi hiện hình

Vằn cọp tuy thấy một

Bầy phụng thể đoàn đồng

Đạt Ma Tây sang truyền pháp gì?

Cành lau qua biển nổi như phau.

Ngài tịch năm 1711, đời Vua Lê Dụ Tông, thọ 72 tuổi. Các hàng đệ tử làm lễ trà tỳ, xây tháp thờ ở Nhẫm Dương, Hải Dương và Hồng Phúc (Hòe Nhai) Thăng Long – Hà Nội.

Sự kế thừa Tông Tào Động theo Thiền Uyển kế đăng lục của Thiền sư Như Sơn (Từ Sơn) soạn năm 1734 và thùy danh bất hủ của Thiền sư Pháp Minh hiệu Thiền Tâm soạn năm 1932 ghi lại theo phả hệ Tổ đình Hồng Phúc (Hòe Nhai) như sau:

Đời thứ 1: Thiền sư Thông Giác – Thủy Nguyệt, đời 36 Tông Tào Động

Đời thứ 2: Thiền sư Tông Diễn – Chân Dung, đời 37.

Đời thứ 3: Thiền sư Từ Sơn (Như Sơn) Tịnh Giác – Hành Nhất, đời 38.

Đời thứ 4: Thiền sư Tính Chúc – Thiện Thuận, đời 39.

Đời thứ 5: Thiền sư Hải Điện – Lai Nguyên, đời 40.

- Đời thứ 40 Tông Tào Động còn có:

- Thiền sư Trí Thiếp, hiệu Hải Tại Lợi Sinh.

- Thiền sư Hải Hoằng tự Tịnh Đức hiệu Như Nhã.

- Thiền sư Khoan Nhân, hiệu Phổ Tế tự Thanh Từ.

Đời thứ 6: Thiền sư Đạo Nguyên hiệu Khoan Dực tự Phổ Chiếu, đời 41 Tông Tào Động.

- Đời 41 còn có:

- Thiền sư Khoan Giáo, tự Như Hòa, hiệu Thiện Cần.

- Thiền sư Khoan Thông, tự Chánh Trí, hiệu Thanh Quang.

- Thiền sư Giác Bản, tự Minh Nam, hiệu Thanh Nguyên.

Đời thứ 7: Thiền sư Thanh Đàm, tự Minh Chánh, hiệu Giác Đạo, đời 42 Tông Tào Động.

Đời thứ 8: Thiền sư Giác Lâm, tự Minh Liễu, hiệu Lục Hòa, đời 43 Tông Tào Động.

Đời thứ 9: Thiền sư Đạo Sinh, tự Minh Đạt, hiệu Thanh Như, đời 44 Tông Tào Động.

Đời thứ 10: Thiền sư Quang Lư, tự Đường Đường, hiệu Như Như (Hồng Phúc Sa Môn), đời 45 Tông Tào Động.

Đời thứ 11: Thiền sư Chính Bỉnh, tự Bình Bình, hiệu Vô Tướng (Hòa Thái Sa Môn), đời thứ 46 Tông Tào Động.

Đời thứ 12: Thiền sư Tâm Nghĩa, tự Nhân Từ, đời 47 Tông Tào Động.

Đời thứ 13: Đại lão Hòa thượng Đức Nhuận – Viện chủ Tổ đình Quảng Bá (1968), Hồng Phúc (Hòe Nhai) Hà Nội (1980); Viện chủ Tổ đình Đồng Đắc (Kim Liên) Ninh Bình, đời 48 Tông Tào Động.

Kế thế đời thứ 14: Hòa thượng Thích Thanh Khánh, Thượng tọa Thích Thanh Trung (Thọ Lạc) v.v… đời 49 Tông Tào Động.

Như vậy, Thiền phả truyền thừa tại Tổ đình Nhẫm Dương (Thánh Quang) Hải Dương chỉ có thể biết đến:

Sơ Tổ:

- Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt – Đạo Nam

- Thiền sư Tông Diễn – Chân Dung

- Thiền sư Từ Sơn Tịnh Giác – Hạnh Nhất

- Thiền sư Tính Chúc -> HT. Thích Vô Vi, NS. TN Đàm Mơ

- Tổ Cáy.

Đại lão Hòa thượng Đức Nhuận là bậc Cao Tăng thạc đức thạch trụ chốn tòng lâm, đã đóng góp nhiều công đức trong sự nghiệp giải phóng quê hương, thống nhất đất nước cũng như xây dựng Đạo pháp, phát triển Đạo vàng, góp phần thống nhất Phật giáo qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử và xã hội. Từ cương vị Giám luật Phật giáo tỉnh Ninh Bình, Ủy viên Thường trực Hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam, Ủy viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thủ đô Hà Nội, Phó Hội trưởng Hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam, rồi quyền Hội trưởng Hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam, Hiệu trưởng Trường Tu học Phật pháp Trung ương, Đệ nhất Pháp chủ GHPGVN, v.v…

Về pháp môn tu tập theo Thiền Tào Động, Hòa thượng y cứ Bộ Kinh Lăng Nghiêm Chính Mạch. Về pháp quán tự tánh nghe của Đức Quán Thế Âm; thành tựu Đạo quả, kết tinh pháp tu bằng bài kệ như sau:

Một niềm xoay lại đối tánh nghe

Muôn sự buông xuôi chỉ lắng nghe

Nghe lắng cho sâu không nghe cảnh

Cảnh rời, văn tánh chính Tánh nghe.

Hiện nay, các Pháp tử Pháp tôn của Hòa thượng hiện trụ các chùa, chốn Tổ Tào Động khắp nơi tại phía Bắc thuộc GHPGVN như: Chùa Quảng Bá (Hoằng Ân), huyện Từ Liêm; Chùa Trấn Quốc – Tây Hồ, chùa Diên Hựu quận Ba Đình, chùa Thiên Phúc (Mễ Trì – Hà Nội), chùa Yên Phú – Thanh Trì, chùa Đại Bi huyện Đông Anh, chùa Đồng Đắc Kim Sơn, Nôn Nước Phúc Chỉnh, chùa Bích Động – Ninh Bình, chùa Hàm Long – Bắc Giang v.v… trong lòng GHPGVN, với sự nỗ lực duy trì, phát triển cơ sở, hành trì Chánh pháp theo tinh thần tự do Thiền Tịnh song tu của Hiến chương GHPGVN quy định, càng ngày càng khởi sắc và ổn định trong lòng dân tộc Việt Nam thân yêu và GHPGVN trong hiện tại và tương lai.

2.2 Đàng Trong:

Tông Tào Động truyền vào Đàng Trong (Đại Việt) vào thế kỷ 17, dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Trăn (1691) là Hưng Liên Quả Hoằng đệ tử Thiền sư Thạch Liêm theo thuyền buôn cùng Thiền sư Nguyên Thiều vâng lịnh Chúa Nguyễn Phúc Trăn về Trung Quốc thỉnh chư Tăng sang hóa đạo tại Đàng Trong lần thứ nhất.

Khi Chúa Nguyễn Phúc Trăn mất, Chúa Nguyễn Phúc Chu lên ngôi (1691 - 1725) đã cho hai người sang Trung Quốc là Sứ Trần Thiêm Quang cùng Ngô Tư Quan, kèm theo thư thỉnh của Quốc sư Hưng Liên Quả Hoằng, thỉnh Hòa thượng Thạch Liêm cùng chư Tăng sang truyền đạo tại Đàng Trong lần thứ hai. Năm 1695, Hòa thượng cùng 50 đệ tử sang Đàng Trong theo lời thỉnh cầu của Chúa Nguyễn Phúc Chu. Hòa thượng đến ngụ tại chùa Thiền Lâm (Thuận Hóa). Sau đó tổ chức Đại Giới đàn truyền giới cho hơn 1.500 giới tử. Trong Đại Giới đàn nầy, Chúa Nguyễn quy y, thọ Bồ tát giới, được ban đạo hiệu Hưng Đạo – Thiên Tùng đạo nhơn, hết lòng hộ trì Phật pháp.

Thiền sư Thạch Liêm chỉ hành đạo Đàng Trong hơn một năm, 1696 Hòa thượng trở về Trung Quốc, để lại cho Đàng Trong 5 người đệ tử là Hưng Triệt, giúp Chúa Nguyễn lo việc đạo, thường trú tại chùa Thiền Lâm và Giác Hoàng. Còn Giám Sinh Hoàng Thần giúp Chúa lo việc nước và chùa về Hậu đường có Khánh Ngu, Tri khách có Thiên vũ.

Trong khi đó, Thiền sư Hưng Liên Quả Hoằng lo duy trì, phát triển cơ sở chùa Tam Thai Quảng Nam Đà Nẵng. Đồng thời cùng Hưng Triệt bảo quản chung chùa Mỹ An (núi Mỹ An) nay là núi Túy Vân – Thuận Hóa, do Chúa Nguyễn Phúc Chu phát tâm xây dựng khi mới lên ngôi năm 1692 và chùa Di Đà Hội An – Quảng Nam.

Đồng thời Thiền sư Thạch Liêm cũng có nhân duyên hóa độ người anh thứ ba của Chúa Nguyễn là Dương Thiều Hầu theo đạo, hiểu đạo và hết lòng phụng sự đạo pháp, phục vụ Chúa Nguyễn Phúc Chu trong một thời gian dài, sau khi Thiền sư Thạch Liêm về nước năm 1696.

Vì thời gian hành đạo tại Đàng Trong quá ngắn, đệ tử không nhiều, không có người kế thừa, cho nên sau khi Thiền sư Thạch Liêm về nước, thì Tông Tào Động bị Thiền phái Lâm Tế chi phối và phát triển liên tục, mở rộng về Phương Nam do ân đức của Tổ sư Nguyên Thiều nên chỉ còn Thiền phái Lâm Tế hoạt động, hiện hữu khắp Đàng Trong cho đến ngày nay.

Các cơ sở do ảnh hưởng của Tông Tào Động thì cũng không nhiều, kể cả sau năm 1954, khi đất nước bị chia đôi, cho đến năm 1975, khi đất nước thống nhất, thì có hơn 10 cơ sở Tự viện thuộc Tông Tào Động như chùa Thiền Lâm Trúc Lâm, Giác Hoàng, Thiên Mụ, Mỹ An (Huế), Tam Thai Quảng Nam – Đà Nẵng, chùa Pháp Hoa, chùa Trấn Quốc, chùa Giác Hải, chùa Nam Thiên Nhất Trụ, chùa Giác Tâm, chùa Giác Minh, chùa Khuông Việt Tp. Hồ Chí Minh v.v…trong lòng GHPGVN ngày nay. Nói khác đi là cơ sở Tự viện thuộc GHPGVN quản lý theo Hiến chương, Nội quy Tăng sự Trung ương GHPGVN.

3. Kết luận:

Tóm lại, Tông Tào Động được truyền vào Việt Nam từ nửa thế kỷ 17 cả hai Đàng – Đàng Ngoài và Đàng Trong dưới thời Vua Lê (Thần Tông, Anh Tông), Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn. Qua quá trình hoạt động cho thấy Tông Tào Động Đàng Ngoài, do người Việt Nam sang Trung Quốc học đạo rồi trở về hành đạo tại Việt Nam, mang tính Việt Nam hoàn toàn trong tiến trình kế thừa. Tông Tào Động tại Đàng Trong, do người Trung Quốc truyền bá, không được phổ cập và không tồn tại lâu dài. Nói khác đi, Tông Tào Động tại Đàng Ngoài cho đến ngày nay vẫn còn mang truyền thống và hoạt động theo Sơn môn pháp phái. Trái lại, Tông Tào Động tại Đàng Trong thì đã mất tích từ lâu.

Đối với hai chốn Tổ Tào Động tại Đàng Ngoài, cũng cho thấy rõ: Chốn Tổ thứ nhất là chùa Nhẫm Dương (Thánh Quang) Hải Dương, từ năm 1279 – 1400 đời Trần là cơ sở của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Từ năm 1667 Hậu Lê đến nay là chốn Tổ Tông Tào Động. Do ảnh hưởng chiến tranh tàn phá, hủy diệt chùa chiền từ năm 1945, do đó bị gián đoạn một thời gian về mặt kế thừa. Do chiến tranh, nên các Thiền sư Tào Động đã về thành thị để hành đạo, thuận lợi, bình yên hơn. Do đó, chốn Tổ thứ hai là Hồng Phúc (Hòe Nhai) Hà Nội, có sự truyền thừa rõ nét, liên tục từ Sơ Tổ Thông Giác, cho đến Hòa thượng Thanh Khánh, Thanh Trung (Thọ Lạc) là 14 đời, theo Tông Tào Động là từ đời thứ 36 đến đời thứ 49. Đây là một nét đặc biệt của Tông Tào Động Đàng Ngoài, chính là nhờ ân đức gia trì, hộ niệm của các Tổ Sư. Ngày nay chốn Tổ Nhẫm Dương đang được phục hồi và được Nhà nước công nhận là Di sản Văn hóa cấp Quốc gia, là đơn vị cơ sở Phật giáo huyện Kinh Môn, Tỉnh hội Phật giáo Hải Dương do Ni sư Đàm Mơ trụ trì, kiêm Trưởng ban Trị sự Phật giáo huyện Kinh Môn. Còn chốn Tổ Hồng Phúc (Hòe Nhai) Hà Nội, do Thượng tọa Thanh Trung (Thọ Lạc) trụ trì, sau khi cố Hòa thượng Thích Đức Nhuận – Đệ nhất Pháp chủ GHPGVN, Viện chủ đời thứ 13, dòng Tào Động thứ 48 viên tịch năm 2003, cả hai đều là thành viên của GHPGVN, hoạt động hữu hiệu, kết quả ổn định, trang nghiêm trong lòng dân tộc, Thủ đô và địa phương, ở thế kỷ 21 và những thế kỷ tiếp theo.    

 


Tài liệu tham khảo:

1. Thuyền Uyển kế đăng lục (Thiền sư Từ Sơn – Như Sơn (1734) bản dịch Thích Thiện Phước, Lý Việt Dũng 2015.

2. Thiền sư Việt Nam – HT. Thanh Từ 1992

3. Những bài viết của HT. Kim Cương Tử, NXBTG 1999

4. Việt Nam Phật giáo Sử Luận – Nguyễn Lang, NXBVH 2008

5. Lược khảo Phật giáo Sử Việt Nam – Vân Thanh 1974

6. Phật giáo xứ Huế - Thích Hải Ấn, Hà Xuân Liêm, NXB TP.HCM 2001

7. Phật giáo Đàng Trọng – Nguyễn Hiền Đức, NXB TP.HCM 1993

8. Thiền phả chùa Hồng Phúc

9. Bản tin Hải Dương – 2015

10. Tài liệu Kỷ niệm 30 năm thành lập Phật giáo Hải Dương (THPG HD 2011).  



* Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 18)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 17)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 16)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 141
    • Số lượt truy cập : 7268946