THIỀN SƯ THỦY NGUYỆT – TỔ KHAI SÁNG
THIỀN PHÁI TÀO ĐỘNG NƯỚC NAM
VÀ LÀM SÁNG DANH TỔ ĐƯỜNG NHẪM DƯƠNG
TT. THÍCH THANH GIÁC*
Thiền phái Tào Động được truyền vào nước ta khoảng nửa sau thế kỷ XVII. Thiền phả ghi lại hành trạng của Tổ sư khai sáng như sau: Thiền sư Thủy Nguyệt, hiệu Thông Giác Đạo Nam, sinh năm Đinh Sửu (1637), quê ở làng Thanh Triều, huyện Ngự Thiên, phủ Tiên Hưng, đạo Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái Bình), con nhà họ Đặng. Dưới thời vua Lê Hy Tông (1676-1705), thiền sư Thủy Nguyệt sang phương Bắc, tham học với Hòa thượng Trí Giác Nhất Cú, tổ thứ 35 của dòng thiền Tào Động (Trung Hoa), đến năm 1667, Thiền sư trở về Việt Nam hoằng dương tông Tào Động. Ngài là tổ thứ 36 của Thiền phái Tào Động Trung Hoa và là Đệ nhất tổ Thiền phái Tào Động Việt Nam. Các công trình nghiên cứu Phật giáo như: Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, Phật giáo Việt Nam xưa và nay của Trần Trọng Kim; Phật giáo Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ XVIII của Trần Văn Giáp; Lịch sử Phật giáo Việt Nam do Nguyễn Tài Thư chủ biên; Ngữ lục của hai tổ Thủy Nguyệt và chân dung là Quốc sư Hòa thượng của Sa môn Trí Hải; Đạo Phật và dòng sử Việt của Hòa thượng Đức Nhuận…đều đánh giá cao công trạng của tổ Thủy Nguyệt. Thế nhưng từ trước đến nay thân thế sự nghiệp của vị cao tăng này còn được ít người biết đến. Các sách chỉ thấy nhắc tên và giới thiệu khái lược về tiểu sử, sụ nghiệp của Hòa thượng Thủy Nguyệt mà chưa nêu đầy đủ, thấu đáo về hành trạng công nghiệp của Ngài.
Thiền phả cung cấp: Hòa thượng Thủy Nguyệt lúc tại gia họ Đặng, tên Đặng Giáp, sinh năm Đinh Sửu (1637), quê ở làng Thanh Triều, huyện Ngự Thiên, phủ Tiên Hưng, đạo Sơn Nam (nay là huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình). Thuở thiếu thời, Ngài theo học Nho giáo, đến 18 tuổi thi đậu Cống cử (Tứ trường). Đến năm 20 tuổi chán cảnh đời ba đào, dâu bể, Ngài bỏ ngang nghiệp Nho, xuất gia đến chùa làng Hổ Đội, huyện Thụy Anh (Thái Bình), thụ giáo Tôn sư. Ở đây 6 năm miệt mài kinh sách, tu thiền học đạo mà chưa chứng pháp giác ngộ, Ngài xin với Tôn sư đi chu du thiên hạ, tìm đến các tông môn, đến nhiều chùa, gặp gỡ nhiều vị cao tăng, tôn túc để tầm đạo mà tâm đạo chưa sáng. Năm 28 tuổi (có tài liệu nói cụn thể là tháng 3 năm Giáp Thìn - 1664), nhân duyên đưa đẩy, Ngài Thủy Nguyệt và hai đệ tử quyết chí hành hương sang Bắc Quốc "tầm sư học đạo", bất chấp khó khăn, gian khổ. Vừa mới đến đất Cao Bằng thì một đệ tử của Ngài mắc phải trọng bệnh, thuốc thang mãi không khỏi, đã phải yên nghỉ lại dọc đường. Ngài mua áo quan chôn cất chu đáo và dặn rằng: “Nay người sức mỏi không thể theo ta cùng đi, vậy hãy tạm nghỉ tại đây, đợi khi ta sang Bắc Quốc, cầu được đạo rồi trở về ta sẽ tế độ cho người”. Từ đấy, chỉ còn một thày, một trò, một bình, một bát, không ngại đường sá gian nan, quyết chí hành hương sang đất Bắc. Hai thày trò khất thực khắp nơi, tìm đến các danh lam thắng tích, chốn tùng lâm danh tiếng tìm thầy học đạo. Một ngày kia, hai thày trò đến được núi Phượng Hoàng, nhờ sự trợ duyên, tác phúc nên được yết kiến Hoà thượng trụ trì Động Sơn Lương Giới (dạng chùa hang) trên núi Phượng Hoàng là Hoà thượng Trí Giáo Nhất Cú - Tổ đời thứ 35 của Thiền Tông Tào Động. Trải qua rất nhiều thử thách, khổ luyện, ngày thì làm việc Tùng Lâm, đêm thì nghiên cứu Kinh Luật, ngài Thủy Nguyệt được Hoà thượng Trí Giáo Nhất Cú thụ giới Cụ Túc, ban pháp hiệu Thông Giác Đạo Nam Thiền sư, truyền y bát làm tổ thứ 36 của dòng Thiền Tào Động và cho về nước Nam để hoằng truyền tông Tào Động. Hai thày trò mất 5 tháng mới về tới tỉnh Cao Bằng, đi theo đường cũ ghé lại mộ người đệ tử đã mất. Thày trò dựng lều cỏ, thiết lập bàn thờ Phật tụng kinh siêu độ, được 3 ngày bỗng nhiên trên mộ phần mọc một hoa sen. Nhân dân quanh vùng thấy điều lạ đua nhau đến chiêm bái rất đông chẳng khác nào thắng hội. Nhiều người phát tâm thỉnh Sư cúng dường trai phạn, hoặc cầu xin quy y thọ giới. Trải qua hơn một tháng mới về đến chùa Đông Sơn ở huyện Đông Triều (Hải Dương). Lúc này, trên Thượng Long đã có vị cao tăng trụ trì, Sư bèn dừng trụ trì ở chùa Hạ Long, tiếp dân chúng sinh. Sư ở đây không bao lâu, dân chúng, tín đồ đến nghe pháp và quy y rất đông. Các bậc thân hào, nhân sĩ, tăng chúng đua nhau kéo đến tham vấn nhiều vô kể. Theo Cố Đại lão Hoà thượng Thích Trí Hải (1906-1979), một bậc cao tăng, long trượng để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trên trang lịch sử Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX thì vào năm Giáp Thân niên hiệu Chính Hoà thứ 20 (1704), đời Lê Huy Tông, Hoà thượng Thủy Nguyệt bước sang tuổi 68 cho gọi các đệ tử đến và dặn rằng: Nay ta lên chơi trên núi Nhẫm, nếu 7 ngày không thấy về, thì các ngươi tìm thấy chỗ nào có mùi thơm thì ta ở đấy. Các đệ tử, tứ chúng đợi đúng 7 ngày mà không thấy Hoà thượng nhập thất bèn chia nhau nương theo mùi thơm lên núi vào hang vạch cỏ tìm kiếm và phát hiện thấy Ngài như đang thiền định trên một tảng đá trong hang núi. Tới nơi thấy thân thể vẫn còn nóng ấm, mền mại, sắc diện hồng hào như đang còn sống, nhưng hơi thở đã tắt lịm, từ cơ thể vẫn toả ra hương thơm ngào ngạt mùi trầm bạch đàn. Hôm đó là ngày 6 tháng 6 năm Giáp Thân (1704). Cố Đại lão Hòa thượng Kim Cương Tử cho rằng: Hòa thượng Thủy Nguyệt không chỉ khai nguyên chốn tổ Nhẫm Dương, mà còn trụ trì chùa Hạ Long, hoằng pháp và độ tăng ở Côn Sơn, Quỳnh Lâm, Yên Tử… Hòa thượng Thủy Nguyệt là tổ khai sáng thiền phái Tào Động chùa Hòe Nhai (Hồng Phúc tự) ở phố Hàng Than (Ba Đình - Hà Nội). Thiền phái Tào Động là do ghép hai chữ âm đầu của hai chữ Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bản Tịch mà thành. Trong Động Sơn ngữ lục viết “Phong thái diệu huyền bao trùm thiên hạ nên các bậc thiền thượng các nơi suy tôn gọi là Động Đào tôn”, sau do quan hệ âm vận về mặt ngôn ngữ, nên đổi gọi là Động Tào tông thành Tào Động Tông. Pháp Nhãn trong tổng môn thập quy luận đã nêu lên đặc sắc của Tào Động, xếp ngang hàng với Lâm Tế và Quy ngưỡng.
Cố Đại lão Hoà thượng Kim Cương Tử cho rằng: Hoà thượng Thuỷ Nguyệt là tổ đời thứ 36 của Bắc Tông Tào Động và là Đệ nhất tổ của Nam Tông Tào Động. Sư Tổ Thuỷ Nguyệt không chỉ khai nguyên chốn tổ Nhẫm Dương, mà trụ trì chùa Hạ Long (Hải Dương), hoằng dương Phật pháp và độ tăng ở Côn Sơn, Quỳnh Lâm, Yên Tử, Đông Sơn...Cũng theo cố Đại lão Hoà thượng Kim Cương Tử thì Hoà thượng Thủy Nguyệt còn là tổ khai sáng chùa Hoè Nhai (Hồng Phúc tự) ở phố Hàng Than, Ba Đình, Hà Nội...
Khoảng đời vua Lê Hy Tông (1676-1705), ở miền Bắc nước ta, bên cạnh phái Tào Động do tổ Thủy Nguyệt hoằng truyền còn có phái Liên Tông do Ngài Lân Giác thành lập ở chùa Liên Phái (Bạch Mai – Hà Nội). Ngài Lân Giác là đệ tử của Thiền sư Chính Giác, ngài Chính Giác là đệ tử của ngài Minh Lương, ngài Minh Lương là đệ tử của ngài Chuyết Công, người Trung Hoa, tức là chi phái của phái Lâm Tế. Cả hai phái thiền Tào Động và Lâm Tế đều là chi phái của dòng thiền Bồ Đề Đạt Ma (Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn và Ngưỡng Sơn (còn gọi là Quy Sơn)), ứng với câu: “Nhất hoa hiện thụy, ngũ diệp lưu phương”.
Người hoằng truyền Thiền pháp Tào Động sớm nhất ở Đàng Trong có lẽ là Thiền sư Thạch Liêm Đại Xán, người Giang Nam. Theo Hòa thượng Thích Đức Nhuận, cuộc hành hương sang Việt Nam của Hòa thượng Thạch Liêm Đại Xán vào ngày 15 tháng Giêng năm Ất Hợi, niên hiệu Khang Hy thứ XXXIV (1695), đến Thuận Hóa ngày 1-2, Hòa thượng được chúa Nguyễn Phúc Chu đón tiếp nồng hậu và rước về chùa Thiền Lâm. Ngày 1-4 năm Ất Hợi (1695), Chúa lập đại giới đàn ở chùa Thiên Mụ, cầu thỉnh Hòa thượng truyền thụ giới pháp Bồ tát cho 1.000 giới tử và được Hòa thượng Thạch Liêm Đại Xán đặt pháp danh là Hưng Long, hiệu Thiên Túng Đạo Nhân. Hòa thượng được Chúa Nguyễn Phúc Chu bái làm quốc sư, sau về Trung Quốc. Đệ tử của Ngài là Thiền sư Hưng Liên, tự Qủa Hoằng, người Quảng Đông tiếp tục hoằng truyền pháp phái Tào Động ở các tỉnh Nam Trung Bộ và cũng nhận được sự trọng thị của Chúa Nguyễn Phúc Chu. Chúa Nguyễn Phúc Chu sắc phong Thiền sư Hưng Liên làm Đại Việt quốc sư. Trong “Hải ngoại ký sự”, Hòa thượng Thạch Liêm Đại Xán có ghi chuyện: “Đệ tử pháp tự Hưng Liên, tự Qủa Hoằng, được chúa Nguyễn bái làm quốc sư”… Chùa Nhẫm Dương - do Đệ nhất tổ phái Tào Động Thủy Nguyệt khởi lập (nơi khai sinh ra Thiền phái Tào Động ở nước ta) thuộc địa bàn thôn Nhẫm Dương, xã Duy Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Chùa Nhẫm Dương tên chữ là Thánh Quang, dân gian quen gọi là chùa Nhẫm, nằm lọt thỏm trong khu hang động núi đá vôi Nhẫm Dương thuộc xã Duy Tân, huyện Kinh Môn. Điều kỳ lạ là dường như tất cả các dãy núi đá trùng trùng điệp điệp vây quanh chùa đều có đỉnh hướng về ngọn núi Nhẫm Dương - nơi Chùa Thánh Quang tọa lạc. Chùa được xây dựng từ thời Trần (1225-1400). Chùa Nhẫm Dương khoảng gần 30 hang động lớn nhỏ tạo thành một cảnh Phật toàn bích. Đáng quan tâm là động (hang) Thánh Hoá, nơi Sư Tổ Thuỷ Nguyệt nhập niết bàn, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được rất nhiều di cốt hoá thạch của 27 loài động vật như: voi, tê giác, hổ, báo, nhím, lợn rừng, đười ươi (pôngô)...có niên đại cách ngày nay 3-5 vạn năm cùng nhiều di vật khảo cổ thời đại đồ đá, thời đồng thau và các pho tượng tượng Phật bằng đá có niên đại thời nhà Nguyễn...Tầng văn hoá ở đây dày tới 4m vẫn đang chờ giới khảo cổ học đánh thức, khám phá. Kỳ bí nhất vẫn là hiện tượng chỗ Sư Tổ Thủy Nguyệt thiền định nhập cõi niết bàn, phía trên đầu vẫn lưu giữ một vệt lõm sâu đúng bằng đầu người và phía dưới là một vết lõm giống như bàn chân người. Theo truyền ngôn, khi Sư Tổ Thủy Nguyệt đắc đạo Kim Cương đã thúc đầu, đạp chân vào núi đá nhằm lưu lại thánh tích ở cõi Sa Bà, nên động có tên gọi Thánh Hoá (?)
Cùng với hệ thống hang động kỳ ảo, chùa Nhẫm Dương (Thánh Quang tự) là chốn tổ của phái Tào Động do sư tổ Thủy Nguyệt khai sáng. Di tích có quy mô lớn, được khởi dựng từ thời Trần (1226-1400), chùa được tôn tạo sầm uất vào thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn. Năm 1952, chùa bị thực dân Pháp tàn phá nặng nề. Sau ngày hòa bình lập lại (1954), nhân dân địa phương dựng lại chùa bằng tranh tre, nứa lá. Sau miền Nam hoàn toàn giải phóng, sư trụ trì cùng tín đồ Phật tử phục dựng lại chốn tổ bằng gạch, lợp ngói với quy mô nhỏ bé, khiêm nhừng. Năm 1996, chùa mới được trùng tu khang trang như ngày nay. Để phục dựng và mở mang lại chốn tổ Thiền phái Tòa Động rất cần có sự công đức, quyên góp của đông đảo tăng ni, Phật tử, các nhà hằng tâm, hằng sản của Xứ Đông và cả nước.
* Ủy viên Hội đồng Trị sự kiêm Phó trưởng ban thường Ban Hoằng pháp Trung ương giáo hội Phật giáo Việt Nam – Phó trưởng ban thường trực Ban Trị sự giáo hội Phật giáo Hải Phòng.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết