THƠ CA LÀM TRONG THỜI GIAN KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
THIỀU CHỬU
1. Qua các nơi tản cư
Vô đề
Phen này cắt tóc đi tu,
Tụng kinh Độc lập, ở chùa Duy Tân.
Đêm ngày luống những ân cần,
Cầu cho ích quốc lợi dân mới là.
Cầu cho nước Việt Nam ta,
Khắp Trung Nam Bắc một nhà vui chung.
Toàn dân kháng chiến thành công,
Tự do Hạnh phúc vô cùng vô song.
(Năm 1947)
Cảm tác 2
Như ghét như thương,
Nửa mừng nửa tủi.
Khuyên ai ai biếng quay đầu,
Miên man xa cách trần khách bấy nhiêu lâu.
Bốn phương vô minh che tối,
Biết cùng ai lo tỏ đạo cao sâu.
Trằn trọc suốt năm canh toan tính,
Gươm trí tuệ mài mau !
(Năm 1949)
Ghi chú : Sau năm 1947, giặc Pháp kêu gọi người đi tản cư trở về vùng tạm chiếm, một số người không chịu được gian khổ đã lần lượt bỏ về. Nghe nói trong số Tăng Ni huyện Đông Anh tản cư lên Thái Nguyên có một Ni cô ngoài 50 tuổi xin hoàn tục về lấy chồng, Thiều Chửu cảm tác làm bài thơ trên.
Lá thư tâm huyết
Phí bao nước mắt mồ hôi,
Cây Bồ sắp sửa nảy chồi đâm hoa.
Thương ai nghiệp chướng tối loà,
Đường quang chẳng bước rẽ ra lối tà.
Gớm thay ngũ dục quân ma,
Làm cho tịnh khách hoá ra tục trần.
Tuỳ duyên lý đã tối tăm,
An bần lạc đạo chẳng tuân lời thầy.
Tự thân chịu đủ đoạ đày,
Lại cho quần chúng càng ngày càng xa.
Chẳng suy Phật tức tâm ta,
Làm theo chính nghĩa tức là chân tu.
Lợi sinh gây vững cơ đồ,
Tức là hoằng pháp quy mô đường hoàng.
Bên mê bên ngộ rõ ràng,
Kêu ai chẳng tỉnh nghĩ càng thêm đau.
Những nhớ cùng thương dạ chẳng ngơi,
Nhớ ai, ai nhớ, nhớ thương ai.
Bao năm hợp tác chung chung một,
Cùng nước, chia tay, tẻ tẽ hai.
Vui cảnh tự do trời sán lạn,
Thương người lạc lối đất chông gai.
Yêu nhau gắng sức cùng nhau nhỉ,
Tu tỉnh làm sao xứng cái đời.
Ghi chú: Năm 1948, trong đoàn có một sư Tăng về vùng địch tạm chiếm, Thiều Chửu tức cảnh làm bài thơ này nhắn nhủ mọi người. Bài này đăng lại trong bán nguyệt san Phương Tiện số 49 - 50 ra ngày 1 và 15 tháng 9 năm Tân Mão (1951)
Thuận gió giương buồm
Trong nửa năm trời
Lưu lạc quê người
Ốm đau đói khát
Luôn luôn vui cười
Vui cùng Pháp tướng1
Cười với Duy thức2
Suốt nghĩa huyền diệu
Mới rõ tiêu tức (tin tức)
Từ nay trở đi
Thuận gió giương buồm
Trong bể Pháp tướng
Tha hồ thênh thang
(Năm 1948)
Ghi chú : Bài này chúng tôi sưu tầm được trong cuốn sổ (chép tay 13 tác phẩm của Thiều Chửu) hiện do Thượng toạ Thích Thanh Đạt, chùa Quán Sứ, Hà Nội giữ. Bài thơ được ghi ở cuối tác phẩm Nghiên cứu duy thức theo khoa học cùng với bài thơ chữ Hán Vô đề.
Đọc bài thơ chúng ta có thể thấy mặc dù trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ nhưng Thiều Chửu vẫn giành thời gian cho việc trước tác. Ông hết sức phấn khởi khi hoàn thành tác phẩm cuối cùng là Nghiên cứu duy thức theo khoa học trong bộ Duy thức pháp tướng tông.
Nhắn nhủ người tu
Hỡi ai cùng họ Thích Ca ta,
Mau tới Tùng lâm thụ giáo mà
Bể Khổ đua bơi thuyền Bát nhã
Rừng Thiền thi hái đoá Liên hoa
Bánh xe Chính pháp tan Tam giới
Ngọn đuốc Từ quang tỏ Lục hoà
Độ tận chúng sinh thành quả Phật
Xứng thân cắt tóc, mặc cà sa.
(Năm 1949)
Tặng học trò
Là Ni Sư thích Đàm Ánh
(nhân sinh nhật thứ 19)
Này Đàm Ánh tuổi con mười chín
Bút khuyên con phải nhịn phải nhường
Số ngày giời Phật chứng thương
Nữa mai sáng láng biết đường lập thân
Biết nghĩa cả đền ân tử tế
Ngoài 45 phong thể dần dần
Những nay nhiều lúc giận thân
Cho nên con cũng nhiều lần vô tâm
Nghĩa là tu phải chăm từng tý
Theo luật chung bố thí đừng quên
Lúc nào cũng có bề trên
Kính nhường ân ái bốn bên cho hoà
Con biết chữ xuất gia đầu Phật
Phải ghi lòng tuế nhật kiên tâm
Nữa mai phúc quả trùng lâm
Một năm gây dựng mấy năm tiếng đồn
Này đây tiên bút dạy con.
Khuyên tu
Ai ơi giữ chí cho bền,
Dù ai thay hướng đổi nền mặc ai
Dù ai nói ngược nói xuôi
Ta nay vẫn vững như cây giữa rừng
Tuồng gì những thói lăng nhăng
Dưng dưng để mối bất bằng về sau
Chân như đạo Phật rất mầu
Tâm chung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân
Hiếu là độ được đấng thân
Nhân là vượt khỏi trầm luân mọi loài.
(Năm 1949)
Mới hay cửa Phật
Bốn phương kéo tới mây mù
Trông về Lạc quốc biết đâu là chừng
Nỗi thương biết nói sao cùng
Lấy ai tri kỷ đãi lòng sau xưa
Mênh mang bể khổ không bờ
Lấy ai chèo lái bây giờ hỡi ai
Sông mê mù tít mịt khơi
Cậy ai tế độ cho người trầm luân
Hỏi ai, ai những phân vân
Ngẩn ngơ đường giác, lần khân cảnh trần
Nực cười hai chữ kê cân
Khiến ai luống những ăn năn đời đời
Quí thay cái trí thiện tài
Ngũ tam tham để muôn đời soi chung
Hỏi ai có biết thẹn thùng
Hỏi ai, ai có ngượng ngùng chăng ai
Có thời ta quyết một lời
Thi đua Phật Pháp lợi người lợi ta
Sẵn thanh gươm tuệ vung ra
Lục căn thanh tịnh, tứ ma tan tành
Mới hay cửa Phật thênh thênh.
(Năm 1949)
Khóc thầy giáo Tán
Thầy Tán ơi, thầy Tán ơi !
Trăm năm thôi thế, thế thì thôi
Nóc chùa Tế Độ mờ hương khói
Vườn trại Cù Vân vắng bóng người
Nhớ cảnh Hương Phong hồn lẩn thẩn
Trông vời Bắc Cạn lệ tuôn rơi
Lấy ai nối lại lời non nước
Thôi thế thì thôi, thầy Tán ơi!
Ghi chú: Ông Nguyễn Quý Tán là thầy giáo chuyên trách dạy học cho các trẻ em trong đoàn Tế Sinh của Thiều Chửu thời gian 1945- 1946 (ở chùa Tế Độ, Thanh Xuân, Hà Nội) và 1947- 49 (tại Hương Phong, Phúc Yên và Cù Vân, Thái Nguyên). Về sau, ông Tán tham gia công tác kháng chiến trong một cơ quan nhà nước. Khi được tin ông Tán chết vì trúng bom giặc (tin này không đúng sự thực), Thiều Chửu xúc cảm làm bài thơ trên.
Trước khi ăn cơm
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần
Tháng mười cho chí tháng năm
Nắng mưa trải mấy mươi lần xông pha
Kém công tự giác giác tha
Càng ăn càng nợ người ta đời đời
(Năm 1950)
Nhớ ơn Phật tổ
Thấy cảnh trần ai đáng hãi hùng,
Luân hồi ức kiếp gỡ bao xong?
Hy sinh thân thế tìm chân lý,
Tế độ quần mê tới đại đồng.
Chư Tăng ơi! Nhớ ơn Phật Tổ vô cùng!
Nghĩ sao cho thỏa tấm lòng xuất gia.
Đời người tựa giấc Nam Kha,
Tu thân độ thế đời ta vô cùng.
(Năm 1950)
Mừng các vị sư Tăng về học
Chẳng nề mưa nắng ngại đường xa,
Bốn tỉnh Tăng Ni họp một nhà.
Gắng sức xây cao nền Chính pháp,
Ra công cải tạo cõi Sa bà.
Mong toàn sứ mệnh người tu tiến,
Cho xứng công hành bực giác tha.
Mai mốt nhân gian thành Lạc quốc,
Xứng thân cắt tóc mặc cà sa.
Ghi chú : Cuối năm 1948 được phép của Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Phúc Yên, Thiều Chửu mở Lớp nghiên cứu Phật học Trần Nhân Tông. Mến mộ đức hạnh và sự uyên thâm giáo lý đạo Phật của Thiều Chửu, mặc dù đường xá gian nan đã có hàng chục Tăng Ni từ 4 tỉnh về học. Ngày khai giảng lớp học, Thiều Chửu xúc cảm đọc bài thơ này. (khoá thứ nhất bế mạc ngày 30.01.1949)
Họa bài quyết tu
Ai xích ai gông, rước lấy tù
Khuyếch nhiên vô thánh, nói chi tu
Tính hằng thanh tịnh, đâu còn độc
Thề vốn thưởng minh, chẳng phải u
Mõ biết tuỳ duyên, sao lại đục
Chuông không phát chấp, cái gì bu
Không gian năng bạch, thời gian diệt
Xuân cũng danh ngôn, xá kể chi !
(Năm 1949)
Phật ca
Thân Phật như ngọc lưu ly
Mặt Phật tròn sáng khác chi trăng rằm
Phật hằng tế độ trầm luân
Yêu thương hết thảy là tâm Phật Đà
Bảo cho ta biết rằng ta
Thảy đều như Phật, ai mà khác ai
Chỉ vì mê sắc tham tài
Gây nên tội ác như loài thực dân
Làm cho sai lạc chân tâm
Làm cho nhân loại muôn phần đau thương
Vậy nên Phật phải toan lường
Hy sinh thân thế, tính phương chu toàn.
(Năm 1947)
Trước bàn thờ Tổ quốc
Trước bàn thờ Tổ quốc
Chúng con xin tâm nguyện
Tổ quốc có giàu mạnh
Chúng con mới được yên.
(Năm 1948)
Ăn và sống
Ăn để mà sống
Sống cho đàng hoàng
Tự tay làm lấy
Ăn không bẽ bàng.
(Năm 1948)
Thơ gửi các Tăng già trong vùng địch tạm chiếm.
Năm 1951 - 1952, nghe tin một số Tăng già trong nội thành Hà Nội vì mục đích kiếm tiền của dân mà bày trò đàn tràng cúng vái, đồng bóng. Cho rằng như vậy kết quả chỉ làm cho nhân dân bị mê hoặc và bị bóc lột, nhụt chí kháng chiến, có lợi cho giặc Pháp, Thiều Chửu liền nhờ gửi cho họ một tập tài liệu giáo dục Tăng già của Hội Phật giáo cứu quốc biên soạn; kèm theo một bài thơ như sau:
Nhớ Tổ Bách Trượng xưa,
Thật thanh thản lao động.
Một ngày chẳng làm chi,
Một ngày cam trống bụng.
Chúng ta hạng người nào,
Mà không biết tự trọng.
Cũng lên nhung lụa mềm,
Cũng chè xuân thuốc cống.
Cũng xuống ngựa lên xe,
Cũng tiền rương thóc đống.
Ngũ dục thả cửa chơi,
Ngũ cái tha hồ hóng.
Hỏi ở nguồn đâu ra?
Đục vào lưng quần chúng.
Học chưa quá i tờ,
Đạo hoàn toàn ngô ngọng.
Hạt gạo lớn dường non,
Đâu phải là ủng cúng.
Cứ theo lẽ chân thường,
Ai cũng do quyền sống.
Có làm thì có ăn,
Biếng lười tất mất giống.
Đừng tưởng lầm người xưa,
Người ta còn mơ mộng.
Mà tìm cách thôi miên,
Mà tính bề lợi dụng.
Hết cầu cúng đàn tràng,
Lại bùa bèn đồng bóng.
Thả săn sắt đòng đong,
Bắt cá rô cá bống.
Bòn rút hết hầu bao,
Để tự cung tự phụng !
Dân vì đó suy tàn,
Nước vì đó lủng củng.
Làm mồi cho thực dân,
Dễ bóp cổ bưng họng.
Hỡi đệ tử Thích Ca,
Đường tu nhằm cho đúng.
Trông gương Phật Tổ ta,
Như bể trời lồng lộng.
Lục Tổ là tri lương,
Tứ Nhiếp là tầu súng (?).
Hy sinh vô tận cùng,
Phục vụ cho đại chúng.
Phúc Trí đều như nhau,
Viên thành công tu chứng.
2. Tình cảm riêng
Thiều Chửu dẫn đoàn trẻ Tế sinh tản cư ở Phúc Yên. Mẹ, em gái và gia đình người em trai ông tản cư ở Yên mỹ, Sơn Tây. Mẹ già 72 tuổi đau ốm luôn; em dâu ốm chết, để lại một đàn con thơ. Ông thường lo nghĩ về mẹ và gia đình người em trai. Về sau, mẹ bị gãy chân và em gái ông chết bởi đạn giặc trong một trận càn ở Sơn Tây.
Nhớ nhà
Đồi Yên Mỹ quê nhà thổn thức
Mượn bút nghiên tả thực tấm lòng
Mẹ già khuya sớm trông mong
Em thơ nhà túng, lâm chung cảnh sầu
Con nhẹ bước dãi dầu mưa nắng
Miếng tân toan1 quyết chẳng nhường ai
Tủi thân kém đức thua tài
Giang sơn còn đó, gươm mài đã lâu !
(Năm 1947)
Nhớ mẹ
Tản Viên khuất nẻo xa xa,
Từ thân ta đó là nhà phải không?
Ngọt bùi chưa chút đền công,
Bấy lâu nay những nặng lòng vì con.
Một lời hứa hẹn nước non,
Nước non sóng gió con còn xông pha.
Khẩn cầu đức Phật Thích Ca,
Độ cho Mẹ được càng già càng dai.
Lẽ thường bĩ cực thái lai,
Nước non yên lặng cho vui cảnh già.
Hôm mai hai mẹ con ta,
Dâng hương thanh tịnh dâng hoa chân thường.
Từ bi cập bến cùng sang,
Cùng vui cảnh Phật thênh thang tháng ngày.
Mới biết lúc này !
(Năm 1948)
Nhớ cố hương
Bạch vân một áng xa xa,
Biết cùng ai tỏ cho qua cơn sầu.
Thung Huyên xa cách đã lâu,
Cậy ai khuya sớm trông hầu vào ra.
Mảng tin từ mẫu băng hà,
Ruột vò từng khúc lệ sa đôi dòng.
Trêu người chi bấy hoá công,
Làm cho đau khổ mấy trùng được sao.
Tủi thay hổ phận thơ đào,
Ơn sâu nghĩa nặng kiếp nào cho nguôi.
Thần hôn nay đã thiếu rồi,
Ngọt bùi dâng kính nay thời cũng không.
Chí thành con dốc một lòng,
Theo thầy học đạo cố công tu thành.
Mai ngày đạo quả viên thành,
Cả nhà chung hưởng một cành liên huê1.
Mới được đề huề!
(Năm 1949)
Ăn cơm gốc cây
Hôm nao dưới gốc cây này
Cùng ai cơm nắm tính xoay cuộc đời
Chia tay đi khắp phương trời
Biệt vô âm tín ngậm ngùi lòng thương
Một đàn cháu bé dở dang,
Cậy ai dạy dỗ cưu mang qua ngày.
Hôm nay dưới gốc cây này,
Một mình ăn nắm đắng cay mùi đời.
Tâm thành như đuốc sáng ngời,
Tình sương như giục lòng người xa xôi.
Về thôi ! nghiệp đã định rồi,
Em dâu chào bác, thở hơi cuối cùng.
Thương cháu giọt lệ ròng ròng,
Thương mẹ nghìn nỗi đau lòng vì con.
Thương em tê tái lòng son,
Mẹ già, con bé lo tròn làm sao?
Bốn phương dồn dập ba đào,
Non sông tan nát đồng bào xót xa.
Xung phong ai cũng phải ra,
Dân là dân nước, nước là nước dân
Hy sinh trông tấm gương gần,
Nhà là cái vật chi cần phải lo2.
Long lanh mặt nước Tây Hồ!
(Năm 1951)
Khuyên em trai
Ba chín, cái tuổi xông pha
Năm con thơ dại, mẹ già bẩy hai
Anh em kẻ Bắc người Tây
Giữa cơn binh lửa đứt dây sắt cầm
Lão trời thật khéo chơi khăm
Thử xem cái chí, cái tâm nhường nào
Em bắt tay vào !
Xưa nay những đấng anh hào,
Thuyền nan sóng cả cắm sào thung dung
Một mình trời biển mênh mông
Sóng cả mặc sóng, lòng không sờn lòng
Em hãy soi chung!
Khuyên em càng cố gắng công
Như vàng càng dọt càng nung càng già
Sẵn thanh gươm tuệ tay ta
Vung lên một nhát, tà ma tan tành
Bấy giờ mình lại nhủ mình
Trước không phấn đấu, sao thành công đây
Không may, may khéo là may!
(Năm 1949)
Ghi chú: Thiều Chửu có một người em ruột tên là Nguyễn Xuân Nghiêm sinh năm 1910, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 làm Phó Chủ tịch Uỷ ban xã, cuối 1946 được cử làm Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Huyện Đông Anh; về sau, vì bận bịu việc gia đình nên bỏ về nhà trông nom mẹ và vợ con ở nơi tản cư. Thiều Chửu khuyên em nên trở lại hoạt động cách mạng. Ông Nghiêm hi sinh năm 1950 tại Bắc Cạn. Được truy phong liệt sĩ năm 1999.
Quán kỳ âm thanh
Tử sinh kinh cụ trải bao lần,
Càng tỏ uy thần đức Quán Âm
Vẩy nước Dương Chi trừ khổ nạn,
Giương buồm Bát Nhã độ mê tân.
Viên thành mười bốn phương vô uý,
Diệu dụng băm hai cái ứng thân.
Lòng mẹ thương con còn có hạn,
Kể sao cho xiết những hồng ân.
(Phương Tiện số 48, năm 1951)
Sám hối
Rành rành Tổ dạy đã lâu mà,
Tu phải luôn luôn thấy lỗi ta.
Chẳng ghét chẳng yêu lòng phẳng lặng,
Không nhân không ngã đức bao la.
Trên cầu Phật pháp lên đường giác,
Dưới hoá đàn mê thoát lối tà.
Một tấm từ bi nhường biển cả,
Chân như là thế phải chăng a?
(Phương Tiện số 63-64, năm 1952)
Tự tâm
Yêu thì cho vọt ghét cho ăn,
Tục đế còn khôn huống nữa chân.
Hạt gạo nhường non đều vĩnh kiếp,
Đồng tiền tựa bổ nợ bao thân.
Ngày ăn bữa Ngọ tiêu lòng dục,
Tối ngủ bên cây rũ bụi trần.
Quân tử yêu nhau mời nước lã,
Phải chăng soi tỏ diệu thường tâm.
(Phương Tiện số 63-64, năm 1952)
Câu đối Thiều Chửu làm năm 1949
Kết bè Từ lòng Nhân nổi khắp
Phá bến Mê đuốc Tuệ soi chung.
3. Một số bài ca (hát theo điệu nhạc Phật ca)
Chân tu
Người chân tu,
Có công phu,
Có chí thú,
Thêm gian lao,
Càng phong phú,
Lòng thực tu,
Đã chuyên tinh,
Chân như kia,
Dần theo gió mà tường minh.
(Năm 1946)
Lấp biển trầm luân
Từ một thân suy ra muôn giống muôn loài
Quanh co trong bấy luân hồi kia thôi
Như nay đã mất thân rồi, thì thôi
Muôn kiếp nghìn đời trầm luân
Cái biển trầm luân, trầm luân,
Ta đào, ta cuốc cuốc, ta san san,
San mặt biển, cho thành sân.
Giang tay dẫn bước chân
Vui chân ta về,
Ai ơi quyết chí ta ăn thề
Ăn thề, dù đau ốm, dù nguy
Tâm tâm niệm Phật, cùng đi sang ngàn
Đất vàng cây báu, gác sang miếng ngon
Áo đẹp, tâm tuỳ tâm, ta ưa dùng, ai ơi
Tu hành thì nhớ chính chi, nhờ giồng ngay
Quả Bồ đề mênh mang bể khổ trong bè
Sẵn lái ta chèo đi còn sợ nỗi chi!
(Năm 1949)
Thương thay nhân loại
Thương thay nhân loại bao ứng khốc
Loại nào ai tu thì quyết tu đi,
Xung phong vô hồi, tiến thân cho đời,
Băng muôn kiếp tăng kỳ xá chi đường tu
Tinh tiến, lòng không lưu luyến
Người tu mau cầu hạnh phúc cho thế gian
Về sau kia dày công tu đức tài năng
Sung túc Cực lạc xây nền vững muôn đời
Tâm nhất tâm, chúng con thề tu đến nơi
Trong trần ai lo dọn hết chông gai
Đâu có xa,
Tính chân thường chân tính ta,
Gương Thích Ca vằng vặc chiếu gương Nga.
(Năm 1948)
Ca ngợi cụ Hồ
Người sáng suốt, quyết tâm vì dân hiến thân
Cho dưới trời bừng tiếng Nam dân
Làm thế giới biết dân Việt Nam đấu tranh
Tranh đấu cho đời, đời sống quang vinh
Dân nước Nam đòi độc lập
Tranh đấu ba kỳ độc lập,
Sông núi Nam Bộ là xương máu ta
Nam Bắc Trung là một nhà
Trung Bắc Nam là một nhà
Cương quyết bảo toàn non nước Việt Nam.
Vượt mây sang Pháp Lang1
Ngoại giao cho quốc dân
Vì tương lai nhân dân quyết giành tự do
Người vì nước hiến thân, toàn dân ghi khắc ân
Người về đây dân chúng hoan hô.
Ghi chú: Bài này Thiều Chửu viết năm 1946, sau ngày Hồ Chủ Tịch sang Pháp ký Hiệp định sơ bộ về nước. Ông đã dạy cho trẻ Tế sinh tại chùa Cao Phong, Phúc Yên (1947 - 1948).
4. Những bài hát sáng tác cho nhà trẻ
Đu cao
Đu cao, đu cao, đu bổng lên.
Đu giữ cho chắc, cho bền.
Muốn lên mây với gió (hờ),
Muốn lên cây với chim.
Có ai muốn thích đu tiên,
Nhường để cho lên một lần.
(hát lại từ đầu)
(Năm 1950)
Nu na nu nống
Ngồi sòng (song) song duỗi đôi chân ngà,
Đếm cho đều, cho đúng đừng sai.
Chân ai bị đếm cuối bài,
Tình tang tang tính tình,
Bé coi như què.
(Ai rơi đúng chữ què thì phải đứng dậy nhảy lò cò vòng quanh)
(Năm 1950)
Dung giăng dung dẻ
Dung giăng dung dẻ,
Dắt trẻ ra đây,
Đông đủ một bầy,
Vui chơi sung sướng,
Theo đàn bướm lượn,
Trên bãi cỏ xanh,
Hoa quả sai cành,
Ta hái mang về.
(hết chữ về thì giả vờ đưa tay ra phía trước như hái quả)
(Năm 1950)
Cầm tay cho chắc
Đưa chân cho đều,
Bước chân cho đều,
Cầm tay cho chắc,
Nắm tay cho chắc.
Tiếng hát lên cao,
Mất hết xôn xao2
Một đàn trẻ ca hát,
Dắt nhau nhảy vòng.
(Năm 1949)
Đưa tay ra cho xem
Anh em ta ca múa,
Xoè chân xoè tay tinh tươm,
Anh em ta ca, ta múa,
Trước lúc ta đi ra đường,
Nào dơ tay ra cho xem,
Nào đưa tay ra cho xem,
Lay, lay lay, lay lay,
Quay một vòng đứng nghiêm,
thật ngay !
(Năm 1950)
Giã bánh dầy
Nào đều tay, ta nhấc cối ra,
Mau giã mau bánh thơm biếu bà.
Nào đều tay, ta nhấc cối ra.
Mau giã mau bánh nóng bà xơi
Bí bốp, bí bộp.
Bí bốp, bí bộp
Thi nhanh nhanh, tốt tốt,
nhiều nhiều.
Bí bốp bí bộp
Ca vui lên chúng ta thi nào.
(Năm 1950)
Bình luận bài viết