Thông tin

TIỀM NĂNG DU LỊCH CỦA QUẦN THỂ DI TÍCH NHẪM DƯƠNG

TS. NGUYỄN THỊ MINH NGỌC*
TS. NGUYỄN THỊ QUẾ HƯƠNG**

 

1. Khái quát về thiền phái Tào Động và quần thể di tích Nhẫm Dương

Theo Nguyễn Lang, thiền phái Tào Ðộng được truyền vào Ðại Việt từ thế kỷ thứ mười bảy, cả ở Ðàng Ngoài lẫn Ðàng Trong. Thiền phái này có hai thiền sư Ðộng Sơn Lương Giới (807-869) và Tào Sơn Bản Tịch (840-901) sáng lập, vị thứ hai là đệ tử của vị thứ nhất. Ðạo tràng của Bản Tịch là ở Sùng Thọ Viện núi Tào Sơn, Giang Tây. Sau đó một đạo tràng khác được mở tại Ngọc Hà Sơn. Thiền phái Tào Động vào Việt Nam là do thiền sư Thủy Nguyệt sang Trung Quốc theo học phái này mang về. Trong Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang có ghi: Thiền sư Thủy Nguyệt hiệu là Tông Giác, sinh năm 1936. Ông tên là Ðăng Giáp, quê làng Thanh Triều, ở Hưng Nhân, tỉnh Thái bình. Ông tu ở một ngôi chùa trên núi Hùng Lĩnh. Cùng với hai người khác, ông đi qua Hồ Châu, tham học với thiền sư Nhất Cú Tri Giáp tại núi Phụng Hoàng. Ông rời Ðại Việt năm 1664, lúc ông mới hai mươi tám tuỏi. Ông tu học tại Hồ Châu trong ba năm. Ðến năm 1667, ông và hai người đệ tử cùng về, cư trú tại chùa Vọng Lão ở núi An Sơn, huyện Ðông Triều, tỉnh Hải Dương. Ở Hải Dương, ông gặp và làm quen với một cao tăng tên là Tuệ Nhãn. Tuệ Nhãn tu ở Ðông Sơn, tên tục là Mai Tư Phụng, quê ở làng Dưỡng Mông ở Kim Thành, Hải Dương. Vì tu ở chùa làng Dưỡng Mông nên ông được gọi là Tổ Muống. Ở Ðông Sơn, ông dạy rất đông đệ tử. Ông từng được vua Lê sắc phong là "Ðại Thánh Ðông Sơn Tuệ Nhãn Từ Giác Quốc Sư”, nhưng chưa biết vua nào đã sắc phong, và từ năm nào. Thiền sư Thủy Nguyệt cũng từng tới hành đạo ở chùa Tư Phúc, núi Côn Sơn, và chùa Nhẫm Dương ở Hạ Long. Ông mất năm 1704, thọ 68 tuổi. Cố Đại lão Hoà thượng Kim Cương Tử cho rằng: Hoà thượng Thuỷ Nguyệt là tổ đời thứ 36 của Bắc Tông Tào Động và là Đệ nhất tổ của Nam Tông Tào Động. Sư Tổ Thuỷ Nguyệt không chỉ khai nguyên chốn tổ Nhẫm Dương, mà trụ trì chùa Hạ Long (Hải Dương), hoằng dương Phật pháp và độ tăng ở Côn Sơn, Quỳnh Lâm, Yên Tử, Đông Sơn…Cũng theo cố Đại lão Hoà thượng Kim Cương Tử thì Hoà thượng Thủy Nguyệt còn là Tổ khai sáng chùa Hoè Nhai (Hồng Phúc tự) ở phố Hàng Than, quận Ba Đình, T.p Hà Nội.

Nguyên tắc cơ bản của Tào Động là nguyên tắc ngũ vị: giữa thẳng (chính) và nghiêng (thiên). Ý niệm về địa vị giữa thẳng và nghiêng vốn là của Ðộng Sơn. Tào Sơn đã xếp đặt và trình bày lại ý niệm ấy, và truyền lại cho thế hệ kế tiếp. Thẳng ở đây tượng trưng cho tuyệt đối còn nghiêng tượng trưng cho tương đối. Tống Nho sau này có ý niệm về Lý và Khí rất tương tự với ý niệm về thẳng và nghiêng này. Nguyễn Lang cũng đã tổng kết sự liên hệ giữa Thẳng và Nghiêng làm thành ngũ vị như sau:

1) Cái thẳng đi vào cái nghiêng (Chính trung thiêng): Vì cái Tuyệt Ðối nằm trọn trong cái tương đối nên ta có thể hiểu được cái Tuyệt Ðối qua cái Tương Ðối. Ðộng Sơn có nói: "Trong cái Tuyệt Ðối đã có cái Tương Ðối rồi, nếu không thì hóa ra cái Tuyệt Ðối có trước cái Tương Ðối sao?"

2) Cái nghiêng đi vào cái thẳng (Thiên trung chính). Vì cái Tương Ðối chỉ có thể có do nhờ cái Tuyệt Ðối, cho nên trong cái Tương Ðối phải xáp mặt cho được cái Tuyệt Ðối. Ðộng Sơn lại nói: "Cái Tương Ðối đã có trong cái Tuyệt Ðối rồi, nếu không thì hóa ra cái Tương Ðối có trước cái Tuyệt Ðối sao?"

3) Cái nghiêng trong tự thân của nó (Chính Trung lai). Ðây là cái Tuyệt Ðối trong tư thế tuyệt đối của nó, không được nhận thức qua liên hệ bản thể - hiện tượng. Ðây là pháp thân, là chân như.

4) Cái nghiêng trong tự thân cả nó (Thiên trung chi). Ðây là cái Tương Ðối trong tư thế tương đối của nó, không được nhận thức qua liên hệ bản thể - hiện tượng. Ðộng Sơn ví trường hợp này như là trường hợp hai người đang đấu kiếm với nhau, không bên nào áp đảo được bên nào. Hoặc là một bông sen nở trong lò lửa, không hề bị lửa cháy xém. Người đạt đến vị trí này là người đã thâm nhập thế giới pháp thân và trở ra tung hoành nơi thế giới hiện tượng.

5) Cái thẳng và cái nghiêng trong cùng một tự tính (Kiên trung đáo). Tới vị trí này thì mọi phân biệt giữa Tuyệt Ðối và Tương Ðối, bản thể và hiện tượng, không còn nữa.

Năm vị trí giữa thẳng và nghiêng cũng được giải thích bằng năm sự liên hệ giữa vua và tôi (ngũ vị quân thần). Có vua là vì có bầy tôi, có bầy tôi là vì có vua:

1- Vua trông thấy bầy tôi.

2- Bầy tôi hướng về vua

3- Vua (một mình)

4- Bầy tôi (một mình)

5- Vua và bầy tôi (bên nhau).

Sau này trong phái Tào Ðộng, những chủ trương sau đây dần dần lại được hình thành:

1) Chỉ cần ngồi thiền mà không cần chủ đề thiền tọa (chỉ quán đả tọa)

2) Ngồi thiền và đạt đạo là một việc chứ không phải là hai (tu chứng nhất như)

3) Không trông chờ sự chứng đắc (vô sở đắc)

4) Không có đối tượng giác ngộ (vô sở ngộ)

5) Tâm và thân nhất như (thân tâm nhất như)

Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Lang đã ghi thiền sư Thủy Nguyệt từng có thời kỳ tu tại chùa Nhẫm Dương, Hải Dương. Hiện nay, chùa Nhẫm Dương, tên chữ chùa Thánh Quang thuộc địa bàn thôn Nhẫm Dương, xã Duy Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương được coi là chốn tổ của Tào Động. Theo Cố Đại lão Hoà thượng Thích Trí Hải (1906-1979), một bậc cao Tăng, long trượng để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trên trang lịch sử Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX thì: vào năm Giáp Thân niên hiệu Chính Hoà thứ 20, đời Lê Huy Tông (1704), Hoà thượng Thủy Nguyệt bước sang tuổi 68, cho gọi các đệ tử đến và dặn rằng: "nay ta lên chơi trên núi Nhẫm, nếu 7 ngày không thấy về, thì các ngươi tìm thấy chỗ nào có mùi thơm thì ta ở đấy”. Các đệ tử, tứ chúng đợi đúng 7 ngày mà không thấy Hoà thượng nhập thất bèn chia nhau nương theo mùi thơm lên núi vào hang vạch cỏ tìm kiếm và phát hiện thấy Ngài như đang thiền định trên một tảng đá trong hang núi. Tới nơi thấy thân thể vẫn còn nóng ấm, mền mại, sắc diện hồng hào như đang còn sống, nhưng hơi thở đã tắt lịm và từ cơ thể vẫn toả ra hương thơm ngào ngạt mùi trầm bạch đàn. Hôm đó là ngày 6 tháng 3 năm Giáp Thân (1704).

Chùa Nhẫm Dương được xây dựng từ thời nhà Trần (1225-1400). Quần thể di tích chùa có khoảng gần 30 hang động lớn nhỏ tạo thành một cảnh Phật toàn bích. Đáng quan tâm là động (hang) Thánh Hoá, nơi Sư Tổ Thuỷ Nguyệt viên tịch.

2. Giá trị du lịch tâm linh của quần thể di tích Nhẫm Dương

Quần thể di tích chùa Nhẫm Dương là một cụm di tích chứa đựng nhiều dấu ấn văn hóa Phật giáo của nước ta, chốn tổ một trong những dòng phái thiền - dòng thiền Tào Động. Đây là một khu vực có giá trị to lớn để phát triển du lịch tâm linh. Những năm gần đây, hình thức du lịch tâm linh ngày càng được người Việt Nam ưa thích. Đây là loại hình du lịch không còn là mới mẻ với người Việt.  Du lịch tâm linh là một loại hình du lịch đặc biệt. Bên cạnh việc đi cho biết đó biết đây nhằm mở mang kiến thức về thiên nhiên và con người nơi mình đến du lịch tâm linh còn hướng đến việc thỏa mãn nhu cầu tâm linh cá nhân. Du lịch tâm linh như vậy còn là một liệu pháp xả stress rất hiệu quả. Ngày nay, đời sống con người quá nhiều tất bật, quá nhiều bận rộn lo toan, quá nhiều cạnh tranh trên mọi mặt đời sống v.v… khiến cho con người luôn phải chịu nhiều sức ép từ cuộc sống, du lịch tâm linh chính là cứu tinh mang đến cho con người những giờ phút thong dong, tạm quên những phiền toái đời thường để tận hưởng cái đẹp của cuộc sống. Có thể nói du lịch tâm linh là một loại hình du lịch văn hóa, lấy yếu tố tâm linh vừa làm cơ sở vừa làm mục tiêu thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người trong đời sống tinh thần. Cuộc sống con người thì ai cũng mưu cầu hạnh phúc, công danh, sự nghiệp, tình cảm nhưng đâu phải ai cũng được như mong muốn, cho nên khi không được như mong ước thì người ta tìm đến với tâm linh. Khi mưu cầu không được thì người ta sẽ đau khổ, khi đó người ta lại dựa vào tâm linh. Cùng với sự phát triển của tôn giáo, của du lịch, du lịch tâm linh hiện đang là một như thức du lịch được nhiều người lựa chọn.

Du lịch tâm linh nhằm thỏa mãn nhu cầu giao tiếp với môi trường tự nhiên, xã hội, hướng về cội nguồn, hưởng thụ sinh hoạt văn hóa... có thể là cuộc hành hương đến đền chùa, thăm các cơ sở tôn giáo, các tuyến đường lịch sử văn hóa liên quan đến các di sản hữu hình và vô hình như lễ hội, âm nhạc, sân khấu, ẩm thực, nghỉ tại nhà dân và tiêu dùng các sản phẩm du lịch được tạo ra bởi sự sáng tạo của con người. Đầu tư cho du lịch tâm linh vừa đạt được nhu cầu thưởng thức tự nhiên của du khách, vừa thu được lợi nhuận, tạo công ăn việc làm cho người dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang dịch vụ một cách hiệu quả.

Việt Nam có nhiều tiềm năng và thế mạnh để phát triển du lịch tâm linh, thể hiện ở bề dày văn hóa gắn với truyền thống, tôn giáo, tín ngưỡng và sự đa dạng, phong phú của các thắng tích tôn giáo cũng như số lượng lớn các tín ngưỡng, lễ hội dân gian được tổ chức quanh năm trên phạm vi cả nước. Bên cạnh đó, nhu cầu du lịch tâm linh của người Việt Nam đang trở thành động lực thúc đẩy du lịch tâm linh phát triển.

Hoạt động kinh doanh, đầu tư vào du lịch tâm linh ngày càng mạnh, thể hiện ở quy mô, tính chất hoạt động của các khu, điểm du lịch tâm linh. Ngày càng nhiều các điểm du lịch tâm linh ra đời và phát triển tại các địa phương, vùng miền trên phạm vi cả nước, tiêu biểu như: Đền Hùng (Phú Thọ), Yên Tử (Quảng Ninh); Chùa Hương (Hà Nội); Phát Diệm (Ninh Bình); Núi Bà Đen, Thánh Thất Cao Đài (Tây Ninh); Chùa Bái Đính (Ninh Bình); Miếu Bà Chúa (An Giang); Côn Sơn – Kiếp Bạc (Hải Dương)…

Đặc biệt, du lịch tâm linh gần đây cũng đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng chung của ngành du lịch. Theo thống kê, năm 2012, du lịch gặt hái thành quả ấn tượng với 6,8 triệu lượt khách quốc tế, 32,5 triệu lượt khách nội địa, tổng thu du lịch đạt 160.000 tỷ đồng. Trong số 32,5 triệu lượt khách nội địa, có khoảng 13,5 triệu lượt khách đến với các điểm du lịch tâm linh, tương đương 41,5%. Một số điểm du lịch tâm linh tiêu biểu năm 2012 đón một lượng khách lớn như Miếu Bà Chúa Xứ An Giang (3,6 triệu lượt khách), Chùa Hương (1,5 triệu lượt); Chùa Bái Đính (2,1 triệu lượt)…

Thực tế cho thấy, nhu cầu và các hình thức du lịch tâm linh ngày càng đa dạng, không chỉ giới hạn trong khuôn khổ hoạt động gắn với tính tôn giáo mà ngày càng mở rộng tới các hoạt động, sinh hoat tinh thần, tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc và những yếu tố linh thiêng khác. Hoạt động du lịch tâm linh ngày càng chủ động, có chiều sâu và trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của đại bộ phận người dân.

Du lịch tâm linh cũng đem lại nhiều giá trị xã hội. Đặc biệt, sự phát triển của du lịch tâm linh trong thời gian gần đây còn tạo nên sự thay đổi rõ rệt trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, từ nông nghiệp sang kết hợp dịch vụ, góp phần cải thiện đời sống người dân thông qua việc tạo ra công ăn việc làm và thu nhập trực tiếp từ các dịch vụ phục vụ du lịch. Những nơi có du lịch tâm linh, người dân vùng đó có điều kiện để cải thiện đời sống kinh tế. Không thể phủ nhận, nhiều người dân xung quanh khu vực du lịch giầu lên nhờ du lịch. Ví dụ: Lễ hội chùa Hương với số lượng khách hành hương mỗi năm hàng triệu người là nguồn thu nhập chính của người dân hai làng tại địa bàn. Phát triển du lịch tâm linh là giải pháp hữu hiệu để phát triển bền vững thông qua việc tạo công văn việc làm, tăng thu nhập cho cư dân địa phương, tăng cường hiểu biết, giao lưu văn hóa, tìm hiểu thế giới và tạo động lực bảo tồn giá trị truyền thống, tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc.

Giá trị văn hóa Phật giáo Việt Nam sẽ thành giá trị du lịch nếu được khai thác tốt. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2473/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 12 năm 2011 xác định quan điểm, mục tiêu và các giải pháp phát triển, trong đó du lịch văn hóa là một định hướng ưu tiên phát triển. Phát huy giá trị di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam sẽ làm tăng giá trị và đa dạng hóa sản phẩm du lịch. Những giá trị di sản văn hóa Phật giáo thể hiện trong giáo lý, đạo đức Phật giáo, không gian văn hóa, cảnh quan các ngôi chùa, lễ hội và nghệ thuật Phật giáo ở các vùng, miền trên phạm vi cả nước đang làm phong phú thêm sản phẩm du lịch Việt Nam và làm hài lòng khách du lịch, đặc biệt là du khách với mục đích văn hóa tâm linh gắn với đạo Phật. Giá trị di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam có sức hấp dẫn du lịch.      

Có thể khẳng định, di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam đã có những đóng góp xứng đáng vào kho tàng di sản văn hóa phong phú và độc đáo của dân tộc và ngày càng chiếm giữ vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của đại bộ phận nhân dân các dân tộc trên các vùng, miền cả nước. Không những thế di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam đã và đang trở thành nhưng giá trị hấp dẫn, thu hút khách du lịch trong nước và cả khách quốc tế đến Việt Nam.

Theo tiến sĩ Hà Văn Siêu, những giá trị hấp dẫn du lich của di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam có thể nhận diện ở 5 khía cạnh: Thứ nhất, giáo lý Phật giáo từ khi du nhập vào Việt Nam đã được kết tinh, thăng hoa luôn gắn kết nhuần nhuyễn với tín ngưỡng, phong tục, tập quán văn hóa bản địa các dân tộc, vùng miền Việt Nam. Sự hòa đồng, tính khoan dung và tinh thần dân chủ, bình đẳng của Phật giáo đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho tất cả mọi người bất kể thành phần nào, giàu hay nghèo. Sự hiện diện của Phật giáo luôn gắn liền với cuộc sống dân giã của quần chúng với hình ảnh những ngôi chùa thờ Phật gắn với làng xã Việt Nam. Sự quần chúng hóa ấy tạo lên sức mạnh vô biên của Phật giáo có ảnh hưởng rộng rãi tới xã hội và càng hấp dẫn du khách thập phương. Khách hành hương bất cứ từ đâu tới, đến với Phật giáo ở bất cứ đâu đều tìm thấy chỗ đứng của mình hòa đồng trong thế giới Phật giáo. Tinh thần hòa đồng quần chúng ấy là cơ sở quan trọng thu hút du khách trong các chương trình du lịch gắn với Phật giáo.

Thứ hai, giá trị phi vật thể của di sản văn hóa Phật giáo thể hiện ở khía cạnh giá trị văn hóa, đạo đức. Đạo đức Phật giáo thể hiện ở nguyện vọng mang lại hạnh phúc và an lạc cho nhân sinh mà phải tự lực phấn đấu, đề cao lòng từ bi, vô ngã - vị tha, làm điều thiện, ngừa điều ác. Phật giáo luôn khuyến khích chúng sinh “tự độ độ tha, tự giác giác tha”, không phân biệt giữa ngã nhân (ta) và tha nhân (người khác). Tứ đại vô lượng tâm: từ, bi, hỉ, xả của Phật giáo là liều thuốc làm trong sáng hơn đời sống tinh thần. Với tư tưởng khoan dung, hòa bình, khuyến thiện, ngừa ác, Phật giáo góp phần thức tỉnh lương tri con người, làm cho con người được sống trong hòa bình, nhân ái, chủ động phòng ngừa cái ác, giúp cho con người gần gũi nhau hơn và dễ đến với nhau hơn.

Đồng thời Phật giáo giúp cho con người hiểu hơn về ý nghĩa và giá trị cuộc sống, tạo ra động lực cho cuộc sống. Giáo lý nhà Phật giúp cho con người biết tạo lập được nếp sống, lối sống chân, thiện, mỹ, đặc biệt là cách nhìn nhận và giải quyết đúng đắn những vấn đề cốt lõi trong đời sống của con người về “sinh, lão, bệnh, tử”, chỉ dẫn cho họ phương cách làm sao để có thêm ý nghĩa của hạnh phúc, an vui về mặt tinh thần bên cạnh các giá trị vật chất thông thường. Hơn thế nữa, giáo lý Phật giáo còn hướng con người trong quan hệ xã hội với con người và quan hệ với thiên nhiên một cách hài hòa và an lành, không làm tổn hại tới thiên nhiên, chúng sinh xung quanh. Ở khía cạnh này Phật giáo mang đến những giá trị tích cực cho cuộc sống về nhận thức, tư duy, sức khỏe và sự an lành, cực lạc trong tâm hồn của con người gắn với thiên nhiên và vì thế nó có sức hấp dẫn mạnh mẽ thu hút khách du lịch.

Thứ bakhông gian văn hóa truyền thống của ngôi chùa kết tinh giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của Phật giáo. Hầu hết các ngôi chùa được lựa chọn xây dựng vị trí vô cùng “đắc địa”, trong một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ đầy biểu cảm, tạo nên những danh lam thắng cảnh độc đáo, môi trường thanh tịnh đậm chất thiên nhiên.

Thứ tư, lễ hội Phật giáo là những sinh hoạt văn hóa với các nghi thức tôn giáo như: Lễ Vu Lan, Đại lễ Phật Đản, Đàn Tràng giải Oan, chạy đàn cầu mưa cho tới tụng kinh niệm Phật tuần rằm, hàng ngày... Lễ hội Phật giáo là nơi tích hợp các mặt giá trị văn hóa phi vật thể rất phong phú và đa dạng, nơi giao lưu, cộng cảm và liên kết tình thân trong các cộng đồng Phật tử ở từng đạo tràng nói riêng, cộng đồng cư dân ở các làng xã, vùng miền nói chung. Ngoài phần nghi lễ Phật giáo, nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật độc đáo như: diễn Chèo, hát Văn gắn với các tích Phật, tích truyện giàu tính nhân văn, múa Phật giáo (Lục cúng hoa đăng), âm nhạc Phật giáo, các phẩm phục... làm cho lễ hội trở lên vô cùng hấp dẫn về giá trị văn hóa, nghệ thuật, tâm linh. Đặc biệt đối với khách du lịch ở khía cạnh này, lễ hội Phật giáo trở thành những sự kiện thu hút những dòng khách đến tìm hiểu, chia sẻ, cùng sinh hoạt và trải nghiệm với cộng đồng Phật tử và người dân bản địa.

Thứ năm, nghệ thuật âm nhạc và mỹ thuật Phật giáo cũng trở thành yếu tố vô cùng hấp dẫn du lịch. Âm nhạc với những phức điệu và âm thanh là những hợp tấu âm thanh rung động trầm lắng, mang sức mạnh mầu nhiệm, tác động tới cả “cõi giới xa xăm”. Tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng tụng kinh, ánh sáng huyền ảo của nến, mùi và khói hương không chỉ là phương tiện chuyển tải lời cầu nguyện của chúng sinh tới đức Phật, mà còn có tác dụng thức tỉnh những năng lực vốn tiềm ẩn trong các Phật tử, đánh thức tâm thiện, nhắc nhở và kêu gọi Phật tính trong con người.

Mỹ thuật Phật giáo có thể thấy rõ nhất trong phong cách nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc trong các ngôi chùa, xứng đáng được tôn vinh là những bảo tàng nghệ thuật mà du khách có thể chiêm ngưỡng. Trong mỗi ngôi chùa ngoài vẻ đẹp, tinh tế của các họa tiết kiến trúc, điêu khắc còn thấy được nghệ thuật cấu trúc bày trí theo thuyết lý của Phật giáo trong mối tương quan con người trong vũ trụ “thiên-địa-nhân” mang tính hệ thống và tổng hợp, gắn bó hữu cơ giữa kiến trúc, điêu khắc, hội họa và cảnh trí thiên nhiên. Sự sắp xếp theo một trật tự nhằm chuyển tải lịch sử tư tưởng Phật giáo sao cho mọi tín đồ có thể vừa chiêm bái, vừa được tiếp nhận nhiều tri thức về đạo Phật. Không gian tạo hình trong chùa Phật chứa đựng hàm lượng thông tin phong phú, mang tính khái quát, hình tượng cô đọng, tinh tế. Nhờ kết hợp giữa lý trí và tình cảm, giữa trí tuệ và cảm xúc, nhờ những hình tượng nghệ thuật vừa khái quát mang tính biểu trưng mà không gian văn hóa trong chùa Phật thường xuyên có tác dụng giáo dục, hun đúc nhận thức và tình cảm của chúng sinh, qua đó mang lại cho con người cảm giác hạnh phúc đầy nhân tính, thánh thiện. Đây là yếu tố hấp dẫn mang lại giá trị thụ hưởng, giá trị trải nghiệm cho du khách mỗi khi chiêm bái và tiếp nhận thần thái của không gian nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, kết cấu bày trí, âm điệu và hương sắc trong không gian văn hóa các ngôi chùa Phật giáo.

Quần thể Nhẫm Dương là một trong những địa danh có tiềm năng du lịch tâm linh to lớn. Chùa được xây dựng từ thời Trần (1225-1400). Chùa Nhẫm Dương có khoảng gần 30 hang động lớn nhỏ bao quanh tạo thành một cảnh Phật toàn bích. Nổi bật nhất là tại động (hang) Thánh Hoá, nơi Sư Tổ Thuỷ Nguyệt viên tịch, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được rất nhiều di cốt hoá thạch cùng nhiều di vật khảo cổ thời đại đồ đá, thời đồng thau và các pho tượng Phật bằng đá có niên đại thời nhà Nguyễn. Địa tầng văn hoá ở đây dày tới 4m vẫn đang chờ giới Khảo cổ học đánh thức, khám phá. Khu hang động Khảo cổ học chùa Nhẫm Dương và một số hang động, nằm ở thôn Nhẫm Dương, xã Duy Tân, huyện Kinh Môn (Hải Dương) được hình thành do sự biến đổi của tự nhiên từ hàng triệu năm trước. Hệ thống núi đá vôi, các hang động và cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ là những kiệt tác đẹp hiếm có của Hải Dương. Khu di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia theo Quyết định số 15/QĐ- BVHTT ngày 14/4/2003 của Bộ Văn hóa- Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).

Chùa Nhẫm Dương còn là một địa chỉ đỏ gắn liền với 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), chùa Nhẫm Dương từng là nơi đóng quân của nhiều cơ quan đơn vị bộ đội. Trong cuộc chiến đấu, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ vào những năm 1965 – 1973, Viện quân y Y7, Quân khu 3 cũng từng sơ tán về núi Nhẫm Dương làm nơi chữa trị cho các thương binh.

Với những giá trị về mặt lịch sử, văn hóa chùa Nhẫm Dương đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2003. Là chốn tổ của một nhánh phái thiền lớn có lịch sử lâu đời trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, quần thể di tích Nhẫm Dương là địa danh văn hóa tâm linh dành cho những ai muốn tìm hiểu sâu về lịch sử Phật giáo Việt Nam. Đến với Nhẫm Dương, chúng ta không chỉ đến với thiền phái Tào Động mà còn đến với di tích chùa Hang, và quần thể di tích thuộc dòng phái Tào Động vùng này. Chúng tôi cho rằng, nếu được khai thác hợp lý, quần thể di tích Nhẫm Dương có điều kiện trở thành một trung tâm du lịch tâm linh vùng Yên Tử, góp thêm một địa danh du lịch cho những ai thích khám phá văn hóa Phật giáo Yên Tử. Trong quần thể này hiện còn nhiều di tích đang chờ các nhà khảo cổ khám phá.

3. Kết luận

Tào Động là thiền phái do hai nhà sư Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bản Tịch sáng lập được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ 17. Người đưa dòng phái này vào Việt Nam là Hòa thượng Thủy Nguyệt. Sau thời gian tu học tại Trung Quốc, ông và đệ tử cùng về, cư trú tại chùa Vọng Lão ở núi An Sơn, huyện Ðông Triều, tỉnh Hải Dương. Ông là Tào Động đời thứ 36 và là người khai nguyên chốn tổ Nhẫm Dương.

Vị trí chốn tổ Tào Động của chùa Nhẫm Dương đã được khẳng định trong các tài liệu lịch sử. Hiện nơi đây còn nhiều di tích gắn với thiền sư Thủy Nguyệt như hang Thánh hóa, tượng ngài được thờ trong nhà tổ.... Những di tích này khẳng định giá trị văn hóa tâm linh to lớn của chùa. Có thể khẳng định, quần thể di tích chùa Nhẫm Dương và hệ thống các chùa thuộc dòng phái Tào Động khu vực Tây Yên Tử là một cụm di tích có tiềm năng du lịch tâm linh đáng được quan tâm khai thác. Theo chúng tôi, cụm di tích này sẽ mang lại những giá trị văn hóa, lịch sử Phật giáo Việt  Nam cho những người quan tâm.



* Phó viện trưởng, Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm KHXHVN.

** Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm KHXHVN.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 18)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 17)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 16)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 146
    • Số lượt truy cập : 7269031