Thông tin

TÌM HIỂU Ý NGHĨA HAI BÀI THƠ KHUYẾN TU

 CỦA SA MÔN KHOAN DỰC

 

PGS. TS. NGUYỄN TÁ NHÍ*

 

Trong bài Cảnh sách chi lưu do Sa môn Khoan Dực biên soạn năm Nhâm Thân (1692) niên hiệu Chính Hòa thứ 13 đời Lê Hy Tông được kết thúc bằng hai bài thơ Khuyến tu theo thể Đường luật, một bài bằng chữ Hán, một bài bằng chữ Nôm. Lần tìm trong thư tịch cổ, ít khi thấy người xưa sáng tác liền một lúc hai bài thơ Đường luật như thế này, chắc hẳn Thi nhân phải gặp một hoàn cảnh bức xúc ngặt nghèo ghê gớm, hoặc chịu tác động của ngoại cảnh từ nhiều phía, nên mới có được một cảm xúc mạnh mẽ bồng bột trào dâng để có đủ sức viết liền một mạch như thế.

Theo sách Cẩm tuyền vinh lục lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm ký hiệu AB.920 cho biết năm 1718, Ứng quận công Đặng Đình Tướng được nhà Chúa cho về nghỉ dưỡng nhàn, ông liền làm hai bài thơ luật gửi tặng các quan đồng triều. Sách Đặng gia thế phả cho biết Đặng Đình Tướng người làng Lương Xá huyện Chương Đức trấn Sơn Nam, nay thuộc huyện Chương Mỹ thành phố Hà Nội. Năm 1670 ông 21 tuổi thi đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân, làm quan trải thăng đến Tả thị lang bộ Lại, Thiếu phó Tá lý công thần. Bấy giờ do nhu cầu của triều đình cần có người xuất thân khoa bảng đảm nhận công việc binh nhung, nên đến tháng 3 năm 1705 Tả thị lang bộ Lại Đặng Đình Tướng được điều động sang giữ chức Tả đô đốc ở phủ Đô đốc đạo Tây quân, tước phong Ứng quận công, cho ra làm Trấn thủ xứ Sơn Nam đóng tại phố Hiến. Năm 1718 ông đến tuổi cổ lai hy, liền dâng khải xin Chúa cho về nghỉ hưu. Do giầu nặng tình nghĩa với cả các quan hàng Văn ban và các quan hàng Võ ban, nên Thi nhân Đặng Đình Tướng làm liền một lúc hai bài thơ quốc âm theo thể Hàn luật gửi lại tặng cho các quan đồng liêu thời bấy giờ.

Bài thứ 1. TẶNG VĂN BAN

Bảy mươi viện lẽ mặc xin nhàn,

Mượn luật Hàn Thuyên tạ bách quan.

Bẻ trúc còn ghi văn thiết khoán,

Gieo trâm vì lọt ước thanh san.

Côn bằng mừng gióng tài Y Lão,

Câu quạnh vui riêng thú Lã bàn

Nghiêu Thuấn quân dân đời chợt thấy

Hai nơi cùng thỏa tầng niềm đau.

Bài thứ 2. TẶNG VÕ BAN

Tới lui từng học dấu tiên hiền,

Dám mếch thanh nhàn hỏi thú tiên.

Trên ngắm vẻ khuê mừng thái vận,

Gần xem phong tuyết nghiệm phong niên.

Giường cột trong, đổng tài kinh quốc,

Nanh vuốt ngoài, đào súc tĩnh biên.

Tạ sự hằng ghi lời cộng sự,

Thỏa duyên tương ngộ lọn mười nguyền.

Do tình cảm sâu nặng dồn nén suốt gần nửa thế kỷ, nên quan Đốc trấn xứ Sơn Nam Đặng Đình Tướng đã có đủ dũng khí để làm liền một lúc hai bài thơ quốc âm, mỗi bài một vẻ. Bài gửi cho Võ ban lời thơ chân chất mộc mạc, còn bài gửi cho Văn bản lại có cấu tứ cầu kỳ, dùng nhiều điển cố. Chẳng hạn như luật thơ Hàn Thuyên mà tác giả nói đến trong bài thơ tặng Văn ban này có liên quan đến sự kiện Thi sĩ Nguyễn Thuyên làm văn tế cá sấu đời Trần. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép, năm Nhâm Ngọ (1282) có cá sấu đến bến Bồ Đề, vua Trần Nhân Tông sai Thượng thư bộ Hình Nguyễn Thuyên làm văn thả xuống sông, cá sấu tự nhiên bỏ đi. Vua Trần thấy việc này gần giống với việc Hàn Dũ đời Đường từng làm, nên ban chiếu cho Nguyễn Thuyên đổi ra họ Hàn. Nguyễn Thuyên người huyện Thanh Lâm trấn Hải Dương, có tài làm thơ quốc ngữ, nhiều người học làm theo. Vì thế sau này làm thơ quốc âm, người ta gọi là thơ Hàn luật. Đó là lý do mà Thi sĩ Đặng Đình Tướng gọi là luật Hàn Thuyên, trong bài thơ.

Cũng thời gian này Chúa Minh Vương Trịnh Cương cũng từng làm hai bài thơ Đường luật tặng đoàn sứ bộ đi sứ sang nhà Thanh, do Hữu thị lang bộ Binh Nguyễn Công Hăng làm chánh sứ. Tại sao nhà Chúa lại viết liền một lúc hai bài thơ luật để dặn dò sứ thần ? Bởi lẽ đoàn sứ bộ do Hữu thị lang Nguyễn Công Hãng dẫn đầu phải gánh vác một trách nhiệm rất lớn lao là đi cáo phó tang lễ vua Lê Hy Tông và đi cầu phong cho vua Lê Dụ Tông. Công việc này đáng ra phải thực hiện từ nhiều năm trước, song chính quyền Lê Trịnh đã để muộn màng quá mức. Sau này các sử gia đời Nguyễn có nhận xét phê phán rất nghiêm khắc chuyến đi sứ này:

“Lúc ấy chính quyền do họ Trịnh nắm giữ. Vua Lê Dụ Tông đã lên ngôi, hàng năm sai sứ sang nhà Thanh vẫn dùng tên húy của vua Lê Hy Tông, thế thì vua Dụ Tông dầu đã lên ngôi, vẫn coi như chưa lập. Còn việc vua Hy Tông mất đến lúc này đã mãn tang rồi mới nhân việc tuế cống mà sang cáo phó, mà sang cầu phong. Sự việc hệ trọng đến mức vua trước mất đi, vua sau nối ngôi, mà làm còn qua loa như thế, huống hồ là việc khác, chẳng nói làm gì !”

Do tính chất nghiêm trọng như vậy nên Minh Vương Trịnh Cương đã dặn đoàn sứ thần bằng hai bài thơ luật.

Bài thứ 1 (viết bằng chữ Hán)

Hoàng đạo thanh di, diệu sứ tinh,

Minh thời trọng tuyển thuộc thời anh.

Vân tiên chỉ xích khâm Chu bệ

Nhật lộ tam thiên vũ Hán tinh.

Bão phụ trung thành xa phượng khuyết,

Kích ngang từ sắc bá Yên kinh.

Tân ân cựu phục cung thiên chỉ

Hảo phụng quy lai điệp quốc vinh.

Nghĩa là:

Đường lớn thênh thang rạng rỡ sứ thần

Vua sáng chọn được sứ giả tài giỏi.

Văn thư trình lên bệ vua Chu gang tấc

Đường sứ đến đất Hán dài ngàn dặm.

Mang lòng trung đi đến thiên triều

Khí thế hiên ngang sang tới Yên kinh.

Ân huệ mới ban cho đất cũ đều cậy ý trời,

Những mong sứ bộ mang lại vẻ vang cho đất nước.

Gửi đi bài thơ Đường luật rồi, nhà Chúa vẫn có gì đó chưa thực an tâm, nên đã soạn thêm bài thơ Hàn luật để căn dặn đoàn sứ thần.

Bài thứ 2 (viết bằng chữ Nôm)

Đá vàng là tiết, sắt là lòng,

Khắn khắn thư này việc hiếu trung.

Nghĩa lợi ổn tường trong vấn đáp,

Kinh quyền nhậm thấu ý quan phòng.

Giá cao ắt thấy xem lân phượng,

Thế trọng thêm bền bẵng Thái, Tung.

Công thấy kíp nên, danh kíp toại,

Đã đành một vẹn chữ hưu đồng.

Lời dặn dò của nhà chúa đã được các sứ thần nhận biết rất sâu sắc qua bài khải tạ ơn của sứ thần Nguyễn Công Hãng chép trong sách Lịch triều tạp kỷ:

“Khi bè sứ sắp vượt trùng khơi thì bọn thần vào từ biệt ở bệ rồng, tai nghe được lời ngọc vàng ôn tồn phủ du, tự mình đón nhận bài thơ của chúa ban cho. Nét chữ đẹp như rồng bay phượng múa, lời thơ rạng rỡ như mặt trời tinh tú. Văn vẻ như sao Khuê sao Bích, óng ả như ráng như mây. Vang vọng đâu đây như bài ca đời Ngu Thuấn còn lại, lấp lánh như thơ Đại Nhã, Tiểu Nhã đời Chu vẫn truyền. Trong thơ nhà Chúa căn dặn bọn thần phải giữ đạo hiếu trung, song ngặt vì bọn thần là lũ tầm thường vụng dại, chẳng biết làm thế nào để đền đáp! Trong thơ nhà Chúa chúc cho bọn thần được công thành danh toại, song bọn thần là lũ hèn mọn ngu tối, chẳng biết làm cách nào để báo đáp ? Trong lúc đón nhận thơ Chúa, bọn thần vừa mừng vừa lo, làm sao để có được chút công danh đền ơn cha mẹ, làm sao để có được chút thành tích để đền ơn Chúa !”

Lời khải dâng Chúa của sứ thần Nguyễn Công Hãng đã phô diễn hết lời hay ý đẹp của hai bài thơ của Chúa Trịnh Cương, đồng thời cũng nói rõ hết tầm quan trọng của việc viết liền một lúc hai bài thơ luật.

Trở lại với hai bài thơ luật của Sa môn Khoan Dực viết năm 1692, chúng ta cũng có thể ý thức được tầm quan trọng của hai bài thơ Khuyến tu ấy.

Bài thứ 1 (viết bằng chữ Hán)

Tổ đạo lăng trì lũy noãn nguy,

Khuyến chư nạp tử vật bôn trì

Tứ duyên phong khiếm tùy duyên phận,

Tam học tàng du tập học thì.

Tức Phật tức tâm thiên thượng mục,

Tế nhân tế vật kính trung mi.

Quang hồi tổ diệm thông tam giới

Bất phụ vân am lão cổ chùy.

Nghĩa là:

Tổ đạo nguy nan như trứng để đầu đẳng,

Khuyên các tăng ni chớ có chạy vạy.

Tứ duyên nhiều ít tùy theo duyên phận,

Tam học nổi chìm do lúc rèn tập.

Ấy Phật ấy tâm như mắt trời nhìn

Cứu người cứu vật tựa lông mày trong gương kính

Hãy làm sáng lên ngọn lửa sư tổ soi cả tam giới

Chẳng phụ tiếng chày gióng chuông trên am mây.

Sa môn Khoan Dực đã chỉ cho các tu sĩ Phật giáo biết rằng, thời nay đạo pháp của sư tổ đang suy vi như trứng để đầu đẳng, các môn đệ hãy nên gắng gỏi tu trì. Thế nhưng vẫn e ngại chư tăng có người chưa thấu hiểu, nên Tổ sư đã “Lấy lời quê nhủ các thầy” để viết bài thứ 2

Bài thứ 2 (viết bằng chữ Nôm)

Thấy cơ tang hải ngậm ngùi thay,

Vậy lấy lời quê nhủ các thày.

Bát giáo nên chăm, đừng khắc trễ,

Tứ ân phải nhớ, chớ giờ khuây,

Lòng Thiền sáng suốt ba xe tỏ,

Mùi đạo thơm cho bốn bể hay.

Gồm chở sáu đường tịnh thập loại,

Thuyền từ buồm gấm vượt sang Tây.

Tại sao Tôn sư Khoan Dực phải làm liền một lúc hai bài thơ Khuyến tu? Bởi lẽ rằng Tôn sư đã ý thức được đạo Phật đang bị suy vi. Thời bấy giờ cuộc chiến giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong kéo dài hàng trăm năm, đã thu hút bao nhiêu sức người sức của của cả nước, đổ vào cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy, khiến cho đồng ruộng xơ xác, xóm làng điêu tàn. Dân cả nước đói khổ cơ cực, chùa chiền bị phá hủy, sư tăng không có chỗ cậy nhờ, phải tự mình bươn trải, vì thế Phật pháp thực quá suy vi. Do vậy mà Tôn sư Khoan Dực làm xong một bài thơ Khuyến tu bằng Hán văn rồi, lại làm tiếp luôn một bài thơ Khuyến tu bằng chữ Nôm nữa nhưng khi viết thơ Nôm. Ở đây Hòa thượng lại dùng bằng từ lời quê.

Thời bấy giờ vào khoảng thế kỷ 18 trở về trước, khi muốn diễn tả khái niệm nói lời bình dân bằng tiếng mẹ đẻ, người Việt Nam xưa thường gọi là tiếng quốc âm, tiếng quốc ngữ, chẳng hạn như tập thơ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi, tập thơ của các thi nhân thời Hồng Đức (1470 - 1497) được gọi là Hồng Đức quốc âm thi tập. Ngay cả tập thơ do Minh Vương Trịnh Cương sáng tác, được người đời sau biên soạn cũng gọi là thơ quốc âm với tên gọi là Lê triều ngự chế quốc âm thi. Còn việc gọi thơ quốc âm là lời quê thì phải đợi đến đầu thế kỷ 19, Đại thi hào Nguyễn Du trong khi sáng tác Truyện Kiều mới dùng :

Lời quê chắp nhặt dông dài

Mua vui cũng được một vài trống canh

(Truyện Kiều. Câu 3254)

Thế mà ngay ở cuối thế kỷ thứ 17, trước Đại thi hào Nguyễn Du hơn một trăm năm, Thiền sư Khoan Dực của dòng Thiền Tào Động ở Việt Nam đã biết dùng lời quê để nhắc nhở mọi người phải chuyên cần tu tập. Thiền sư chân thành nhắn nhủ các thầy chùa phải siêng tu rèn, một giây một khắc không được trễ nải, một giờ một phút chẳng được sao nhãng:

Bát giáo nên chăm, đừng khắc trễ,

Tứ ân phải nhớ, chớ giờ khuây.

Có siêng cần chăm tu như thế thì các tu sĩ của dòng Thiền Tào Động mới hoàn thành được bổn phận mà Phật tổ đã giao phó cho:

Gồm chở sáu đường cùng thập loại

Thuyền từ buồm gấm vượt sang Tây.

Con thuyền từ bi của đức Phật phải chở hết thập loại chúng sinh trong lục đạo đi sang Tây Thiên cực lạc. Đó chính là mục đích ý nghĩa cao cả của hai bài thơ Khuyến tu do Sa môn Khoan Dực sáng tác.

Hà Nội, ngày 2 tháng 12 năm 2012

 


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cẩm tuyền vinh lục, ký hiệu A. 920

2. Lê triều ngự chế quốc âm thi, ký hiệu AB.8

3. Lịch triều tạp kỷ, Nxb Khoa học xã hội, năm 1995

4. Từ điển truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, năm 1987

5. Thiền sư Việt Nam, Thành hội Phật giáo Tp Hồ Chí Minh, năm 1992.

6. Thiền uyển kế đăng lục, Nxb Hồng Đức, năm 2015

7. Cảnh Đức truyền đăng lục, Nxb Hồng Đức, năm 2013

8. Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, năm 1993,

9. Từ điển địa danh văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, năm 2004.

10. Từ điển Phật học Hán Việt, Nxb Khoa học xã hội, năm 1992.

11. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Nxb Khoa học xã hội, năm 1993.



* Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Hàn lâm KHXHVN.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 18)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 17)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 16)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 146
    • Số lượt truy cập : 7269045