TỔ ĐÌNH LINH SƠN VỚI DI TÍCH KHẢO CỔ RẠCH NÚI
TỔ ĐÌNH LINH SƠN VỚI DI TÍCH KHẢO CỔ RẠCH NÚI
Ở CẦN GIUỘC - LONG AN
HỮU CHÍ
Tổ đình LINH SƠN
Huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An có hai ngôi chùa cổ:
1/ Chùa Tôn Thạnh gắn liền với nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu ở địa phận xã Mỹ Lộc đã xây dựng trên 200 năm.
2/ Chùa Núi gắn liền với di tích khảo cổ Rạch Núi ở xã Đông Thạnh đã xây dựng trên 150 năm.
Tổ đình Tôn Thạnh
Tôi có duyên tiếp cận chùa Núi nhân chuyến du khảo bằng xe máy sáng 3/2/2017 từ hướng Khu Công nghiệp Hiệp Phước, huyện Nhà Bè qua cầu Tắc Cậu và theo ngõ bến phà Kênh Hàn, xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc để tìm con đường cao tốc Bến Lức - Long Thành đang thi công dựa theo thông tin trên mạng. Khi qua phà “Kênh Hàn”, người bán vé phà mách cho tôi biết ở xã Đông Thạnh, huyện Cần Giuộc có ngôi chùa cổ.
Tổ đình Linh Sơn, tên địa phương gọi là chùa Núi hay chùa Rạch Núi ở Ấp Tây, xã Đông Thạnh, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Chùa Núi được xây cất trên một gò đất cao mà dân địa phương ví như một ngọn núi thấp, cao hơn vùng đất thấp, đất nông nghiệp khoảng 5 - 6m. Dưới chân gò núi đất về hướng Tây có con rạch nhỏ, một nhánh của sông Cần Giuộc bao quanh, dân địa phương gọi là Rạch Núi. Ở hướng Đông gò núi có ngôi trường được đặt tên là Trường Rạch Núi. Cách gò núi vài trăm mét thuộc xã Phước Vĩnh Tây có một cái chợ được đặt tên là chợ Rạch Núi.
Về di tích nơi đây có hai phần để tìm hiểu:
- Di tích văn hóa: Chùa Núi.
- Di tích khảo cổ: Rạch Núi.
Khách thập phương muốn viếng chùa Núi có thể tổ chức theo đoàn đi bằng phương tiện xe hơi loại lớn theo lộ trình: - Từ ngã 4 Nguyễn Văn Linh - LTL 50 (huyện Bình Chánh) TP.HCM theo QL50 về hướng Cần Đước khoảng 25km, đến ngã 4 Chợ Trạm, rẽ trái khoảng 7km đến ngã 4 có trụ sở UBND xã Đông Thạnh, huyện Cần Giuộc, rẽ trái đi thêm 1,2km thì đến chùa Núi.
Di tích Lịch sử - Văn hóa: CHÙA NÚI
Vào năm Đinh Mão 1867, có nhà sư Nguyễn Quới, thường gọi là thầy Rau (vì thầy chỉ ăn rau, ăn đậu thế cơm), trên đường vân du đến phía Nam tỉnh Gia Định thấy một vùng đất có địa thế tốt nên ở lại và xây dựng chùa trên đỉnh gò để tu hành. Tên hiệu của chùa là “Linh Sơn Tự” hay còn gọi là chùa Núi.
Thuở trước, nơi đây còn hoang sơ, nhà cửa thưa thớt, chưa có chợ búa.
Cùng ở với nhà sư có đệ tử Trần Văn Mẩn.
Hai thầy trò tu nơi chùa Núi trong vòng 5 năm thì qua đời.
Thầy Nguyễn Quới là người có công khai sáng nhưng không rõ đạo danh và cũng không biết thầy thuộc hệ phái nào. Sau đó có thầy Minh Nghĩa, hiệu Giám Huyền về chùa. Tuy về sau, nhưng thầy Minh Nghĩa được xem như là tổ khai sơn chùa Linh Sơn. Thầy Minh Nghĩa thuộc phái Lâm Tế dòng đạo Bổn Ngươn đời thứ 38, là huynh đệ với tổ Minh Khiêm, một danh sư nổi tiếng ở Nam bộ thời bấy giờ với danh xưng tổ Núi Sam và đồng thời cũng là tổ đời thứ tư của chùa Giác Lâm ở quận Tân Bình TP.HCM.
Dòng đạo Bổn Ngươn phái Lâm Tế có bài kệ 4 câu như sau:
Đạo Bổn Ngươn thành Phật tổ tiên
Minh như hồng nhựt lệ trung thiên
Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ
Chiếu thế chơn đăng vạn cổ huyền.
Từ ngày thành lập đến nay, chùa Linh Sơn đã trải qua 6 đời tổ. Tổ thứ nhất là Tổ Minh Nghĩa thuộc dòng đạo Bổn Ngươn phái Lâm Tế đời thứ 38. Tổ thứ hai, đời thứ 39 là Tổ Như Đức (Tâm Thọ). Tổ thứ ba là Quản Trị (Trừng Huệ). Tổ thứ tư là Trừng Lễ. Tổ thứ năm là Hồng Nhị (Thiện Lợi). Tổ thứ sáu là Lệ Thắng (Huệ Bạch), trụ trì từ năm 1986 đến nay. Thầy Huệ Bạch từ chùa Giác Lâm ở TP.HCM về Tổ Đình Linh Sơn từ năm 1968. Sau khi Tổ Thiện Lợi tịch vào năm 1986, thầy Huệ Bạch mới thay thế chức trụ trì và là vị sư thông thạo Hán tự.
Chùa được xây theo hình chữ tam gồm: chánh điện, giảng đường và hậu đường. Từ ngày thành lập đến nay, chùa đã trải qua 4 lần trùng tu lớn. Lần thứ nhất vào năm Giáp Thìn 1904, chùa được tu bổ sau vụ bảo lụt năm Thìn. Lần thứ hai vào năm 1926, kế tiếp là vào các năm 1940, 1970 và 1988. Kiến trúc ngôi chánh điện hiện nay do Hòa thượng Thiện Lợi trùng kiến vào năm 1970. Chánh điện được bài trí tôn nghiêm.
Ngôi chùa đã qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn lưu giữ được những yếu tố kiến trúc cổ truyền và hệ thống đồ thờ tự quý hiếm.
Đường lên chùa hiện nay phải qua cổng tam quan, qua sân chùa dài khoảng 30m, hai bên có thiết trí mỗi bên 5 tượng Phật Quan Âm đứng trên tòa sen cầm bình tịnh thủy, sẵn sàng rưới nước cam lồ độ trì cho những Phật tử đến chùa cầu nguyện điều lành. Ở bên trái sân chùa có điện thờ Tam Thế Phật. Theo lối đi bên phải lên một dốc ngắn thoai thoải, rồi bước lên 12 bậc cấp là đến cửa vào chùa.
Chùa thờ 6 vị tổ. Chùa có gần 100 pho tượng, trong đó có nhiều pho tượng cổ. Chùa còn giữ được một số cổ vật như hai bộ ván gõ dài 10m, ngang 2,5m, 1 đại hồng chung, 1 trống lớn…
Bên ngoài chánh điện ở về phía trái có 4 ngôi tháp mộ của các sư tổ.
Di tích Khảo cổ: RẠCH NÚI
Khu di tích khảo cổ Rạch Núi là một gò đất rộng khoảng 1 hecta, mặt bằng như một hình tròn, đường kính trung bình khoảng 100m, cao hơn 6m so với mặt đất tự nhiên, xung quanh có rạch bao bọc. Trên mặt gò đất có nhiều cây cổ thụ rất xanh tươi, bao quanh là Rạch Núi, một con rạch nhỏ, nhánh của sông Cần Giuộc (sông Rạch Cát).
Cuộc khai quật lần thứ nhất di tích Rạch Núi được Sở Văn hóa - Thông tin Long An phối hợp với Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1978. Hiện vật thu thập được rất đa dạng, ghi nhận rằng di tích nầy có tầng văn hóa dày đến 5 m, có tính chất liên tục, không gián đoạn. Hiện vật thu thập được rất phong phú, đa dạng, gồm có: những công cụ bằng đá, bằng xương, các loại đồ dùng bằng đất nung, đồ gốm (có đến hàng vạn mảnh). Về niên đại khảo cổ của di tích Rạch Núi, các nhà khảo cổ học nhận định rằng đây là di tích thời đại “hậu kỳ đá mới -
sơ kỳ đồng” ở lưu vực sông Đồng Nai - Vàm Cỏ. Nhóm hiện vật đặc trưng nhất ở đây là bộ sưu tập công cụ có vai làm bằng “yếm rùa” lần đầu tiên được phát hiện ở nước ta. Ngoài ra, cuộc khai quật còn phát hiện di cốt nhiều loại động vật và vỏ các loại nhuyễn thể (sò và ốc).
Cuộc khai quật di tích Rạch Núi lần thứ hai từ tháng 1 đến tháng 2 năm 2003 do Bảo tàng Long An hợp tác với Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đã có thêm những phát hiện mới về di vật như rìu vai, vòng tay bằng yếm rùa, đồ trang sức bằng vỏ sò ốc; nhiều công cụ chế tác đá như hòn ghè, bàn mài, hàng vạn mảnh gốm cổ, trong đó có những mẩu gốm thể hiện mối quan hệ với gốm ở các di tích tiền sử thuộc khu vực đất xám trên phù sa cổ An Sơn, Lộc Giang (Đức Hòa).
Trong khu di tích còn có ngôi mộ cổ Nguyễn Văn Mỹ - Quan thần đại phu chính trị thời Kiến Hưng Quốc (đời nhà Lê), tọa lạc ở phía Đông Nam chân gò Rạch Núi, đang được bảo tồn nguyên trạng và ngôi chùa cổ Linh Sơn.
Ngôi mộ Quan thần đời nhà Lê nằm trong di tích Rạch Núi.
Theo giám định cho biết có các loài động vật như khỉ, vọc, chó, mèo, báo, chồn, heo rừng, heo nhà và chó nhà. Bên cạnh đó là các loài động vật sống trong nước mặn và nước lợ như cá, sò, ốc, chem chép, rùa và cua biển. Trong tầng văn hóa của di tích còn có nhiều lớp than tro, màu sắc khác nhau nằm xen kẽ, thể hiện rằng đây là những bếp lửa cổ của cư dân thuở ấy.
Dựa trên tư liệu và hiện vật phát hiện được từ hai cuộc khai quật trên, có thể nhận định rằng di tích khảo cổ học Rạch Núi có thể đã được khởi dựng cách nay khoảng 3.000 năm. Từ trên một vùng gò thấp ven biển, xung quanh là đầm lầy, rừng ngập mặn, những chủ nhân đầu tiên của vùng đất này đã tụ cư và thể hiện nhiều sáng tạo trong việc khai thác mọi nguồn sản vật tự nhiên từ sông - biển, để lại những tầng lớp văn hóa vật chất, những bếp lửa sinh hoạt thời tiền sử, những kiểu công cụ lao động đặc sắc, có giá trị khoa học.
Trải qua vài trăm năm, nơi cư trú của những cộng đồng cư dân cổ ở đây đã trở thành một gò “núi đất” giữa cánh đồng phù sa trủng thấp, chứa đựng những thông tin khoa học quan trọng về một nền văn minh cổ thời đại “hậu kỳ đá mới - sơ kỳ đồng” ở lưu vực sông Đồng Nai - Vàm Cỏ.
Di tích Rạch Núi nằm trong hệ thống các di tích khảo cổ học ở Long An, với giá trị lịch sử - văn hóa, ý nghĩa khoa học và nhân văn, nơi ghi dấu đậm nét quá trình mở đất dựng nghiệp của người xưa trên vùng đất sình lầy ven biển, đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa quốc gia theo quyết định số 38/1999-QĐ-BVHTT ngày 11 tháng 6 năm 1999.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 23 – THÁNG 1 NĂM 2018 (PL. 2561)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 22 – THÁNG 10 NĂM 2017 (PL. 2561)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 21 – THÁNG 7 NĂM 2017 (PL. 2561)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 20 – THÁNG 4 NĂM 2017 (PL. 2560)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 19 – THÁNG 1 NĂM 2017 (PL. 2560)
- ĐÓN XEM TỪ QUANG TẬP 19
Bình luận bài viết