Thông tin

TỔ KHÁNH HÒA, MỘT TẤM GƯƠNG CAO ĐẸP

 

PGS.TS. TRẦN HỒNG LIÊN*

 

Với chủ trương ôn hòa, có tính nhẫn nại, suốt đời hy sinh, hiến thân cho đạo pháp, tránh tranh luận, tránh bút chiến, Hòa thượng Khánh Hòa đã cùng một số tăng sĩ có hoài bão thực hiện được nhiều thành tựu đáng kể cho phong trào chấn hưng Phật giáo cả nước và Nam kỳ nói riêng.

Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam là một cuộc cải cách lớn có tiếng vang cả nước, mang lại một số thành tựu cơ bản, tạo bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của Phật giáo Việt Nam (PGVN). Nói đến phong trào chấn hưng, tăng ni Phật tử đều nhớ đến Hòa thượng Khánh Hòa, liên tưởng đến công lao đặt nền móng buổi đầu, tạo điều kiện tốt đẹp, thuận lợi để phong trào hình thành, phát triển. Như vậy, để làm rõ hơn những đóng góp, cống hiến của Hòa thượng cùng với sự hợp tác của nhiều tăng sĩ thời bấy giờ, cần thiết hiểu rõ bối cảnh, tình hình Phật giáo trong nước đầu thế kỷ XX, cùng những hoạt động thúc đẩy sự hình thành phong trào và những bước chuyển hướng đưa phong trào hòa nhập vào dòng chủ lưu của cuộc chiến tranh vệ quốc sôi nổi giữa thế kỷ XX.

Câu hỏi nghiên cứu đặt ra rằng, Hòa thượng Khánh Hòa có phải là vị tăng sĩ đầu tiên xướng xuất nên phong trào chấn hưng PGVN không và tính chất của những hoạt động của Hòa thượng trong giai đoạn đầu thế kỷ XX ra sao? Sự phân hóa về tư tưởng trong giai đoạn cao trào có làm suy giảm ảnh hưởng của Hòa thượng đối với phong trào chấn hưng PGVN hay không?

Bối cảnh đưa đến sự xuất hiện của phong trào chấn hưng Phật giáo

Phong trào chấn hưng Phật giáo là một bộ phận của phong trào các nước châu Á chống lại chính trị, văn hóa, tôn giáo phương Tây; đấu tranh giành độc lập dân tộc, thoát khỏi ách thống trị của các quốc gia đế quốc chủ nghĩa; bắt đầu khôi phục văn hóa tư tuởng dân tộc bản địa. Phong trào chấn hưng Phật giáo nổ ra đầu tiên ở Ấn Độ đầu thế kỷ XX, sau đó lan sang Trung Quốc và nhiều nước ở châu Á với khẩu hiệu: "Cách mạng giáo lý, cách mạng giáo chế và cách mạng giáo sản”.

Theo Edwin Arnold trong sách The light of Asia (Ánh sáng Á Châu), ông cho rằng những “đối thoại” học thuật giữa các môn khoa học và tôn giáo, Phật giáo nói riêng tạo điều kiện cho Phật giáo hình thành một nền Phật học mới.

Ngoài ra, sự xuất hiện của chủ nghĩa xã hội có tác động đến phong trào giải phóng dân tộc, cũng như tư tưởng Phật giáo ở các nước châu Á như ở Sri Lanka với cư sĩ David Hewavitarane (sau này xuất gia có pháp danh là Dharmapala). Năm 1908, đại đức liên lạc với cư sĩ Dương Nhân Sơn ở Trung Quốc để mời cộng tác nên từ đó phong trào bắt đầu lan rộng.Tại Trung Quốc (Nam Kinh, Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu..) Dương Nhân Sơn đã triệu tập tăng ni, cư sĩ nghiên cứu Phật học qua Hán văn, Anh văn và Pali như Âu Dương Tiệm, Mai Quang Hy, Thích Nhân Sơn...Thái Hư đại sư được các nhà sư Việt Nam có học thức hâm mộ. Ông đã thành lập Phật học viện Vũ Xương vào năm 1912, ra tạp chí Giác Xã năm 1918; Phật giáo Cư Sĩ Lâm, Phật giáo Hợp Tiến, Phật giáo Liên Hiệp… cũng ra đời.

Tại Miến Điện (Myanmar), Tích Lan (Sri Lanka), Nhật Bản đã có luồng gió mới Phật học thổi vào, từ các học giả phương Tây nghiên cứu đạo Phật.

Những hoạt động tích cực để chấn hưng Phật giáo của các nhân vật Phật giáo xuất chúng từ Tích Lan, Ấn Độ, Trung Quốc đã tác động các nước ở châu Á khác như Miến Điện, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Việt Nam v.v… Phong trào đổi mới Phật sự từ các nước này cũng được diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả.

Trong lúc đó, tình hình xã hội Việt Nam đang xảy ra nhiều biến động lớn. Sự tái chiếm đóng trực tiếp của Pháp tại Nam kỳ, sau khi chúng nổ phát súng xâm lược đầu tiên tại Đà Nẵng vào năm 1858, đã làm cho Phật giáo ngày càng mất vai trò trong xã hội, nhất là khi chúng sử dụng các cơ sở chùa chiền ở Sài Gòn để làm phòng tuyến, gọi là Phòng tuyến các chùa (lignes des pagodes)1. Tình trạng suy thoái toàn diện của Phật giáo ở Nam kỳ kéo dài đến đầu những năm 20 của thế kỷ XX. Đó cũng là giai đoạn manh nha trong bản thân Phật giáo, trong tâm tư các tăng sĩ hết lòng vì đạo pháp và dân tộc những đòi hỏi bức bách phải đi đến sự thay đổi, phải bắt tay xây dựng lại một nền Phật giáo mới, mang màu sắc dân tộc và điều đó trước hết đã tạo tiền đề cho công cuộc chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ, nơi phát xuất phong trào đầu tiên trong cả nước.

Ngoài ra, những ảnh hưởng từ các bài đăng trên Đông Pháp thời báo (1923-1924) có bài viết Phật giáo lược khảo, đặt ra cho các nhà trí thức nhiệm vụ góp phần “chỉnh đốn Phật giáo trong xứ”. Có thể nói, phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ nhất từ phong trào chấn hưng Phật giáo Trung Quốc, đặc biệt là những tư tưởng cải cách Phật giáo của Hòa thượng Thái Hư. Trần văn Giàu đã nhận xét rằng “Việc vận động chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam không phải là tiếng dội của vận động chấn hưng Phật giáo ở Trung Quốc, nhưng hoạt động chấn hưng Phật giáo ở Trung Quốc có khuyến khích họat động chấn hưng Phật giáo Việt Nam2".

Đầu thế kỷ XX, tình hình chính trị-xã hội những năm 1925-1926 cũng đã tạo tiền đề tích cực cho cuộc chấn hưng. Sự phát triển của các đạo giáo đương thời đã tạo ra làn sóng ảnh hưởng mạnh mẽ đối với Phật giáo, thúc đẩy những người theo Phật giáo thấy cần thiết phải nhìn rõ lại chính mình, và thấy cần phải chấn hưng, phải canh tân, nhằm đưa đạo Phật đi vào cuộc sống.

Tuy nhiên, cần thấy rằng, chính sự suy yếu của Phật giáo lúc bấy giờ, thể hiện qua sự suy giảm uy tín và ảnh hưởng của Phật giáo đối với dân chúng những năm đầu thế kỷ XX và của giới tăng sĩ, không còn chuyên tâm tu hành đúng chánh pháp, chỉ lo ứng phú đạo tràng để kiếm lợi, là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp thúc đẩy sự hình thành phong trào chấn hưng Phật giáo. Mặt khác, các hình thức lễ nghi của Phật giáo lâu nay chỉ là phương tiện, không thích hợp với những người chuộng lý trí và khoa học. Vì vậy, phát huy giáo nghĩa của Phật giáo để trình bày một đạo Phật tân tiến hơn, sống động hơn, đáp ứng được nhu cầu của những thế hệ mới là điều cần thiết.

Người khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam

Tiểu sử Hòa thượng Khánh Hòa (1878-1947), sử sách ghi rõ, nên chúng tôi không nhắc lại ở đây. Bối cảnh Phật giáo Nam kỳ nói riêng, cả nước nói chung cũng đã có nhiều đánh giá, nhận xét tương đối đầy đủ. Và đạo Phật cần phải chấn hưng. Với chúng tôi, chấn hưng Phật giáo không phải là làm sống lại một tôn giáo, mà là thay đổi, cải tiến, làm mới cả nội dung và hình thức, cả giáo lý và cách tu hành. Thực chất là sự cải cách sâu sắc và toàn diện.

Cụ thể với Hòa thượng Khánh Hòa, thì ngay từ năm 1920, ông cùng các hòa thượng khác lập Hội Lục hòa nhằm tạo điều kiện cho các tăng sĩ gặp nhau trong những ngày kỵ giỗ để bàn về nội bộ tăng đồ; đoàn kết lại và vận động phong trào chấn hưng Phật giáo. Hòa thượng Khánh Hòa nhận xét: "Phật pháp suy đồi, tăng đồ thất học và không đoàn kết" cho nên muốn chấn hưng Phật giáo phải thực hành 3 việc: chỉnh đốn tăng già; kiến lập Phật học đường và diễn dịch, xuất bản kinh sách Việt ngữ3.

Năm 1923, trong cuộc họp đại diện các Tổ đình tại chùa Long Hòa (Trà Vinh), Hòa thượng Khánh Hòa đã khởi xướng thành lập tổ chức Lục Hòa Liên Hiệp nhằm tạo điều kiện cho các vị có tâm huyết với Phật pháp, lo lắng về sự suy đồi của Phật giáo Việt Nam có cơ hội gặp gỡ, bàn bạc việc chấn hưng.

Sau đó liên tiếp qua các năm, nhiều bài viết trên báo đã góp phần lớn vào việc đưa phong trào từng bước hình thành, phát triển. Năm 1927, ông Nguyễn Mục Tiên, một nhà báo quen thuộc của độc giả Sài Gòn đã viết bài kêu gọi Nên chấn hưng Phật giáo ở nước nhà trên tờ Đông Pháp thời báo số 529. Gần nửa tháng sau (14/1/1927) cũng trên tờ báo này, số 532, nhà sư trẻ Thiện Chiếu có bài viết kêu gọi chấn hưng Phật giáo ở nước nhà. Trên tờ nhật báo Khai Hóa ra ngày 16/1/1965, nhà sư Tâm Lai chùa Tiên Lữ, tỉnh Thái Nguyên, đã đề xuất sớm thành lập Việt Nam Phật giáo hội cho cả 3 miền.

Năm 1928, sau mùa an cư ở Quy Nhơn, Hòa thượng Khánh Hòa trở về Nam, đề nghị khởi xướng phong trào chấn hưng và được sự ủng hộ của Hòa thượng Huệ Quang (chùa Long Hòa, Tiểu Cần, Trà Vinh); Hòa thượng Khánh Anh (chùa Thiên Phước (Trà Ôn, Vĩnh Long)… Đây là những tu sĩ có học vấn uyên thâm, có hoài bão với sự nghiệp hoằng truyền đạo pháp. Năm 1929, Hòa thượng Khánh Hòa đích thân đi vận động hầu hết các chùa lớn ở miền Nam, cử phái đoàn do giáo thọ Thiện Chiếu ra Trung và Bắc vận động phong trào chấn hưng Phật giáo. Hòa thượng đã cho ấn hành Pháp âm, tờ báo Phật giáo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ tại Việt Nam, tuy rằng chỉ ra được một số.

Hòa thượng Khánh Hòa là người sáng lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học, còn được gọi là Hội Nghiên cứu Phật học và Bảo tồn Phật giáo tại Việt Nam (Association pour l’étude et la conservation du Bouddhisme en Cochinchine). Hội quy tụ nhiều vị cao tăng, như Hòa thượng Trí Thiền, Hòa thượng Từ Phong, Hòa thượng Huệ Quang, tăng sĩ Từ Nhẫn, Thiện Niệm, Chơn Huệ... lo việc tổ chức Thích học đường và Phật học Thư xã tại chùa Linh Sơn (Sài Gòn). Năm 1931, Hội chính thức được thành lập gồm 12 hội viên sáng lập, Hòa thượng Khánh Hòa là Hội trưởng Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học, Chủ bút tạp chí Từ bi âm (1932), kiêm Giám đốc Phật học Tùng thư và là người lãnh đạo tinh thần có uy tín lớn đối với Phật tử Nam kỳ và Trung kỳ. Cũng trong khoảng thời gian này, Hòa thượng đã đến nhiều nơi để vận động đổi mới hoạt động Phật giáo. Cần thấy rằng, trụ sở của Hội được đặt tại chùa Linh Sơn, quận 1, thủ đô Sài Gòn, vì đây là trung tâm quan trọng về kinh tế và văn hóa của Nam kỳ nên có nhiều thuận lợi trong việc đi lại; đặt quan hệ với các chùa; trong việc in ấn kinh sách, dịch kinh sách ra chữ quốc ngữ; thuyết giảng tại các chùa và phát hành báo, tạp chí… tuyên truyền cho phong trào.

Tuy nhiên, Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học chỉ hoạt động hơn 2 năm thì bị chính quyền Pháp khống chế, kiểm soát gắt gao, đưa đến sự từ chức Hội trưởng và chủ nhiệm báo của Hòa thượng Khánh Hòa. Chánh hội trưởng danh dự của Hội là người Pháp, ông J.Krautheimer, bởi vì không dễ dàng gì triều đình Huế và thực dân Pháp để người Việt Nam tự do thành lập tổ chức, dù là tổ chức tôn giáo, nếu như họ không kiểm soát được.

Năm 1933, các lớp luân chuyển do Hòa thượng Khánh Hòa khai mở lấy tên Liên đoàn Phật học xã/Phật học Liên xã do Lục Hòa Tăng Nam Việt đảm nhiệm việc học lẫn tiền học, tại chùa Từ Hòa Huyện Tiểu Cần, Trà Vinh; sau đó đến chùa Thiên Phước (Trà Ôn,Vĩnh Long); chùa Viên Giác (Bến Tre). Có 50 học tăng theo học khóa đầu tiên, sau đó mỗi khóa từ 80 đến 100 học tăng4. Được 3 khóa thì lớp học giải tán (1934) vì thiếu kinh phí.

Về Trà Vinh, Hòa thượng Khánh Hòa cùng Hòa thượng Huệ Quang thành lập Hội Lưỡng Xuyên Phật học vào năm 1934 tại chùa Long Phước. Mục đích của Hội là sưu tầm kinh điển Phật giáo; hoằng pháp và đào tạo chư tăng. Cuối năm 1934, Hội mở Phật học đường. Thiền sư Huệ Quang và Khánh Anh được mời giảng, Hòa thượng Khánh Hòa làm đốc giáo. Phật học đường có thu nhận cả chư Ni, nhưng được tổ chức thành lớp riêng, do Thiền sư Minh Tịnh điều khiển. Hội cũng xuất bản tạp chí Duy tâm Phật học (10/1935) do Hòa thượng Huệ Quang làm chủ nhiệm. Ni trường Vĩnh Bửu (Bến Tre) đã góp phần lớn vào việc đào tạo ni cho các chùa ở Nam Bộ. Năm 1935, Hội xuất bản sách Phật học giáo khoa song ngữ Việt-Hán. Hội cũng liên lạc thường xuyên với Hội An Nam Phật học và với sơn môn Thừa Thiên và đã gửi 10 chư tăng xuất sắc ra học tại Phật học đường ở Huế.

Năm 1941, thiền sư Khánh Hòa về chùa Vĩnh Bửu (Bến Tre) lập ni trường, đây là trường học đầu tiên của ni giới ở Nam Bộ. Ni trường Vĩnh Bửu (Bến Tre) đã góp phần lớn vào việc đào tạo chư ni cho các chùa ở Nam Bộ, trong đó có ni sư Diệu Ninh, thường được gọi là ni sư Vĩnh Bửu, sau quản lý trụ sở Ni bộ chùa Từ Nghiêm (Chợ Lớn)5.

Đường lối của Hòa thượng Khánh Hòa là ôn hòa, tránh bút chiến, tránh tranh luận trong khi nhà sư Thiện Chiếu, sau thời gian họat động chấn hưng ở Gia Định, ông vẫn chưa hài lòng với những đường hướng mà các nhà sư có tuổi như Hòa thượng Khánh Hòa đã đề ra, nên trở về Rạch Giá, phối hợp cùng thiền sư Trí Thiền, để thành lập Hội Phật học Kiêm Tế vào năm 1936, trụ sở đặt tại chùa sắc tứ Tam Bảo (Rạch Giá-Kiên Giang). Như tên gọi, Hội chủ trương không chỉ hoạt động Phật học mà còn có nhiệm vụ thực hành việc kinh bang tế thế nữa .Cơ quan tuyên truyền của Hội là tạp chí Tiến hóa. Mục đích của tạp chí chủ trương chú trọng tới hành động, hủy bỏ truyền thống “đầu tròn, áo vuông”, theo gương phái Tân tăng Nhật Bản. Từ đó, chùa Tam Bảo đã trở thành căn cứ kháng chiến bí mật và là nơi tuyên truyền về chủ nghĩa xã hội.

Từ đây phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ đã có sự phân hóa thành hai xu hướng: ôn hòa và bạo động. Như vậy, sự phân hóa về tư tưởng trong giai đoạn cao trào có làm suy giảm ảnh hưởng của Hòa thượng đối với phong trào chấn hưng PGVN hay không?

Về chủ trương, đường lối của Hòa thượng Khánh Hòa

Là một bậc chân tu, sớm ngộ đạo và có tâm huyết với nền Phật giáo nước nhà, băn khoăn và ray rứt trước tình cảnh suy thoái của Phật giáo, Hòa thượng Khánh Hòa đã bằng nhiều hoạt động Phật sự khác nhau để chấn chỉnh, cải tiến thông qua phong trào chấn hưng mang tính toàn diện, được đánh giá như là thực hiện 3 cuộc cách mạng: giáo lý, giáo chế và giáo sản, mà trước hết hòa thượng là người khởi xướng.

Với chủ trương ôn hòa, có tính nhẫn nại, suốt đời hy sinh, hiến thân cho đạo pháp, tránh tranh luận, tránh bút chiến, Hòa thượng Khánh Hòa đã cùng một số tăng sĩ có hoài bão thực hiện được nhiều thành tựu đáng kể cho phong trào chấn hưng Phật giáo cả nước và Nam kỳ nói riêng. Thấm nhuần tư tưởng từ bi và trí tuệ của nhà Phật, Hòa thượng Khánh Hòa chủ trương mọi hành động của mình đều phải là bất bạo động. Nói vậy, không có nghĩa là ngài đã thờ ơ trước bối cảnh của đất nước và Nam kỳ đang bị thực dân Pháp trực tiếp đô hộ. Trước tình hình cuộc kháng chiến chống Pháp của lực lượng cách mạng đang ở cao trào, hòa thượng cũng đã dâng quả chuông đồng của chùa Tiên Linh cho cách mạng để đúc vũ khí phục vụ kháng chiến. Đáp lời kêu gọi lên đường chống giặc ngoại xâm, 47 tăng sinh đang theo học tại Lưỡng Xuyên Phật học đường cũng đã gửi áo cà sa lại nhà chùa, lên đường kháng chiến. Dù nhận thức được đội quân xâm lược sẽ không chịu thối lui, nếu như những người yêu nước chỉ dùng lời nói, kinh kệ để khuyên răn chúng, nhưng vốn là một tu sĩ có tuổi đời khá cao, nếu tính đến năm Hội Phật giáo Cứu Quốc ra đời (1946) Hòa thượng Khánh Hòa đã 68 tuổi. Vì vậy, mọi hành động theo Hòa thượng Khánh Hòa cần phải xuất phát từ tâm an lạc, thanh tịnh, cần thiết áp dụng biện pháp ôn hòa, tránh những điều tranh cãi, bút chiến... như vậy sẽ không có lợi cho mọi hoạt động của người tu hành. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất có truyền thống yêu nước, hòa thượng đã tiếp thu và phát huy tinh thần đó qua việc tu thân hành đạo tích cực. Hòa thượng Khánh Hòa đã thể hiện tinh thần yêu nước theo phong cách của một nhà sư.

Khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ, Hòa thượng Khánh Hòa đã kêu gọi các Phật tử ủng hộ chính quyền cách mạng, tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời gian này, do tuổi cao sức yếu, ngài ở hẳn tại chùa Tiên Linh. Năm Đinh Hợi (1947), khi lâm bệnh nặng, ngài đã cẩn thận sắp xếp căn dặn học trò, tín đồ tham gia phục vụ đạo pháp và dân tộc, rồi từ giã cõi đời.

Với lòng kính trọng một vị cao tăng uyên thâm về mặt triết học Phật giáo, có công xây dựng Giáo hội, giàu lòng yêu nước, năm 1951, Hội Tăng già Giáo hội và Lục hòa Phật tử suy tôn thiền sư Lê Khánh Hòa làm Tổ của Phật giáo Nam kỳ.

Năm 1955, Tổ Huệ Quang đang là Pháp chủ hội Tăng già Nam Việt, hướng dẫn phái đoàn về chùa Tiên Linh làm lễ trà tỳ linh cốt Tổ Khánh Hòa, sau đó tro xá lợi được tôn thờ các nơi: Tổ đình Tiên Linh, chùa Long Phước (Trà Vinh), chùa Ấn Quang (trụ sở Giáo hội Tăng Già Nam Việt), tháp Đa Bảo chùa Phước Hậu (Vĩnh Long), chùa Vĩnh Bửu (Bến Tre), chùa Từ Nghiêm (trụ sở Ni bộ Bắc tông).

***

Nhìn lại quá trình gần 30 năm cống hiến trí tuệ và công sức cho công cuộc chấn hưng Phật giáo nước nhà, Hòa thượng Khánh Hòa đã trở thành vị Tổ có công đầu đối với đạo pháp và dân tộc. Ngài đã cùng một số tăng sĩ, Phật tử đưa Phật giáo nước nhà vươn lên tầm cao mới, thực hiện cuộc chấn hưng mang tính toàn diện trên 3 lĩnh vực then chốt: Giáo lý, giáo chế và giáo sản. Với tấm lòng yêu nước và đạo pháp thiết tha, ngài đáp trả bằng hành động cụ thể, thiết thực, mang tính ôn hòa, nhưng có chiều sâu và đạt được nhiều thành tựu, tạo sức bật cho tăng ni, Phật tử Việt Nam ngày càng tỏ rõ thực lực của mình, là một lực lượng có vai trò quan trọng trong xã hội. Cuộc đời của Tổ Khánh Hòa là tấm gương cao đẹp về tinh thần yêu nước, về tấm lòng vô ngã, vị tha cho hàng vạn tín đồ Phật giáo noi theo.

 


* Viện KHXH vùng Nam Bộ (VASS)

1. Xem thêm Trần Hồng Liên (1995), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ Việt Nam từ thế kỷ XVII đến 1975, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 42-53.

2. Trần văn Giàu (1971), Phong trào “Chấn hưng Phật giáo” và các vấn đề tư tưởng triết học mà phong trào ấy đã nêu lên ở nước ta trong thời kỳ lịch sử giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Viện Sử học, Hà Nội, số 139, tr. 8-21.

3. Chùa Phước Hậu (1968), Tháp Đa bảo và tiểu sử 5 vị tổ. Chùa Phước Hậu Trà Ôn Vĩnh Long ấn hành, tr. 28.

4. Huệ Chí (1952), Nhắc lại phong trào chấn hưng Phật giáo miền Nam, Tạp chí Tri Giác, tập I, Nam Việt Lục Hòa Tăng xuất bản, tr. 5.

5. Thích Đồng Bổn (chủ biên) (1995), Sđd, tr. 181-182.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 12
    • Số lượt truy cập : 6125746