Thông tin

TQ14 - ĐÔI ĐIỀU VỀ NIÊN ĐẠI KHAI SƠN CHÙA NÚI CHÂU THỚI Ở BÌNH DƯƠNG

ĐÔI ĐIỀU VỀ NIÊN ĐẠI KHAI SƠN

CHÙA NÚI CHÂU THỚI Ở BÌNH DƯƠNG

NGUYÊN CHÂU 

 

Mùa xuân năm Mậu Dần (1698) Quốc chúa Nguyễn Phước Chu sai Thống suất Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất Đồng Nai - Sài Gòn, lấy đất Đồng Nai lập thành huyện Phước Long, dinh Trấn Biên (Đồng Nai ngày nay); lấy xứ Sài Gòn lập thành huyện Tân Bình, đặt dinh Phiên Trấn (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Cho đến năm Đinh Sửu (1757) thì các chúa Nguyễn mới thật sự thống lãnh hết vùng lãnh thổ đồng bằng Nam bộ.

Vùng đất định cư ban đầu là vùng Bà Rịa, Đồng Môn, Long Khánh, Tân Uyên. Đất Trấn Biên lúc bấy giờ nối liền từ Thủ Đức, Giồng Ông Tố, Thủ Thiêm, Nhà Bè; phía Tây thì giáp qua vùng Thủ Dầu Một - Lái Thiêu...

Như vậy vùng đất đầu tiên của Trấn Biên có Tân Uyên – Lái Thiêu – Thủ Dầu Một hiện nay thuộc vùng đất của Bình Dương. Những vùng đất này, Phật giáo cũng có mặt rất sớm do các Tăng sĩ người Việt, người Hoa từ miền Trung vào và cũng có thể sớm hơn do cư dân địa phương có tín ngưỡng đạo Phật. Sự hình thành của những ngôi chùa thờ Phật ở vùng đất này, ngoài sự truyền bá của các cao tăng còn có các di dân và dân bản xứ do ảnh hưởng sâu đậm tín ngưỡng Phật giáo từ quê hương xứ sở của họ. Cho nên, khi đặt chân đến đâu họ đều lập am thờ Phật đến đó vừa để tôn thờ lý tưởng tôn giáo của mình, vừa để cầu nguyện cho được bình an trên mảnh đất mà họ mới khai hoang.

Trong sách Gia Định Thành Thông Chí, An Toàn Hầu - Trịnh Hoài Đức ghi chép khái quát một số chùa danh tiếng có liên quan tới công cuộc mở cõi về phương Nam. Nếu như ở Phiên Trấn có nhắc đến chùa Ân Tông (tức chùa Cây Mai), chùa Kim Chương và chùa Giác Lâm...; thì ở Trấn Biên (trong đó bao gồm Tân Uyên – Lái Thiêu – Thủ Dầu Một) sách này có đề cập đến chùa Bửu Phong ngự trên núi Bửu Phong, chùa Bà Vãi ngự trên núi Thị Vãi, trong đó có am Vân Tĩnh và chùa Hội Sơn có liên quan đến núi Chiêu Thái (nay gọi là núi Châu Thới). 

Vì chùa núi Châu Thới hiện là một trong số các ngôi chùa cổ nhất ở Bình Dương, được xếp hạng là di tích danh lam thắng cảnh quốc gia vào ngày 21/4/1989. Chùa Núi Châu Thới có một vị trí đặc biệt trong quá trình hình thành và phát triển của lịch sử Phật giáo Đàng trong và lịch sử Phật giáo Bình Dương nói riêng, nên chúng ta rất cần làm sáng tỏ phần nào những điều mà bấy lâu nay chúng ta vẫn còn mù mờ về niên đại hình thành, cũng như những nguồn tư liệu chưa chính xác khi đề cập đến ngôi cổ tự này.

Trước hết, những tư liệu liên quan đến núi Châu Thới đều ghi nhận ngọn núi này cao khoảng 80 mét so với mặt nước biển, về mặt địa lý thì nó nằm về phía hữu ngạn của sông Phước Long (nay là sông Đồng Nai), thuộc địa bàn Trấn Biên (nay thuộc xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương). Núi Châu Thới ngày xưa có tên gọi là núi Chiêu Thái. Dưới triều vua Tự Đức, Quốc sử quán triều Nguyễn năm 1850, đã chính thức ghi chép núi Châu Thới vào từ điển với tên gọi là Chiêu Thái Sơn.

Tư liệu liên quan đến chùa Núi Châu Thới, sách Gia Định Thành Thông Chí, ghi chép: “Núi Chiêu Thái, ở cách trấn lỵ về phía Nam 11 dặm rưỡi, tầng núi cao xanh, cây xưa um tốt, làm bức bình che buổi sáng cho trấn thành, ngất cao lên xuống, ngoắt ngoéo đi về phía Đông, đến miền hạ lưu sông Phước Giang, tới Gò Công thì dừng lại. Quãng giữa về mặt Bắc, tại thôn Long Thành, nổi lên một cái gò cao dốc như vách, sườn sau lưng có nơi tĩnh tu của Vãi Lượng, dựng am Vân Tĩnh, rất là thanh u (tục gọi là chùa Vãi Lượng). Quân Tây Sơn phá Phật bỏ chùa, nền cũ nay hãy còn. Cuối núi có một chi, chạy về phía Bắc, dừng ở vào địa phương thôn Long Tuy, nổi lên cái gò cao, bằng phẳng rộng rãi, mé bên có hang, giáp với khe ngòi, dân núi ở bao quanh đó, trên có chùa Hội Sơn, là nơi nhà sư Khánh Long ở tu tại đó, cúi trông sông lớn, thấy hành khách leo lên, có vẻ tiêu sái thoát trần” (1)

Thêm nữa, xét về mặt phong thủy, thì núi Chiêu Thái có liên quan đến núi Long Ẩn, vì cả hai ngọn núi này cũng nằm về phía Nam huyện Phước Chính, tuy nhiên núi Long Ẩn thì gần hơn, chỉ cách phía Nam huyện Phước Chính có 15 dặm, được xem là đầu rồng, còn núi Chiêu Thái là đuôi rồng cách đến 21 dặm, những gò đồi nhấp nhô giữa hai ngọn núi này tựa như thân của rồng uốn lượn. Ngày xưa có ngôi chùa cổ Long Ẩn được xây dựa lưng vào núi Long Ẩn, mặt hướng ra sông Phước Long (sông Đồng Nai), sau này chùa dời sang vị trí khác, và trên đỉnh núi Chiêu Thái cũng có một nền chùa. Tuy nhiên có điều lạ là cả hai ngôi chùa cổ rất nổi tiếng, nhưng các tài liệu nói về di tích cổ ở Trấn Biên hầu như đều không nhắc tới (?).

Sách Gia Định Thành Thông Chí (1820) của Trịnh Hoài Đức là cuốn địa chí đầu tiên thống kê rất tỉ mỉ các tổng, xã, thôn ở Nam bộ. Quốc sử quán nhà Nguyễn cũng đã tham khảo cuốn này để viết gọn lại phần Nam kỳ lục tỉnh trong bộ sách nhiều tập có tên là Đại Nam Nhất Thống Chí.

Theo sách Gia Định Thành Thông Chí, thì năm 1808 nhà Nguyễn đổi tên đất Nam bộ là Gia Định thành. Các dinh đổi ra trấn thuộc thành Gia Định. Dinh Trấn Biên đổi thành Trấn Biên Hòa. Theo đó, huyện Phước Long thăng thành Phủ Phước Long. Bốn Tổng của huyện Phước Long cũ, được nâng thành bốn huyện Phước Chính (Phước Chánh), Bình An, Long Thành, Phước An.(2)

An Toàn Hầu Trịnh Hoài Đức đã mô tả về huyện Phước Chính như sau: “Phía Đông giáp bến đò Thị Nghĩa, chợ thôn Bình Dương, tổng Long Vĩnh, huyện Long Thành đến sát núi rừng; phía Tây giáp man sách đầu nguồn; phía Nam giáp huyện Bình An từ núi Chiêu Thái (Châu Thới) liền đến xứ Ba Đốc sông Thị Kiên; phía Bắc giáp man sách rừng lớn”. Và “huyện Phước Chính có hai Tổng: Tổng Phước Vĩnh có 46 thôn và tổng Chánh Mỹ có 39 thôn”

Sau khi tra khảo trong danh sách 85 thôn của huyện Phước Chính, chúng tôi không hề thấy nói đến phường Long Tuy và hai thôn Long Thành, Long Sơn. Trong khi đó những địa danh này lại nằm trên địa bàn tổng Long Vĩnh Hạ thuộc huyện Long Thành. Đồng thời, núi Chiêu Thái lúc bấy giờ thuộc địa bàn Thôn Bình An, tổng Phước Vinh, huyện Phước Chính (chứ không phải thuộc về huyện Bình An).

Qua đó cho thấy, những ghi chép của Trịnh Hoài Đức về những sự kiện liên quan đến núi Chiêu Thái (núi Châu Thới) hoàn toàn không dựa vào những tư liệu thời trước, mà chỉ ghi nhận những hiện tượng diễn biến trong thời của ông; thêm vào đó các nhà biên soạn bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí sau này lại dựa vào tư liệu của sách Gia Định Thành Thông Chí, đồng thời có chỉnh sửa tên gọi các phường, thôn do thay đổi cơ cấu hành chánh nhằm phù hợp với tình hình địa lý sau này, chính vì vậy mà có sự khác biệt đáng kể về khoảng cách từ núi Chiêu Thái đến trấn thành trong mỗi giai đoạn.

Tuy vậy, những thông tin từ Gia Định Thành Thông Chí và Đại Nam Nhất Thống Chí, cũng cho chúng ta thấy rằng, lúc bấy giờ núi Chiêu Thái theo mô tả không phải chỉ là ngọn núi trơ trọi mà là một dãy núi cao thấp chập chùng và chạy rất dài, ẩn hiện tùy nơi, đuôi kéo dài đến tận Gò Công (tên thường dùng của Khổng Tước quan). Thông qua việc định vị địa lý, căn cứ vào thực tế tên chùa, di tích lưu dấu và tính hợp lý của phổ hệ truyền thừa, chúng ta có thể đưa ra nhận định, ngôi chùa theo mô tả trong Gia Định Thành Thông Chí, qua đoạn văn: “...Cuối núi có một chi, chạy về phía Bắc, dừng ở vào địa phương thôn Long Tuy, nổi lên cái gò cao, bằng phẳng rộng rãi, mé bên có hang, giáp với khe ngòi, dân núi ở bao quanh đó, trên có chùa Hội Sơn, là nơi nhà sư Khánh Long ở tu tại đó, cúi trông sông lớn, thấy hành khách leo lên, có vẻ tiêu sái thoát trần”. Đây là mô tả toàn cảnh đường dẫn đến ngôi chùa Hội Sơn, chùa này hiện tọa lạc trên một ngọn đồi nhỏ cao 15m so với mặt biển, tại số 1A1, ấp Cầu Ông Táng, hương lộ 33, phường Long Bình, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, chứ không phải chùa Núi Châu Thới vốn cao khoảng 80 mét so với mặt nước biển như nhiều nơi trích dẫn. 

Thứ nữa, sách Đại Nam Nhất Thống Chí, mục Tự Quán, đã đề cập đến chùa Hội Sơn như sau: “Ở phường Long Tuy, huyện Long Thành là nơi Thiền sư Khánh Long hóa thân”. Chúng tôi cho rằng, chùa Hội Sơn trong mô tả này cũng chính là chùa Hội Sơn ở phường Long Bình, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh như đã nói, hoàn toàn không dính dáng gì đến “Châu Thới Sơn Tự” ngự trên chót núi Chiêu Thái cả.

Cũng trong sách này, khi đề cập đến chùa Khánh Long, thì ghi: “Ở tại Gò Quít, huyện Phước Chính. Nguyên xưa do Khánh Long Hòa thượng làm ra, nên gọi tên ấy”. Theo đó, chùa Khánh Long ở tại Gò Quýt huyện Phước Chính có thể là tiền thân của chùa Núi Châu Thới tại xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương ngày nay. Sở dĩ có nhận định này, vì sau khi đến núi Châu Thới dựng am tu hành, Hòa thượng Khánh Long đã từ huyện Phước Chính vi hành sang huyện Long Thành để hoằng hóa, sau đó lập ra chùa Hội Sơn, ngài thị tịch tại nơi này (tức chùa Hội Sơn, quận 9). 

Sở dĩ ngôi chùa Hội Sơn (phường Long Bình, quận 9, TP. HCM) được thế hệ sau gọi là chùa Khánh Long, vì chùa do Tổ Khánh Long khai sơn. Tuy nhiên, nó khác với tên chùa Khánh Long ở tại Gò Quýt huyện Phước Chính, dù ban đầu cũng từ Hòa thượng Khánh Long dựng lập. Nếu phân biệt rạch ròi chúng ta sẽ thấy, chùa Hội Sơn ở huyện Long Thành (ngày xưa) được môn đồ pháp quyến gọi tên Tổ khai sơn thành tên chùa; còn tên chùa Khánh Long ở Gò Quýt huyện Phước Chính (trên núi Chiêu Thái ngày xưa) là do người dân thời đó đặt tên am cốc nơi Hòa thượng Khánh Long tu hành.

Sách Đại Nam Nhất Thống Chí ghi: “Núi Chiêu Thái, tục gọi núi Châu Thới, ở phía Nam huyện Phước Chính 21 dặm, từng núi cao tít làm bình phong phía Nam tỉnh thành, đồi núi khỉ phục loanh quanh chạy đến Khổng Tước quan mới hết. Khoảng giữa núi Chiêu Thái về hướng Bắc thuộc thôn Long Sơn huyện Long Thành ở trên gò bằng có vở cao đứng thẳng như vách, trên có am Vân Tĩnh là nơi ni cô Lượng tĩnh tu, di chỉ nay vẫn còn...”(3)

Xét về khoảng cách địa lý và đặc điểm địa hình, chúng tôi dự đoán am Vân Tĩnh, nơi ni cô Lượng tĩnh tu, cũng có thể là nơi Hòa thượng Khánh Long từng đến lập am tu tịnh. Có điều, do hoàn cảnh thời cuộc, vị thế hiểm yếu không thuận lợi trong việc xây dựng và nhất là cũng có thể do ý thức chủ quan là tập trung vào sự tu tập, nên thời bấy giờ, nơi đây chưa được khuyếch trương rộng mở. Hơn nữa, thời phong kiến quan niệm trọng nam khinh nữ còn quá nặng, việc một sư cô lên núi lập am tu hành dường như bị các nhà Nho coi thường, dị nghị. Do đó, dẫu nơi đây, vào thời điểm này mà có được một ngôi già lam tương đối ổn định thì xem ra vẫn không mặn mà đối các nhà Nho soạn sử trong ban biên soạn Quốc sử quán nhà Nguyễn. Một lý do quan trọng khác, quá trình biên soạn bộ Đại Nam nhất thống chí, khởi sự từ năm Ất Sửu (1865) nhưng mãi đến năm 1882, Quốc sử quán triều Nguyễn mới tạm ổn. Tuy nhiên, trước khi được đem đi khắc in, vua Tự Đức đã bắt sửa kỹ lại và làm thêm tập “Bổ biên”, công việc đang dở dang thì vua Tự Đức mất. Sau đó, trong triều liên tiếp xảy ra nhiều việc bất ổn, khiến bản thảo bị thất lạc nhiều tập trong cơn binh lửa Kinh thành Huế vào năm 1885. Năm 1906, vua Thành Thái ra lệnh làm lại Đại Nam nhất thống chí, đến năm Canh Tuất (1910) bộ sách này mới được vua Duy Tân cho phép khắc in. Song nó chỉ ghi chép hạn chế các sự kiện ở các tỉnh Trung Kỳ trực thuộc Nam triều mà thôi. Nói như vậy để thấy rằng, hãy còn rất nhiều giới hạn và thiếu sót trong bộ sách sử có thể gọi là quý hiếm nói về đàng trong này.

Ghi theo lời kể của Hòa thượng Huệ Thông (nguyên trụ trì chùa Núi Châu Thới) thì Thiền sư Khánh Long trên bước đường vân du hoằng hóa. Sư Khánh Long lên đồi Châu Thới thấy cảnh hữu tình thanh tịnh, sư cất một thảo am nhỏ để tu tịnh, thảo am được gọi là chùa Hội Sơn, sau thành chùa Châu Thới.

Theo lịch sử Phật giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức xuất bản 1995 thì chùa Hội Sơn trên núi Châu Thới, thuộc địa phận thôn Long Tuy, huyện Long Khánh, trấn Biên Hòa (nay thuộc xã Long Bình, huyện Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh) và cũng theo tài liệu này thì chùa Hội Sơn do Thiền sư Khánh Long - Đạo Thành xây dựng vào thế kỷ XVIII, sư Khánh Long viên tịch đồ chúng lập tháp thờ trong khuôn viên phía trái chùa.

Chùa Núi Châu Thới trên đỉnh Châu Thới

Một chi tiết rất đáng lưu ý là hiện nay chùa núi Châu Thới có tấm biển đề: “Châu Thới sơn Tự” bằng chữ Hán đặt chính giữa giảng đường. Trên biển có ghi “Tân Dậu niên, chánh ngoạt, sơ kiết nhựt”. Phần đông các nhà nghiên cứu đều dựa vào đây để xác định niên đại khai sơn ngôi cổ tự này. Nếu căn cứ vào đây mà suy, thì chùa núi Châu Thới có thể được thành lập khoảng năm Tân Dậu, mà năm Tân Dậu trong trường hợp này lại rơi vào ba mốc thời gian đáng ngờ, đó là năm 1621, năm 1681 và năm 1741. 

Xét về cột mốc thời gian 1621, trong lịch sử Đàng trong có một sự kiện đáng nhớ là vào năm 1620, công chúa Ngọc Vạn được chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1563 – 1635) gả cho vua Chân Lạp. Công chúa Ngọc Vạn xin cha cho được di dân lập nghiệp ở vùng đất mới mà mình đến và từ đây (tức năm 1620) mới hình thành các đợt di dân tự do.

Nếu nói chùa Châu Thới khai sơn vào năm 1621, tức là sau năm 1620, khi các đợt di dân tự do ào ạt vào phương Nam cùng với những vị Tăng sĩ đến Bình Dương dựng am cốc tu hành, thì rõ ràng đây phải là ngôi chùa cổ nhất Nam bộ, tất nhiên bản thân nó phải được các nhà sử học quan tâm nhiều hơn, thế nhưng các tư liệu hầu như đều không đề cập đến, nếu có chăng chỉ ghi chép rất mơ hồ là có một ngôi chùa trên núi Chiêu Thái bị chiến tranh tàn phá. Hơn nữa, các vị tôn túc tại Bình Dương và nhiều nguồn tư liệu khác cũng cho rằng thiền sư Khánh Long là Tổ khai sơn chùa Hội Sơn (Ở đây có sự lầm lẫn giữa chùa Hội Sơn ở quận 9 và ngôi chùa trên núi Chiêu Thái). Các ngài cũng cho rằng chùa Hội Sơn ngày xưa chính là chùa Châu Thới trên núi Châu Thới ngày nay, và Thiền sư Thành Nhạc được xem là vị kế thừa. Thế nhưng về niên đại của cả hai vị, thông qua niên đại Tổ khai sơn ở chùa Hội Sơn (Quận 9 - TP.HCM) do Thiền sư Khánh Long sáng lập và năm Thiền sư Thành Nhạc Ẩn Sơn viên tịch (tức năm Bính Thân – 1776) cũng đều không nằm trong khoảng thời gian 1621. Đây là những lý do để chúng ta phủ nhận cột mốc thời gian này.

Tiếp theo chúng ta xét đến cột mốc thời gian 1681, cũng là năm Tân Dậu.

Căn cứ vào cuốn Thiền Sư Trung Hoa, Hòa thượng Thích Thanh Từ cho rằng chùa Châu Thới do Hòa thượng Thành Nhạc khai sơn, Hòa thượng Thành Nhạc - Ẩn Sơn thỉnh thoảng xuống bến ngựa sông Đồng Nai để tắm, và lên nghỉ trên bờ. Sau này các đệ tử muốn ghi lại dấu tích của Tổ nên lập chùa Long Thiền thuộc xã Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa. Tư liệu này cho rằng, Hòa thượng Ẩn Sơn - Thành Nhạc viên tịch ngày 17 tháng Chạp năm Bính Thân (1776).

Nhân đây nhắc lại lời kể của quý Hòa thượng cao niên ở Bình Dương, Hòa thượng Thành Nhạc thấy cảnh nên thơ, thanh tịnh, nên thường lên núi chọn một tảng đá bằng phẳng để thiền định. Và sách Gia Định Thành Thông Chí, cũng đã ghi chép: “Núi Chiêu Thái, ở cách trấn lỵ về phía Nam 11 dặm rưỡi, tầng núi cao xanh, cây xưa um tốt, làm bức bình che buổi sáng cho trấn thành, ngất cao lên xuống, ngoắt ngéo đi về phía Đông, đến miền hạ lưu sông Phước Giang, tới Gò Công thì dừng lại. Quảng giữa về mặt Bắc, tại thôn Long Thành, nổi lên một cái gò cao dốc như vách, sườn sau lưng có nơi tĩnh tu của Vãi Lượng, dựng am Vân Tĩnh, rất là thanh u (tục gọi là chùa Vãi Lượng). Quân Tây Sơn phá Phật bỏ chùa, nền cũ nay hãy còn...”. Qua những tư liệu này chúng tôi cho rằng, trên núi Châu Thới đã có một ngôi chùa đã được xây dựng trước khi quân Tây Sơn đánh phá và trước khi Hòa thượng Thành Nhạc - Ẩn Sơn đến núi này. Vậy ngôi chùa đó có thể do Tổ Thành Nhạc xây dựng lại trên nền Tỉnh Vân am (của Sư cô Lượng trước đây) và cũng có thể xây dựng lại trên nền chùa cũ của Thiền sư Khánh Long - Đạo Thành trong thời gian ngài đến núi này ẩn tu. Điều đáng nói là những sự kiện có liên quan đến chùa trên núi Chiêu Thái được sử sách nêu lên đều nằm trong giai đoạn khoảng giữa và gần cuối thế kỷ XVIII, tức vào thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) và Chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777). Do vậy, nếu cho rằng chùa Núi Châu Thới được khai sơn vào năm Tân Dậu - 1681 là điều chưa thật sự thuyết phục, hơn nữa sự kiện sư cô Lượng (Vãi Lượng), Thiền sư Khánh Long - Đạo Thành và Thiền sư Thành Nhạc - Ẩn Sơn lập am cốc tu hành trên núi Chiêu Thái nằm trong khoảng thời gian giữa thế kỷ XVIII, chứ không phải vào thế kỷ XVII (1681). Đây là những lý do để chúng tôi phủ nhận cột mốc thời gian thứ 2 này. Cũng từ nhận định này, và thông qua những tư liệu đã trích dẫn, trước hết chúng ta cũng có thể xác định là trên núi Châu Thới đã có một am cốc hay một ngôi chùa nhỏ đơn sơ nào đó được tạo lập vào khoảng gần giữa thế kỷ XVIII, nếu rơi vào năm Tân Dậu thì đó là năm 1741. Tuy nhiên vào lúc bấy giờ, ngôi chùa này chỉ mới hình thành trong dạng am cốc hay một ngôi chùa nhỏ đơn sơ ở trên chót núi Chiêu Thái và mang một cái tên khác chứ không phải tên chữ là “Châu Thới Sơn Tự”. Nói một cách chính xác hơn, cơ sở thờ tự ban đầu này là tiền thân của chùa núi Châu Thới sau này.

Sau khi kết hợp từ nhiều nguồn tư liệu, chúng tôi có thể khẳng định ngôi chùa ở trên núi Chiêu Thái chỉ chính thức có tên là “Châu Thới Sơn Tự” vào khoảng thời gian gần cuối thế kỷ XVIII và chỉ mới được xây dựng lại sau khi kết thúc cuộc chiến giữa quân Tây Sơn và quân chúa Nguyễn vào sau năm Bính Thân 1776, tức là khoảng thời gian sau khi Hòa thượng Thành Nhạc - Ẩn Sơn viên tịch (vì ngài cũng viên tịch vào năm 1776). Cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào xác định được niên đại chùa núi Châu Thới được xây dựng sau giai đoạn chiến tranh. 

Sở dĩ có nhận định như vậy, vì trước hết, nếu căn cứ theo Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, vào thời điểm năm 1741, sử sách hoàn toàn chưa có tên chữ là “Núi Châu Thới” thì làm gì có tên chùa là “Châu Thới Sơn tự”? Đồng thời tên chữ “Chiêu Thái Sơn”, cho mãi đến năm 1850, dưới triều vua Tự Đức, Quốc sử quán triều Nguyễn mới chính thức ghi chép núi Châu Thới vào từ điển với tên gọi là “Chiêu Thái Sơn”(4)

Nhân đây cũng xin trình bày thêm để quý độc giả có nguồn tư liệu tham khảo: Theo hai bộ sử lớn của nhà Nguyễn là Gia Định Thành Thông ChíQuốc Sử Quán Triều Nguyễn - Đại Nam Nhất Thống Chí, thì trong tất cả các ngôi chùa xây dựng từ đầu thế kỷ thứ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, từ Thuận Hóa trở vào đến Hà Tiên, cũng đều không nhắc đến ngôi chùa có tên là “Châu Thới Sơn tự”. Điều này cũng dễ hiểu vì như chúng tôi đã trình bày là trong khoảng thời gian này, trên ngọn núi Châu Thới, vốn chỉ có một am tranh cốc lá đơn sơ mà chư vị hành giả Phật môn nào đó đã đến nơi đây dựng lập để tu hành chứ chưa hẵn là có một ngôi chùa, do vậy đây cũng là một trong những lý do nói lên sự không ổn nếu chúng ta cho rằng chùa núi Châu Thới ngày nay từng được xây dựng vào năm 1681.

Mặc khác, qua hai đoạn văn trong Gia Định Thành Thông Chí Đại Nam Nhất Thống Chí mà chúng tôi từng nhắc đến trong chương này đều không hề nhắc đến một ngôi chùa nào hiện diện trên ngọn Chiêu Thái. Tuy nhiên, trong hai đoạn văn trên lại nhắc đến hai chi tiết đáng lưu ý, đó là “Quân Tây Sơn phá Phật bỏ chùa, nền cũ nay hãy còn”(5)“Năm Bính Thân đạo Hòa Nghĩa là Lý Tài chiếm cứ núi Chiêu Thái tức là chỗ này”.(6)

Liên quan đến sự kiện này, xét về lai lịch viên tướng Lý Tài, ông là người Hoa gốc Phúc Kiến, lưu ngụ ở phố huyện Phù Ly phủ Quy Nhơn vào khoảng giữa thế kỷ thứ XVIII. Hành trạng của Lý Tài cho thấy ông rất dũng mãnh và có tài thao lược. Năm 1773, Nguyễn Nhạc sau khi khởi binh đánh chiếm thành Qui Nhơn, Lý Tài đã kéo quân đến xin gia nhập vào đội quân của Nguyễn Nhạc. Lý Tài xông pha trận mạc, lập được công to, nhờ đó mà quân Tây Sơn thêm hùng mạnh. Nguyễn Nhạc đã phong Lý Tài làm tướng, thưởng nhiều bổng lộc. Tháng 4 năm Ất Mùi (1775) nhân đội quân của Lý Tài và Tập Đình thất trận trước quân chúa Trịnh ở Cẩm Sa (Quảng Nam), Nguyễn Nhạc mượn cớ này tính giết Tập Đình để trừ hậu hoạn. Tập Đình liệu trước nên bỏ trốn về Quảng Đông, nhưng ít lâu sau đó cũng bị Tổng đốc Quảng Đông giết chết. Còn Lý Tài cũng tự biết thân phận nên chờ thời cơ sẽ bỏ trốn. Thế rồi vào cuối năm 1775, khi được Nguyễn Nhạc giao trấn thủ Phú Yên, Lý Tài nhân cơ hội này liền đem hết binh quyền đầu phục tướng nhà Nguyễn là Tống Phước Hợp. Vào mùa hạ năm Bính Thân (1776) Tống Phước Hợp đưa Lý Tài vào Nam ra mắt Chúa Nguyễn. Lúc này, Đỗ Thành Nhân thủ lĩnh của quân Đông Sơn ở vùng Ba Giồng, đang là một công thần dưới trướng Chúa Nguyễn liền đố kỵ hằn học ngay với Lý Tài: “Khi Lý Tài mới vào, Chúa Nguyễn muốn dùng, nhưng Đỗ Thành Nhân nói Lý Tài là đồ heo chó, dùng có ích gì”.(7)  Do xung khắc và bất hòa với Đỗ Thành Nhân, vào tháng 6 năm 1776, khi Tống Phước Hợp chết, Lý Tài liền kéo binh mã đến núi Chiêu Thái, là ngọn núi cao nổi lên giữa vùng rừng rậm thuộc dinh Trấn Biên để lập doanh trại. Từ đây núi Chiêu Thái trở thành bãi chiến trường đẫm máu giữa Hòa Nghĩa quân của Lý Tài và quân Đông Sơn của Đỗ Thành Nhân: “Khi Tống Phước Hợp còn sống thì hai người không dám xung đột nhau, nhưng Phước Hợp mất rồi, Lý Tài e sợ, đem binh sĩ của mình đến đóng ở núi Chiêu Thái (thuộc tỉnh Biên Hòa ngày nay), Đỗ Thành Nhân đem binh đến đánh không được, phải đắp lũy ở sông Nghi tức sông Thị Nghè để giữ”.(8) Trận đánh giữa quân Đông Sơn của Đỗ Thành Nhân cùng với quân binh Nghĩa Hòa của Lý Tài được mô tả như sau: “Tân Bản kiều (cầu ván mới) ở thượng lưu suối Lồ Ô, thuộc huyện Bình An, tục gọi cầu Quan. Năm Bính Thân, binh Đông Sơn của Đỗ Thành Nhân cùng quân của Lý Tài giao chiến. Lý Tài trá bại, phục binh dưới cầu Tân Bản triệt được binh Đông Sơn rất đông, tức là chỗ cầu này”.(9)  Như vậy trận đánh diễn ra vào mùa thu năm Bính Thân (1776) tại cầu Quan, vị trí này nằm trên một con suối, xưa gọi Lộ Khê, nay có tên là suối Lồ Ồ (vì dọc hai bên bờ suối có rất nhiều tre lồ ô). Suối bắt nguồn từ hướng Tây, giáp ranh xã Bình An, cách núi Chiêu Thái chừng vài dặm, khi quân Đông Sơn kéo đến, Lý Tài giả thua, rút quân về mai phục dưới Tân Bản kiều. Quân của Đỗ Thành Nhân đắc chí đuổi theo, bị sa vào ổ phục kích, thiệt hại nặng nề nên phải lui binh. Sau trận đánh, Hòa Nghĩa quân của Lý Tài lớn mạnh hơn quân Đông Sơn của Đỗ Thành Nhân rất nhiều. Sách Việt sử: Xứ Đàng Trong, tác giả Phan Khoang cho rằng, tại vùng chợ Đồn (xưa gọi là chợ Lò hay chợ Bình Long) từng là nơi giao chiến giữa hai bên. Vào tháng 10 năm Bính Thân (1776), nhằm thể hiện chánh nghĩa và tạo thanh thế, Lý Tài từ núi Chiêu Thái kéo quân về Sài Côn yết kiến Đông cung Nguyễn Phúc Dương: “Thấy Lý Tài đem binh đến, binh của Đỗ Thành Nhân cũng tan chạy, Duệ Tông cũng phải đi tránh, Lý Tài chia binh làm bốn đạo, thúc trống tiến tới. Đông cung sai kéo cờ lên, trên cờ đề: “Đông cung phụng mạng chiêu an”. Trông thấy cờ, binh Lý Tài bèn bỏ khí giới, lạy và hoan hô, tiếng nghe như sấm, rồi rước Đông cung về Do Miệt bản doanh của Lý Tài”(10)  Ở đây địa danh có tên gọi là Do Miệt chính là phiên âm từ Dầu Miệt mà ra. Trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí, ở mục Thị Điếm, phần nói về chợ Phú Cường, có ghi: “Ở thôn Phú Cường huyện Bình An, tục danh chợ Dầu Miệt hay Dầu Một”.(11) Như vậy Do Miệt ở đây chính là Thủ Dầu Một ngày nay. Vào tháng 11 năm Bính Thân, Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần lên làm Thái Thượng Vương, nhường ngôi lại cho Đông cung, lập thành Tân Chính Vương, giao Lý Tài giữ chức Bảo giá đại tướng quân. Như vậy lúc này quân đội của chúa Nguyễn được chia thành hai nhóm, bên Tân Chính Vương dựa vào Hòa Nghĩa quân của Lý Tài, còn bên Thái Thượng Vương Nguyễn Phước Thuần và Nguyễn Ánh thì dựa vào quân Đông Sơn của Đỗ Thành Nhân. Trong khi đó lực lượng của quân Tây Sơn lúc này rất lớn mạnh, nhiều trận đánh ác liệt giữa quân Tây Sơn và quân Chúa Nguyễn diễn ra trên đất Trấn Biên và Phiên Trấn. Nhà Nguyễn đang hồi suy yếu, đã vậy không chịu hợp sức để đối đầu với quân Tây Sơn mà chia bè kết phái nên nhiều phen suýt bị diệt vong. Lúc này tuy Nguyễn Ánh chỉ mới 16 tuổi, nhưng có một vai trò quan trọng đối với cơ nghiệp nhà Nguyễn: “Nguyễn Ánh biết Lý Tài kiêu hoạnh, khó kiềm chế được, nên bàn với Thái Thượng Vương nên đến Tam Phụ chiêu vũ miền Đông Sơn để mưu đồ việc khôi phục. Lý Tài nghe tin ấy, đem quân bức, đưa Thái Thượng Vương đến Do Miệt. Tân Chính Vương không thể ngăn được, phải sai Trương Phước Dĩnh theo hộ giá. Ngày hôm sau lại rước Thái Thượng Vương trở về Sài Côn”.(12) Qua đó có thể thấy các vị Chúa cuối cùng của triều Nguyễn là Thái thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương đều đã từng lưu trú trên vùng đất Thủ Dầu Một, đáng nói là nơi mà Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần từng đến tạm cư chính là ngọn núi Chiêu Thái.Vào tháng 3 năm Đinh Dậu (1777), Nguyễn Huệ xuất chiến tại Gia Định, thế lực rất mạnh, khi ấy quân Lý Tài đại bại trước quân Tây Sơn Nguyễn Huệ: “Mấy ngày sau, quân Tây Sơn đến, Vương sai Lý Tài đem Hòa Nghĩa quân ra Hóc Môn cự chiến, chém được Tuần sát của địch là Tuyên, quân địch tạm lui. Nhưng rồi một sự lầm lẫn đã gây ra hậu quả lớn: Trương Phước Thận từ Cần Vọt đem quân lên tiếp viện, Lý Tài trông xa xa thấy cờ xí, tưởng là quân Đông Sơn đến tập kích mình, bèn rút quân về, địch thừa dịp đuổi theo, quân Lý Tài chạy rối loạn...”.(13) Trích dẫn nguồn tư liệu về lai lịch và hành trạng của viên tướng Lý Tài, đồng thời liên hệ lại hai đoạn văn: “Quân Tây Sơn phá Phật bỏ chùa, nền cũ nay hãy còn” và “Năm Bính Thân đạo Hòa Nghĩa là Lý Tài chiếm cứ núi Chiêu Thái tức là chỗ này” để một lần nữa làm sáng tỏ và khẳng định rằng vào năm Bính Thân, tức năm 1776, trên ngọn núi Chiêu Thái (tức núi Châu Thới) hoàn toàn không hề có ngôi chùa nào mang tên là “chùa Núi Châu Thới” mà chỉ có một nền chùa cũ còn lưu dấu lại sau khi bị quân Tây Sơn đập phá. Đồng thời xâu chuỗi những điều đã nhận định ở trên lại sẽ cho chúng ta thấy rằng lịch sử vẫn chứng minh là có một ngôi chùa trên núi Chiêu Thái có thể được xây dựng vào khoảng năm Tân Dậu (1741), vào lúc này có thể nó mang tên là chùa Hội Sơn do Hòa thượng thiền sư Khánh Long xây dựng, và cũng có thể nó mang tên là Tĩnh Vân am do Sư cô Lượng dựng lên, sau đó một thời gian thì thiền sư Thành Nhạc - Ẩn Sơn đến xây dựng lại một ngôi chùa mới trên nền am chùa cũ và có lẽ vẫn giữ tên chùa cũ là Hội Sơn Tự. Tuy nhiên vài thập niên sau đó, tức vào năm Bính Thân (1776) chỗ thờ tự cheo leo trên ngọn núi này đã bị tàn phá do cuộc chiến giữa quân Tây Sơn và quân Chúa Nguyễn. Khi chiến tranh qua đi, khu vực này bình yên trở lại, thì lại có một ngôi chùa mới đã được xây dựng lại trên nền đất chùa cũ, chí ít là vào sau năm Bính Thân (1776) nhưng đến nay vẫn chưa rõ năm nào. Chính vì Quốc sử quán nhà Nguyễn là Đại Nam nhất thống chí, dù khởi sự từ năm Ất Sửu - 1865, nhưng dường như chỉ làm công việc ghi nhận chắt lọc nguồn tư liệu từ Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức đã biên soạn trước đó, nên đã không có cơ sở để ghi tên ngôi chùa này vào bộ sử, cũng như trong và sau thời Tự Đức do việc triều chính có quá nhiều vấn đề cấp bách phải giải quyết, nên công việc ghi nhận này cũng bị bỏ qua. Cũng ngôi chùa này nhưng nó thật sự mang tên chữ là “Châu Thới Sơn Tự” vào khoảng giữa thế kỷ XIX, hoặc ít ra vào khoảng thời gian sau năm 1850, tức vào thời vua Tự Đức (1848 - 1883) tại vị. Ở đây có một sự kiện trùng hợp là vào năm Bính Thân 1776, ngôi chùa trên núi Chiêu Thái bị tàn phá cũng là năm mà Thiền sư Thành Nhạc - Ẩn Sơn viên tịch. Không biết sự ra đi của Thiền sư Thành Nhạc - Ẩn Sơn có liên quan gì đến biến cố chiến sự ở ngọn núi Chiêu Thái này chăng?

Mặt khác nhiều vị tôn túc tiền bối tại Bình Dương cho rằng chùa núi Châu Thới ban đầu do thiền sư Khánh Long khai sáng, nhưng cho đến nay vẫn chưa có tư liệu nào ghi nhận được ngồn gốc quê quán, tông phái và hành trạng của Thiền sư Khánh Long. Trong khi đó, đáng tiếc là hiện nay trên chùa Châu Thới không còn long vị và các tháp của các vị Thiền sư khai sơn, mà chỉ có long vị thờ các vị trụ trì có niên đại gần đây. Cũng do sự thiếu tư liệu và nhận định thiếu cân nhắc mà khi nghiên cứu về chùa núi Châu Thới, đã có nhiều ghi chép nhập nhằng cảnh quan chùa này ghép vào chùa kia, khiến cho người đọc dễ nhầm lẫn và khó thể xác định được đâu là thông tin đáng tin cậy.

Căn cứ vào tư liệu hiện có tại chùa Núi Châu Thới hiện nay, thì chùa núi Châu Thới đã trải qua hơn sáu đời người trụ trì và được truyền thừa theo dòng kệ: “Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên...”. 


1. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, dịch giả Đỗ Mộng Khương - Nguyễn Ngọc Tính, Nxb Giáo Dục - 1998.

2. Năm 1808 nhà Nguyễn đổi tên đất Nam bộ là Gia Định thành. Các dinh đổi ra trấn thuộc thành Gia Định. Dinh Trấn Biên đổi thành trấn Biên Hòa (Trấn: Giữ gìn, cũng là đơn vị hành chính có tính quân quản cấp tỉnh; Biên: Chỗ giáp giới bờ cõi; Hòa: Hiệp làm một, thuận một bề. Trấn Biên Hòa: Đơn vị hành chính có tính quân quản ở nơi giáp bờ cõi không có xung đột.

3. Đại Nam Nhất Thống Chí, dịch giả Nguyễn Tạo, Nha Văn Hóa, 1973, tr.12.

4. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Nxb Sử học Hà Nội, 1962.

5. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, dịch giả Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tính, nxb. Giáo Dục, 1998.

6. Đại Nam Nhất Thống Chí, dịch giả Nguyễn Tạo, Nha Văn Hóa, 1973.

7. Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong, Nxb. Khai trí, 1969.

8. Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong, Nxb Khai trí, 1969.

9. Đại Nam Nhất Thống Chí, dịch giả Nguyễn Tạo, Nha Văn Hóa, 1973,

10. Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong, Nxb Khai trí, 1969.

11. Đại Nam Nhất Thống Chí, dịch giả Nguyễn Tạo, Nha Văn Hóa, 1973, tr35.

12. Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong, Nxb Khai trí, 1969.

13. Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong, Nxb Khai trí, 1969.

 

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 68
    • Số lượt truy cập : 6346021