Thông tin

TRUYỆN LÀNG NI

TRUYỆN LÀNG NI

 

NGUYÊN ĐÔN PHỤC

 

 

 

Tỉ khiêu ni là cái danh hiệu chung của hạng người đàn bà xuất gia tu hành trong cõi Phật. Làng Ni là một cái xã hội sư nữ (nguyên văn: Bọn sư đàn bà). Trong xã hội ấy từ xưa cũng không thiếu gì các vai nữ lưu hoặc là trí tuệ hoặc là từ thiện hoặc là can đảm, hoặc là tài tình, hoặc là những nhan sắc tuyệt trần chẳng kém gì Tây Thi, Ngọc Hoàn, hoặc là những vai văn chương tuyệt thế chẳng kém gì nàng Ban, ả Tạ.

Duy hạng người ấy đã là hạng người xuất thế xuất gia, đem chất bổ liễu hiến vào cửa hư không, thực đã đúng như câu: “Thuộc ba trăm sáu mươi quyển kinh, chửa lãng uyển bồng hồ nhưng thoát tục”, mà thực cũng đã trái hẳn cái tâm lý người thường như câu: “Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ, không phong hoa tuyết nguyệt chẳng nên đời”.

Những hạng tu hành giả dối thì không kể, còn thì những hạng chân tu ra, tuy phù dung là nét mặt, dương liễu là lông mi, mà thực ra thì đã lấy chất thu thủy làm tinh thần, lấy chất băng ngọc làm cốt cách. Cho nên người đời thưởng thức đến những hạng người ấy, chẳng khác nào thưởng thức cái hoa sen ở trong nước, cái hoa mai ở trong tuyết; lại chẳng khác nào thưởng thức chị Hằng ở trên cung trăng. Kẻ thưởng thức cũng nên có một cách thoát tục xuất trần, sẽ thưởng thức được những hạng danh hương trong Phật quốc ấy. Những hạng danh hương trong Phật quốc ấy sở dĩ quý báu thơm đẹp, khiến người ta sùng bái yêu mến chẳng thôi đó là vì hạng ấy đối với cuộc đời đã dứt được tấm lửa lòng. Lửa lòng là gì? Tức là một bầu lợi dụng chứa ở trong lòng người ta. Xưa có câu rằng: “Lợi dụng khu nhân vạn hỏa ngưu”, nghĩa là cái lợi dục nó xui khiến xúi giục người, ví như hàng vạn con trâu đàng đuôi bị lửa đốt, đàng đầu cứ việc quàng xiên tán loạn chạy đi mà chẳng biết ngoảnh lại. Ấy cái giống lửa lòng có phần nguy hiểm là thế.

Đối với giống lửa lòng ấy có ba hạng người: trong trí não tự nhiên chẳng chút lửa lòng là hạng người tiên Phật; trí não bị cái lửa lòng nó xui khiến là hạng người ngu si; trí não với lửa lòng giao chiến luôn luôn mà kết quả trí não được phần thắng lợi là hạng người tu hành. Xưa nay, những nhà nói về nghĩa tu hành mà chăm chăm quả quyết nói đi nói lại về sự dứt lửa lòng, thì không ai bằng cụ Tiên Điền: “Cho hay giọt nước cành dương, Lửa lòng rửa hết mọi đường trần duyên”, rồi lại nói rằng: “Trần duyên đã dứt lửa lòng, Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi”. Đã hay rằng người ta đối với cuộc đời trong đám bụi hồng cũng không thể làm sao tránh được hết, nhưng lại chẳng nên đem ít nhiều giọt nước trên cành dương để vãn hồi bổ cứu đấy hay sao!

Nhân khi thong thả, trộm lưu tâm đến vấn đề Phật học trong nữ giới, tìm ra được một hạng người tu hành chân chính trong cửa không, mà cũng có lắm vẻ thú vị ly kỳ, gồm có mấy truyện, nhân xếp đặt thành từng bài mà kể ra để làm gương cho phụ nữ, duyệt giả cho là thế nào? Truyện kể như sau:

1. Bà sư Tiểu Vân

Bà sư Tiểu Vân nguyên là một sư tu hành chân chính ở chùa Gia Hưng, sắc đẹp lạ thường, trông như người ngọc, chẳng khác gì một vị thiên tiên. Khéo làm văn, thông kinh điển, nghề thơ lại càng ít người theo kịp. Song Tiểu Vân vốn tính khiêm nhường, hễ nghe có người khen đến cái tài mình thì tỏ ra ý tứ nhún nhường, tự mình lấy làm hổ thẹn. Một hôm có một người danh sĩ vốn thuộc về phái nhà Nho đến thăm chùa Gia Hưng, cầu tiếp kiến Tiểu Vân. Tiểu Vân ra tiếp kiến, người danh sĩ mới nghe vài lời chào hỏi biết ngay là kẻ văn học phi thường. nhân hỏi rằng: “Trộm nghe sư bà là bậc thiên tài, nhưng thơ của sư bà làm ra bấy lâu, hiện có tồn cảo không?”.

Tiểu Vân đáp rằng: “Tôi là một kẻ ở ngoài cuộc đời, theo dõi việc nghiên bút cũng hơi biết làm thơ. Nhưng mỗi khi thảo thành, lại đem đốt đi, chứ không muốn đem vết chân chim hồng trong đám bùn tuyết linh tinh ấy, mà lưu lại cái vết lãng mạn ở trong chốn nhân gian, để cung cho kẻ thức giả chê cười”.

Tiểu Vân nói thế là ý khiêm nhường, không muốn đem nghề thơ khoa trương, khiến cho trọn cái chủ nghĩa thanh tĩnh huyền mặc của nhà Phật, chứ kỳ thực thơ Tiểu Vân vẫn còn tồn cảo. Cuối cùng, người danh sĩ phải gác để sự thơ không dám hỏi đến nữa, mời hỏi đến nghĩa kinh rằng: “Kinh điển nhà Phật ý nghĩa cao siêu, chúng tôi ngu độn không lĩnh hội được chốn huyền diệu, sư bà có hiểu rõ được chí lý đấy không? Xin đừng tiếc lời vàng ngọc”.

Tiểu Vân liền đáp rằng: “Nghĩa lý nhà Phật với nghĩa lý nhà Nho cũng giống nhau, nguyên không có chốn gì khó hiểu. Trong kinh Phật những chốn hiển minh mà dễ hiểu thì không gì bằng lời nói trong Đa Tâm Kinh. Ngài biết cái chốn diệu của nhà chùa đấy không? Này lục căn nếu mà chưa hết, trách nào sắc tướng khó vào cõi không. Lục căn là gì? Lục căn tức là lục dục, lục dục tức là lục tặc, lục tặc tức là lục chướng trừ khử được lục chướng tức là lục thông. Như là muốn trông sắc đẹp, đó là giặc mắt xui nên; muốn nghe tiếng dâm, đó là giặc tai xui nên; muốn ngửi hương nồng, đó là giặc mũi xui nên; muốn ăn thức ngon, muốn hiện lời nói, đó là giặc lưỡi xui nên; sợ đau sợ chết, sợ rét sợ nóng, đó là giặc thân xui nên, cái lòng tham dục nó vô cùng, chẳng tranh cướp chẳng thôi, đó là giặc ý xui nên. Muốn trông thấy cái chân tướng, chân tâm, trước hết phải chiến thắng để sáu thứ giặc ấy tuyệt đường ma chướng. Phải lấy sáu phép trong tâm kinh là phép không mắt, không tai, không mũi, không lưỡi, không thân, không ý, để tóm lại hết thảy trong đường tu”.

Danh sĩ liền hỏi: “Thế nào là phép không mắt”.

Tiểu Vân đáp: “Người tu hành không mắt, nghĩa là không mắt tục đấy mà thôi, như là đối với cảnh sáng láng, khi đã ngắm soi thì coi mình cũng như vẻ nguyệt ban đêm; đối với cảnh phồn hoa trong khi mộng tỉnh, thì coi nó như vẻ hoa bốn mùa. Lại hỏi: Thế nào là phép không tai?

Tiểu Vân đáp: “Người tu há không tai, nghĩa là không tai trần đấy mà thôi, như là tiếng chim vui cảnh sớm, tiếng suối đáp chuông chiều, nhờ những tiếng ấy mà quên được lòng lợi danh”.

Lại hỏi: “Thế nào là phép không mũi?”.

Tiểu Vân đáp: “Người tu há không mũi, nghĩa là không mũi hôn trọc đấy thôi. Như là khói trầm buổi sớm, thiếu gì sực nức làn hương, mùi xạ ban đêm khôn nhiễm nồng nàn tình ái.

Lại hỏi: “Thế nào là phép không lưỡi?”.

Tiểu Vân đáp: “Người tu há không lưỡi, nghĩa là không lưỡi ngu si đấy mà thôi. Như là biện luận càng nhiều càng thấy loạn, ngọt ngon chẳng giảm chẳng thành tu.

Lại hỏi: “Thế nào là phép không thân?”

Tiểu Vân đáp: “Người tu há không thân, nghĩa là không thân ác liệt đấy mà thôi, như là thân vàng sợ gì đau, thân đá sợ gì chết, mùa hè thắng được cái nực, mùa đông thắng được cái rét.

Lại hỏi: “Thế nào là phép không ý?”.

Tiểu Vân đáp: “Người tu há không ý, nghĩa là không ý tham lam đấy mà thôi, như là tát cạn bể tham để vào nước cực lạc, dập tắt lửa dục để lên cõi liên hoa. Khi người ta chẳng trông thấy sự gì lợi dục, thì cái tâm thường như nước lặng, hễ thấy một sự lợi dục thì cái tâm liền như nước sôi. Ôi! Cái tâm đã như nước sôi mà chẳng yên lặng được, thì cái bệnh ma chướng theo đó mà sinh, cái nghiệp phù vân theo đó mà khởi. Cho nên nhất thiết đối với những phần sắc tướng ở nhân gian, nên dùng định thức và định lực để chế trị nó đi. Cũng ví như thanh bảo kiếm chém đứt mớ loạn ti mà không quản ngại, chất hàn băng tiêu tan lò thân hỏa mà chẳng nhiệt phiền đó vậy”. Người danh sĩ nghe nói, cả lấy làm kính phục mà than khen rằng: “Bà sư Tiểu Vân chẳng khác nào một vị sinh Phật ra thuyết pháp, chắc là sở đắc được chốn đích xác cao siêu, chẳng phải những kẻ ngoài miệng Nam mô kia có thể ví được. Vả lại miệng như hoa sen nở, tài tựa bông liễu bay, so vào trong bọn tỉ khưu mới đây, thực là tuyệt không người nào mà chỉ có người ấy vậy.

2. Bà sư Tuệ Không

Chùa Phúc Thọ có bà sư tên là Tuệ Không, cũng là một đóa diễm chất trong thiền môn. Mặt phù dung, mày dương liễu, xinh xắn nhẹ nhàng, đi trong luồng gió tựa như người bay. Sắc đã có một, tài cũng không hai. Thơ hay vẽ khéo, chữ lại càng tốt. Chữ thì học lối chữ ông Triệu Tùng Tuyết nhà Tống, mà vẻ tú nhuận diễm lệ lại có phần hơn. Duy Tuệ Không thanh giá tự xử quá cao, một mảnh giấy một nét chữ chưa từng khinh dị đem ra cho người. Những người quan sang hào nhã đua nhau đến xin tranh xin chữ, cửa thiền cơ hồ không ngày nào vắng người. Hễ đươc một bức thư hay là một bức họa của Tuệ Không, thì coi như một chí bảo, giá đáng liên thành. Mà Tuệ Không thì trước sau không hề lấy tiền thù tặng của ai cả, vì thế người ta lại càng ngưỡng mộ.

Một hôm, Tuệ Không đi ra ngoài vân du, ven đường gặp một lão ăn mày tỏ ý kêu nài. Tuệ Không hẹn rằng: “Ngày mai đến chùa tôi, tôi sẽ bố thí cho”. Lão ăn mày y hẹn mà đến, Tuệ Không tịnh chẳng bố thí cho tiền gạo gì cả, chỉ đưa cho một vài tờ giấy trong đó có ít nhiều nét chữ nét vẽ gì đó. Lão ăn mày lấy làm ngần ngại, lại tỏ ý kêu nài. Tuệ Không bảo rằng: “Ông cứ cầm mảnh giấy ấy đi đến các nhà hào phú mà tiêu dao như trước, hễ ai hỏi mua thì ông bán đi làm phương tế độ cho hàng ngày, hễ hết thì tôi lại cho. Lão ăn mày nghe lời, đi tiêu dao các nơi, kẻ hào phú tranh nhau mua, giá được rất đắt. Người ta đều lấy làm quái rằng lão ấy bởi đâu mà được nét chữ nét vẽ của Tuệ Không, thậm chí có kẻ ngờ rằng lão ấy ăn cắp của Tuệ Không mà được. Chẳng bao lâu, lão ăn mày ấy đã trở nên một hạng người lúc nào túi tiền cũng rung rinh, thừa ăn thừa mặc, sức vóc lại khỏe mạnh hơn người. Lão ấy cám ơn Tuệ Không, nhưng không biết lấy gì báo đáp, mới làm một cái thảo lư ở ngoài cửa tam quan xin làm người thủ hộ. Thấy vậy, bọn thổ hào ở gần miền lấy làm căm tức, muốn rửa hờn cho bõ ghét, bèn cho thuê một bọn côn đồ thừa cơ làm cho Tuệ Không một phen quẫn nhục.

Một hôm, Tuệ Không một mình đi chơi núi cách chùa đã hơi xa. Bọn con đồ theo gót đến nơi thấy Tuệ Không có một mình, liền vây lại bức bách nào là giọng đùa tiếng cợt, khó kham được vào tai. Tuệ Không khi ấy khôn xiết quẫn cấp, vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời, chỉ đối với bọn vô lại van nỉ xin tha. Bọn vô lại không những chẳng nghe, lại muốn ra tay thị hùng, Tuệ Không đang trong cơn nguy bách ấy, chợt gặp lão ăn mày kia ở đâu đến, trông thấy tình hình, đùng đùng nổi giận, tức khắc giơ tay đánh lui bọn côn đồ mà hộ tống Tuệ Không về chùa, Tuệ Không lại muốn báo ơn lại lão ấy, nên tự đẩy bức thư họa thường thường kế tiếp cho luôn. Về sau, lão ăn mày đã trở nên một người tiểu phú mà suốt đời chẳng đi đâu nữa. Người ta bảo rằng Tuệ Không là một vị Quan Âm tái thế, mà lão ăn mày kia là một vị hộ pháp tiền thân vậy.

3. Cô tiểu Tu Tâm

Tu Tâm là một cô tiểu ở chùa Vĩnh Hưng, vì tuổi còn nhỏ, chưa được liệt vào hàng chư ni. Song Tu Tâm sinh ra, vốn là kẻ linh lợi khác thường, tuổi dẫu bé mà đã hơn người, dáng đã xinh đẹp, miệng lại có tài biện thuyết, tâm lại có kế hoạch khéo khôn; con mắt rất tinh đời, xem người như trông thấy gan ruột, tính lại u tĩnh suốt ngày ở trong phòng thiền, ít người nghe thấy tiếng. Vì cớ ấy người sư già ở chùa đó tuy kính trọng Tu Tâm mà kỳ thực rất ghen ghét Tu Tâm. Nguyên người sư già chùa ấy có tính tham lậu, coi đồng tiền như tính mệnh, thường nhờ việc kỷ niệm ngày sinh nhật đức Quan Âm Bồ tát, giả danh cầu Phật dùng kế thu tiền. Tu Tâm thường ngỏ lời chê sư già rằng: “Người nhà Phật chỉ nên tùy duyên mà độ nhật, nay so kè từng đồng, chừa vào cho đầy túi tham ấy, toan để làm gì?” Chỗ Phật là chỗ thanh tĩnh mà bị cái hơi đồng ấy nó hun xong, thì bóng Phật cũng mờ ám đi mà không còn sắc tướng nữa. Một hôm người sư già tuyên ngôn với người rằng: “Đức Quan Âm đại sĩ trong chùa ta, thường trong lúc ban đêm phát hiện ra ánh sáng. Lão ni này khi bước lên điện, thường nghe tiếng đức đại sĩ phân lời Phạn âm v.v..

Tu Tâm biết rằng lời ấy là lời bịa đặt để nói dối kẻ ngu đấy thôi, đối với những lời bịa đặt ấy thường tỏ ý kinh bỉ mà mỉm cười. Song Tu Tâm lại nghĩ rằng mình cũng là đệ tử trong cửa Phật, không tiện bộc bạch những điều gian ác của sư già, trong lòng mới sinh ra một kế, cứ về khoảng ban đêm nghe trộm cái cách của sư già hành động thế nào, thì thấy trên điện chỉ có một mình sư già tự nói lẩm bẩm, dường như đối với người mà nói. Sư già làm ra như thể là ý muốn khiến cho người khác biết, tự nhiên kẻ xướng người họa để thần diệu cho cái thuyết của mình. Tu Tâm thì đã đi guốc ở trong bụng sư già, mới bày ra một trò ác để mua một trận cười. Đến hôm sau vào lúc hoàng hôn, Tu Tâm vào nép mình trước ở đằng sau lưng khám Phật. Kịp khi sư già đến, lễ bái xong, lầm rầm khấn cáo và kêu cầu với Phật xá cho cái tội nói càn. Tu Tâm nghe nói lấy làm bật cười, mới tự trong khâm ngó đầu ra ngoài ức màn mà sẽ nói rằng: “ừ thì xá tội cho mày, nhưng từ nay về sau mày không được thế nữa”. Người sư già cả kinh chẳng kịp phân biệt thực hư, ôm đầu như chuột trốn mà đi. Sáng ngày hôm sau sư già đem sự đêm qua có đức Quan Âm hiển hiện bảo với chư ni, ai nấy cũng đều kinh hãi, Tu Tâm chỉ bưng miệng cười thầm mà thôi. Rồi tự đấy người sư già cũng chừa được cái máu tham ấy đi, thấy hơi đồng không dám mê lắm nữa, khiến cho cảnh Phật lại được thanh tịnh. Than ôi! Cô tiểu Tu Tâm há chẳng phải thực là Quan Âm hiện hiện thuyết pháp, ai bảo Quan âm giả đó sao.

4. Cô sư Ngộ Đàm

Am Hưng phúc ở chùa Bảo Sơn, chư ni ở chùa đó đều để tóc mà tu hành người nào người ấy mặt hoa tươi đẹp, tóc mây xanh rờn, cũng là một sự đặc biệt trong làng ni. Trong đó có một người sư trẻ tên là là Ngộ Đàm, đẹp như người ngọc, phong vân thanh tân, sở trường lối hãn mặc, tỉnh khéo nghề thơ văn. Kẻ sĩ phong nhã nhiều người đến kết bạn giao du, đưa thơ xướng họa đã thành sự quen, nhưng thủy chung đều lấy lễ giữ gìn, chưa từng chút sai khuôn phép.

Có một chàng văn sĩ kia, hành vi khinh bạc, vốn đã bị người trong nước xem khinh. Chàng ấy một cái sắc của Ngộ Đàm thường tỏ ý trêu ghẹo Ngộ Đàm trước sau chẳng chút động tâm. Một hôm chợt có một phong thư đưa lại, ngoài bì chẳng đề chỗ ở và người phát thư, chỉ đề mấy chữ: “Hưng Phúc am Ngộ Đàm ni thu nhận”, nét bút thì hùng tú, rõ ràng là nét chữ của đàn ông, bọn chư ni trong tâm cũng trộm lấy làm ngờ. Khi ấy Ngộ Đàm đi đâu vắng mặt, chư ni mở trộm phong thư ra xem, nhưng chư ni bình nhật chỉ là hạng người hơi biết chữ mà thôi, khi đó trông vào bức thư, mắt nhìn tròng trọc không hiểu gì cả, mới cầm bức thư ấy lên trình người sư già trong am. Người sư già xem xong vỗ xuống án kinh, đùng đùng cả giận, vì trong thư không có lời gì khác, chỉ rành rành là một bài thơ tình vậy, thơ rằng:

Tuổi vàng đá biết kể từ phen

Đôi ngả tương tư đã mấy niên

Chỉ nguyện hóa thân làm nệm gấm

Đem đêm cho khách khỏi sầu miên.

Dưới thơ đề ba chữ Đa Tình Nhân, lời thơ rất suồng sã vô lễ. Một lúc Ngộ Đàm trở về sư già đưa thơ cho Ngộ Đàm xem, cơn giận chưa ngớt, trách mắng Ngô Đàm vô hạnh. Ngộ Đàm khi ấy như gặp một tiếng sét bàng hoàng chẳng biết thế nào, vội vàng khóc òa lên, chư ni kẻ nào kẻ nấy đều bưng miệng cười. Ngộ Đàm tự nghĩ rằng mình gặp cái oan khó bạch, chỉ có một sự chết là có thể bạch được mà thôi. Song lại nghĩ đi nghĩ lại rằng “bà Thị Kính ngày xưa, thuở làm vợ thì chồng ngờ thất tiết; lúc làm trai thì gái đổ oan tình”. Thị Kính sở dĩ thành Phật là vì nhẫn được, ta ngày nay lại chẳng nhẫn được hay sao? Chỉ học bà Thị Kính là đủ, còn tiếng thị phi đành để mái ngoài.

Sau cũng có kẻ vì Ngộ Đàm giải oan mà hiểu cho cho sư già rằng: “Cây quế ở trên cung trăng có thể ngăn cấm được người lên cung trăng mà víu bẻ, chứ có thể ngăn cấm được người đứng dưới đất mà trêu cợt được không?” Người sư già sau cũng tỉnh ngộ ra, lại kính đại Ngộ Đàm như trước. Nhưng Ngộ Đàm từ đấy khép cửa phòng văn lấy sự làm thơ làm sự đại giới. Trong am Hưng Phúc trước kia vui vẻ lý thú chứng nào sau này u sầu tịch mịch dường nào, ai nấy đều thóa mạ chàng văn sĩ ấy.

5. Cô sư Ngọa Vân

Ngọa Vân là một người đẹp trong cửa không, tuy mầu thiền ăn mặc chỉ ưa nâu sồng, nhưng vẫn hiện ra một chiều phong vận, một dáng thanh tân, hai làn thu thủy, đôi nét xuân sơn cũng đủ khiến người hồn xiêu phách lạc. Gần miền ấy có một ông nhà giàu là Lục Cẩm Xuân, thời thường đến chơi chỗ cảnh thiền của Ngọa Vân ở, trông thấy Ngọa Vân, kinh dị cho là người trời, nhằm lâu chẳng chớp mắt, đứng ngây như người gỗ. Ngọa Vân thấy dáng bộ Cẩm Xuân đáng nực cười, liền mỉm miệng một cười. Cẩm Xuân tưởng rằng Ngọa Vân có ý với mình khôn xiết mừng rỡ. Duy ngại vì tai mắt người khác, chưa dám cùng với Ngọa Vân chuyện trò.

Sau khi Cẩm Xuân đã về nhà, mộng hồn điên đảo, tâm ý động lay. Từ đấy Cẩm Xuân đến chùa luôn luôn, giả danh ngoạn cảnh, nhưng thực thì chỉ Cẩm Xuân chẳng ở cảnh chùa mà ở cảnh khác vậy, Cẩm Xuân cũng có lúc chợt gặp Ngọa Vân, hai người nói chuyện, Cẩm Xuân hỏi thì Ngọa Vân đáp, hễ Cẩm Xuân hơi thiệp đến giọng lả lơi, thì tức khắc quay đầu rảo bước đi, vốn nghiễm nhiên là bậc thanh tu không thể xâm phạm được. Như thế đã hơn một năm. Chợt gặp năm ấy là năm mất mùa, giá thóc rất cao, dân ăn chẳng đủ mà nhà giàu thì vẫn chứa thóc làm cao không chịu bán, Cẩm Xuân cũng chứa thóc mấy khó giữ làm của quý. Ngọa Vân nghe biết Cẩm Xuân có nhiều thóc, vùng đứng lên nói rằng: “Ta chẳng cứu dân đói, dân đói nguy cả đến nơi”. Mới văng mình đi đến nhà Cẩm Xuân. Cẩm Xuân kinh ngạc hỏi cớ Ngọa Vân lại, Ngọa Vân đáp rằng: “Ông có tình với tôi đã lâu, tôi há chẳng biết, nhưng tôi nghĩ rằng đã vào cửa không, lục căn đã thanh tịnh cho nên chẳng dám chút manh ra cái niệm tà. Chẳng ngờ đêm hôm qua tôi nằm mộng thấy đức Quan Âm Đại sĩ bảo tôi rằng: “Mày với Phật vô duyên, nên hoàn tục làm lễ mọn chỗ nhà giàu, sớm sửa sinh ra con quy, duy phải sửa sang chùa tháp, tô lại tượng vàng mày với Cẩm Xuân vốn có túc duyên, nên đem cái thân mày đổi lấy thóc người ấy, được số thóc bao nhiêu sẽ đem kinh lý về việc ấy”. Tôi vì cớ thế cho nên đường đột tỏ bày, xin làm vợ mọn ông, ông có thể thu chứa được không?

Cẩm Xuân cho rằng tương tư tương mộ đã nhiều ngày, mà nhất đàn được như nguyện ngay, tức khắc khẳng khái nghe lời. Ngọa Vân mới sai người đi chở thóc ở nhà Cẩm Xuân về chùa để chẩn cấp cho bọn dân đói. Sự xong Ngọa Vân liền lánh đi phương khác, kịp khi Cẩm Xuân nghe tin, thì tung tích Ngọa Vân Đã mù mịt như chim hoàng hạc bay đi rồi, chẳng biết đâu mà tìm nữa, chỉ kêu rằng mắc lừa thôi.

Ôi sách Phật chỉ dạy nói thật, không dạy nói dối, chỉ dạy cứu người không dạy lừa người. Song chẳng nói dối sao phá được kho thóc của kẻ lậu, chẳng lừa một người sao cứu được mệnh chết của muôn người. Như cô Ngọa Vân kia há chẳng phải là con nhà tu hành mà kiêm có tính cách quyền biến đấy ư?

6. Cô sư Tuệ Nhân

Am Định Phúc có người ni cô tên là Tuệ Nhân, tuổi mới mười sáu, dung quang yếu điệu, sắc đẹp có thể làm no được người. Tính tình đoan trang nghiêm khắc, cả ngày không có dáng cười, chỉ suốt ngày tĩnh tọa đốt hương, lặng lẽ không nói một lời gì cả. Người ta khen cô là người tu hành đã có định lực, nhưng không biết rằng kẻ thương làm ấy có nông nổi riêng, thường sa nước mắt lúc vắng người. Những giọt hoen ố ở bên gối đó, đều là giọt huyết lệ vậy, có nét mặt vui vẻ gì để mở ra với người. Trời tình khó vá, bể hận ai khơi, ấy Tuệ Nhân sở dĩ suốt ngày chẳng nói chẳng phải là không có cớ. vì Tuệ Nhân vốn là con nhà giàu đọc sách biết chữ, lấy lễ giữ mình. Trông thấy con gái tục hư bỏ cả lễ giáo, lấy làm đau xót, chẳng muốn theo đời, cam tâm trái tục, đối với những hạng phụ nữ lẳng lowtrong hiện thời, không giao du với ai cả. Nhưng khốn thay người thanh phẩm lạ, kẻ biết thì ít, kẻ ghét thì nhiều, lời gièm pha vì thế dấy lên.

Nguyên Tuệ Nhân đã cùng với một chàng họ Hà ước thệ sự hôn nhân, hai người vốn quen biết nhau, chỉ là vị hôn phu thê đấy mà thôi. Lạ gì “cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ gièm pha”. Bọn phụ nữ kiêu ngoa lắm, vì cớ ghét Tuệ Nhân là kẻ bất hợp thời, nhân đặt điều cho Tuệ Nhân là kẻ có ngoại tình, mục đích là để phá hoại sự lương duyên của Tuệ Nhân. Trước khi lời gièm pha mới khởi lên, chàng họ Hà còn chưa thật lấy làm tin, về sau điều tiếng dăng dăng miệng kẻ chúng làm chảy được vàng, chàng họ hà mới cả phát giận, vội đi đến nhà Tuệ Nhân bảo Tuệ Nhân rằng. “bên ngoài đồn việc này đấy, nàng có biết không? Tôi đã không thể kham được, cho nên đến đây để hỏi nàng”.

Tuệ Nhân không biết nói thế nào, chỉ trỏ thề trời đất, hết sức biện bạch là người ngoài vu oan. Gã họ Hà cười nhạt nói rằng: “Tuy rằng sự ấy không chứng cớ gì thật, nhưng “thế gian chẳng ít thì nhiều, không dưng ai dễ đặt điều cho ai”. Bọn kia với nàng không ân oán gì cả, mà lại vu oan cho nàng là ý làm sao? Tôi muốn để bụng không nói ra cũng không thể được. Tôi đi về đây, tùy nàng muốn làm thế nào thì làm. Chàng họ Hà nói xong ngậm ngùi trở ra. Tuệ Nhân biết rằng sự khó biện bạch, mới thở dài tự nói một mình rằng: “Đời người còn dài, đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh, tưởng cũng khó ăn ở lâu với người ấy được. Xem ra chàng họ Hà cũng là một người ngu dốt, rồng vàng có thể tắm nước ao tù được chăng? Nhưng ta với người ấy, tuy chưa chăn gối gì cũng đã vợ chồng, một quả chuông mà đem đi treo mấy cửa chùa, thì sao đủ làm gương cho thế tục. Chi bằng ta nên cầu lấy một cái kế sách tự toàn”.

Tuệ Nhân nghĩ đi nghĩ lại chưa được kế sách gì, chợt tỉnh ngộ ra mà nói rằng: “Được rồi” nói xong liền cầm dao đem mái tóc xanh như mây ở trên đầu cắt bỏ đi, lánh thân vào chùa học đạo làm ni. Sau chàng họ Hà nghe tin Tuệ Nhân thế phát  phát tu hành, lấy làm hối lại, đến chùa thỉnh tội cầu xá. Nhưng Tuệ Nhân tỏ ý cự tuyệt. Tuệ Nhân ở trong am, trừ việc tụng kinh niệm Phật ra, trong lòng còn mang một khối uất hận. Người ta bảo rằng chàng họ Hà là Thiện Sĩ tái thế. Mà Tuệ Nhân là Thị Kính hậu thân.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Những áng mây trắng - Thơ: Hoang Phong - Diễn ngâm: Hồng Vân
    • Mẹ ơi - Thơ: Thích Phước Hạnh - Nhạc: Hoàng Lan
    • Khúc ca Tịnh Độ - Lời: Thích Phước Hạnh - Nhạc: An Sơn
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 38
    • Số lượt truy cập : 6367646