VĂN BIA Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA CỦA THIỀN PHÁI TÀO ĐỘNG
PGS.TS. ĐINH KHẮC THUÂN*
Chúng tôi giới thiệu ở đây đôi nét khái quát về Thiền phái Tào Động và nội dung văn bia ở một số ngôi chùa của thiền phái này.
1. Thiền phái Tào Động ở Việt Nam
Tào Động là một tông phái Thiền quan trọng tại Trung Quốc được hai vị Thiền sư sáng lập, là Động Sơn Lương Giới và đệ tử là Tào Sơn Bản Tịch. Tên gọi Tào Động là do được ghép hai chữ đầu của tên hai vị này, lúc đầu được gọi là Động Tào, sau vì muốn cho thuận âm đọc nên đã đổi lại gọi là Tào Động.
Thiền Tào Động được Thiền sư Thông Giác Thuỷ Nguyệt (1637-1704) truyền sang Việt Nam từ giữa thế kỉ thứ 17. Sư dời Đại Việt vào năm 1664, cùng với hai đệ tử sang Trung Quốc, đến Hồ Châu học đạo với Thiền sư Nhất Cú Tri Giáo và ở đó ba năm sau mới về. Thông Giác truyền giáo cho Chân Dung Tông Diễn và phái này hoạt động ở Đàng ngoài, rất thịnh hành cuối thế kỉ 17 đầu thế kỷ 18.
Hoà thượng Thuỷ Nguyệt có Pháp danh là Thông Giác Đạo Nam thiền sư, tu hành đến bậc Bồ Tát nhục thân. Ngài sinh năm Đinh Sửu đời vua Lê Thần Tông (1637), năm 18 tuổi trúng tuyển Cống cử (Tứ trường), đến năm 20 tuổi xuất gia tại chùa xã Hổ Đội, huyện Thuỵ Anh (Thái Bình). Sau 6 năm xuất gia học đạo, Ngài vẫn chưa tìm được chân lý giải thoát giác ngộ, bèn xin phép sư phụ đi tham thiền học đạo khắp các chốn tổ, già lam ở trong nước; Năm 28 tuổi, sư tổ Thủy Nguyệt và hai đệ tử quyết chí hành hương sang phương Bắc "tầm sư học đạo". Ngài đến núi Phượng Hoàng, được yết kiến và thỉnh giáo Hoà thượng trụ trì Động Sơn Lương Giới trên núi Phượng Hoàng. Ngài là Tổ đời thứ 35 của Thiền Tông Tào Động ở Trung Hoa. Trải qua rất nhiều thử thách, khổ luyện. Khi nhân duyên đã đủ, Ngài Thủy Nguyệt được Hoà thượng Trí Giáo Nhất Cú truyền giới Cụ Túc, trao cho Tâm Pháp, ban pháp hiệu Thông Giác Đạo Nam Thiền Sư và cho về An Nam để truyền Tông phái Tào Động.
Như vậy, Hoà thượng Thuỷ Nguyệt là tổ đời thứ 36 của Bắc Tông Tào Động và là Đệ nhất tổ của Nam Tông Tào Động. Sư Tổ Thuỷ Nguyệt không chỉ khai nguyên chốn tổ Nhẫm Dương, mà còn là Tổ khai sáng chùa Hoè Nhai (Hồng Phúc tự) ở phố Hàng Than, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Để phân biệt Thiền phái Lâm Tế và Tào Động, người ta thường nói “Lâm Tế tướng quân, Tào Động thổ dân”. Có nghĩa là, Lâm Tế là thiền phái của hàng tướng quân Mạc Phủ, còn Tào Động là thiền phái của bình dân. Thiền Tào Động được thâm nhập vào đại đa số dân chúng, nên gọi là thứ dân thiền, là một Thiền phái đi thẳng vào tầng lớp thứ dân và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Thiền Tào Động là một trong những thiền phái kết hợp giữa lý giải và thực hành, nhưng đặt nặng về thực hành. Sự hành trì nghiêm mật không cho phép hành giả xao nhãng lười biếng mà phải dốc hết tâm lực và hành trì.
Cũng vì thế mà Thiền phái Nam tông Tào động ngày càng phát triển rộng rãi trong mọi tầng lớp xã hội thời Lê Trịnh thế kỷ 17-18.
2. Vị sư tổ thứ hai Nam tông Tào Động và chùa Hòe Nhai
Vị đệ tử được Thủy Nguyệt thiền sư truyền pháp tên là Tông Diễn hiệu Chân Dung. Ngài vốn là người Đông Sơn, nghe Thủy Nguyệt hành đạo ở gần, tới tham vấn và liền được giác ngộ, sau được thiền sư Thủy Nguyệt trao truyền tâm ấn truyền thừa. Vì vậy Hoà thượng Tông Diễn cũng chính là tổ thứ hai của phái Nam tông Tào Động.
Tuy nhiên, vào những năm giữa thế kỷ 17, triều đình ngăn cấm đạo Phật. Thậm chí, vua Lê Hi Tông vào năm niên hiệu Vĩnh Trị (1678) đã ra lệnh cho các quan khắp nước bất cứ ở đâu tăng ni hoặc già hoặc trẻ đều đuổi hết về rừng. Hoà Thượng Tông Diễn biết được tin này rất đau lòng, nên đã quyết chí rời chốn sơn dã về đất kinh thành mong cảnh tỉnh nhà vua cứu vãn Phật pháp thời hoạn nạn.
Ngài đến kinh đô đã ba tháng mà vẫn không được vào tiếp kiến vua. Ngài phải viết một tờ biểu nói rõ việc tu hành, cách thức làm yên nhà lợi nước. Vua nghe qua thấy lý lẽ rõ ràng, sự tình đầy đủ, lời văn sáng suốt, ý tứ thâm trầm, bèn ra lệnh cho vị tăng này vào triều. Trong triều, Vua hỏi những sách lược trị dân, sư ứng đối sự lý rất thông suốt. Khi ấy vua mới nhận ra rằng: “Đạo Phật là viên ngọc quý, chẳng nhẽ trong nước chúng ta không dùng, tăng ni hay người chuyên làm việc thiện, tại sao lại vứt bỏ đi? Người đem Phật pháp khai hoá dân chúng cũng là phương pháp tốt giúp cho triều đình trị dân”. Rồi Vua cho mời sư ở lại chùa Báo Thiên để bàn luận đạo lý. Sau, lại cho Sư được quyền ra vào nội cung để tuyên dương chính pháp, đồng thời ra lệnh thu hồi lệnh trước, để tăng ni được trở về chùa cũ tùy duyên giáo hoá.
Vua Lê Hy Tông thấm nhuần đạo lý, thành tâm sám hối lỗi trước của mình, nên cho tạc hình vua quì rạp xuống đặt tượng trên lưng, để tỏ lòng thành sám hối. Tượng này hiện còn thờ ở chùa Hoè Nhai (Hồng Phúc) ở Thăng Long.
Như vậy, chính sư tổ thứ hai Nam Tông Tào Động đã giải được ách nạn của tăng ni (Phật pháp) và giáo hoá được vua chúa trong triều.
Phái Tào Ðộng do Thủy Nguyệt và Tông Diễn truyền bá ở Ðàng Ngoài, rất được thịnh hành vào cuối thế kỷ thứ mười bảy và trong thế kỷ thứ mười tám. Hiện nay các chùa Hòe Nhai (Hồng Phúc), Hàm Long và Trấn Quốc ở Hà Nội đều thuộc tông phái Tào Ðộng.
Các ngôi chùa này hiện còn lưu giữ khá nhiều dấu tích của thiền phái Nam tông Tào Động, trong đó có văn bia Hán Nôm.
3. Văn bia ở các ngôi chùa Thiền phái Tào Động
1. Khánh Đức nham tự bi
Bia khắc trên vách đá hang chùa Hàm Long, Đông Triều, Quảng Ninh.
Nội dung:
Các sãi vãi các xã Tử Nham, Lạc Sa, Vân Nham huyện Đông Triều phủ Kinh Môn.
Vào ngày 24 tháng 2 năm Canh Tuất tu tạo quán Thanh Trà 2 gian, đến ngày 22 tháng 8 năm Tân Hợi chùa Khánh Đức nham tự xây cửa Tam quan và tường vách và 4 giếng, ao đầm. Đến tháng 9 trùng tu tượng Phật 24 pho. Công việc hoàn hảo, ghi lại lưu truyền về sau.
Hưng công hội chủ, đại sĩ, hội sĩ.
Khắc năm Hoằng Định (1616).
2. Khánh Đức nham tự bi
Bia khắc trên vách đá hang chùa Hàm Long, Đông Triều, Quảng Ninh.
Nội dung:
Các sãi vãi huyện Đông Triều phủ Kinh Môn
Ghi việc tạo tượng Phật và tiên sư gồm 27 pho
Kê các vị sãi vãi công đức tạo tượng
Khắc ngày lành tháng 11 năm năm Hoằng Định thứ 16 (1616).
Ruộng Tam bảo 5 sào.
3. Lưu Li động Khánh Nghiêm sơn Hàm Long tự
Bia vách đá cửa chùa Hàm Long
Dịch nghĩa:
Các sãi vãi trong các xã huyện Đông Triều phủ Kinh Môn đạo Hải Dương nước An Nam tu tạo Tiền đường, tam quan, xây tường thành, dựng bia đá. Công việc hoàn tất, kê khai sau đây.
Hội chủ Nguyễn Huyền Thông pháp hiệu Thủy Đạo, tự Phúc Khánh. Tín vãi Đặng Thị Xuân hiệu Từ Ý, Nguyễn Thị Đương hiệu Từ Tâm...
Phật tòa linh ứng, đệ nhất phúc địa, Phúc đẳng hà sa.
Ngày lành tháng 12 năm Thịnh Đức nguyên niên (1653).
4. Bia ma nhai động chùa Hàm Long
Dịch nghĩa:
Đúc chuông chùa, sửa Tam quan, xây tường vây, tu sửa tòa Thượng điện ba gian, tu sửa 3 pho tượng Phật, tạo một pho tượng sư tổ để phụng thờ. Công việc viên mãn, khắc bia lưu lại.
5. Bia tín thí
Chùa Hàm Long
Dịch nghĩa:
Xã Hương Lật huyện Đông Triều phủ Kinh Môn.
Tín quan cai huyện kiêm thủ ước tước Triều Uy hầu Bùi Đình Hiệp, tự Bách Phúc vợ Đào Thị Phúc hiệu Minh Thông. Vốn là mấy năm trước dân xã có tôn bầu làm Hậu Thần, nên nay mua đất cúng cho chùa.
Dân nguyện phụng thờ ông bà mãi mãi.
Ngày mồng 10 tháng 2 năm Thịnh Đức thứ 6 (1658).
Viết chữ là nhà sư Tăng thống tự Huệ Vân.
5. Khánh Đức Nghiêm Sơn bi
Bia dựng trước chùa Hàm Long, Đông Triều, Quảng Ninh.
Dịch nghĩa: Bia chùa núi Khánh Đức Nghiêm Sơn
Nhà sư trụ trì chùa Hàm Long Thiền tự núi Khánh Đức Nham 3 xã Tử Nham, Lạc Bí, Vân Nham huyện Đông Triều phủ Kinh Môn là Tì khưu tự tính Thành hưng công xây dựng viên mãn, tạo dựng bi kí để truyền mãi về sau.
Thường nghe, bia thường là gắn với danh tích. Di tích tại núi có tên là Thạch thi tiết, có hình dáng cao ngạo, người người đến đây chiêm ngưỡng. Quan sát về tính, thì mưa mà không chuyển, gió mà không động, mở ra lượng. Về hình của nó đứng mà có thể vuông, ngồi mà có thể tròn, rèn rũa mà thành đều do sức người.
Nay có thắng cảnh Hải Dương, đông độ danh sơn. Cảnh này là Hàm Long diệu thù, hang động tối kỳ, mở ra đầu mối, không biết trước sau đến nay hiển ứng khó lường, từ đầu đến cuối. Sự huyền vận này có được là nhờ ở thiên tư, lại được gia tăng thêm ở việc nhân sự.
Nay có vị Tì khưu tự là Tính Thành là người làng Đại Lã huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách, thác sinh ở xứ nghèo, lớn lên ở cửa Thiền, luôn nhớ đến ân đức của sư tổ mà chưa báo đáp được, cảm thấy việc báo đáp ơn Phật thật khó. Vì thế hưng công tu tạo Phật tòa tôn nghiêm, gắng sức đúc chuông đồng bảo khí, công việc viên mãn. Thật là trước chùa rộng mở, lầu phượng nguy nga, đường rộng thênh thang, mở ra cửa rồng mênh mang, lợp ngói, xây tường, làm bậc đá. Thập phương công đức tạo am Xá doanh để tụ hội thiền môn, lại khoan giếng, đào ao để có nước trong mát. Trong thì sáng tâm, đất bằng rộng; ngoài thì tăng niềm vui, mãi làm công án nghìn năm, đủ làm nhân duyên Tam bảo, mây lành cảnh đẹp.
Lại hưng công tô tượng tôn nghiêm ở am Thiên sư, cùng xây cất cầu kiều ở bên làng, rộng đường cho người người qua lại khi nắng khi mưa. Quan cung ngói lợp, đường thông các ngả, mở lòng nhân, ân sâu nặng lưu truyền mãi mãi. Nay dựng bia đá để làm rạng rỡ vô cùng. Công đức như nước Hoàng Hà, như núi Thái Sơn, vững bền vận nước, lưu truyền con cháu. Có bài minh rằng:
Kỳ vĩ hang động,
Trác việt núi Côn
Nghiêm sơn chót vót
Trời đất mênh mông
Núi Càn sừng sững
Dòng Tốn trào dâng
Rồng vàng phun móc
Tượng trắng quỳ chầu
Động thấu vút không
Lầu gác chuông vang
Cửa huyền rộng sáng
Biển học chấn hưng
Công trời khéo tạo
Sức người hiền lương
Ngày qua tháng lại
Trời đất vần xoay
Cửa mây sáng mãi
Điện tía trùng quang
Chung đúc tú khí
Dân được an lành
Nhà nhà hoan hưởng
Vinh hưởng đời đời
Mãi cùng trời đất
Khang thọ muôn cùng
Phúc tuệ cùng đến
Công đức khó lường
Nay tạc bia đá
Hậu đại lưu danh.
Kê:
Năm Tân Mùi, tân tạo Thánh tượng Di đà độc tôn các tòa Như Lai 41 pho, trùng tu 10 pho, công việc viên mãn.
Năm Ất Hợi, tân tạo Tam quan 1 gian hai chái.
Năm Canh Thìn tân tạo Thượng điện chùa Vân Liêu 1 gian 2 chái, và tân tạo tượng Thánh 4 pho, trùng tu 8 pho. Công việc hoàn hảo. Năm Ất Dậu mua mới 7 sào ruộng.
Năm Mậu Tý tân tạo 1 gác chuông, viên mãn. Năm Ất Mùi làm thềm đá, gác chuông, tường bao, khoan giếng đào ao, tân tạo thềm bậc đá chùa Thiên Sư, xây tam quan, tường xây bốn phía hoàn hảo.
Năm Bính Thân tô các tòa tượng Thánh và trùng tu tam quan, quán Kiều Trà 3 gian 2 chái, tô tượng chùa Vân Liêu.
Năm Đinh Dậu tân tạo 1 tòa am thiền, công việc hoàn hảo. Năm Nhâm Dần mua ruộng 2 mảnh cùng xứ Nham Cấp, 1 mảnh 7 thước tại chùa Thượng Viên.
Hưng công Hội chủ Tuệ Viên Tì khâu tự là Tính Thành. Môn nhân Sa di tự là Hải Du, tự là Hải Diễn, tự là Hải Muộn.
Quan viên hương trưởng và toàn xã Tử Nham.
Quan viên hương trưởng và toàn xã Lạc Bí
Quan viên hương trưởng và toàn xã Vân Nham.
Mặt sau: Kê tên người, gồm Nguyễn Nhân Thành vợ Nguyễn Thị Hiển và bản tộc công đức ruộng 7 thước,
Đào Doãn Tiên, vợ Trần Thị Khám...
Ngày lành tháng cuối thu năm Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714).
6. Hiền Thiện tháp minh tự
Dịch nghĩa: Bài minh và lời tựa tháp Hiền Thiện
Bia là để khắc truyền về sau. Nay sư đã hơn 78 tuổi rồi. Người dân trong ấp là Vũ tộc lưu tiếng thơm, ẩm tính có lòng từ bi, tu hành Phật đạo, trí lực khang cường. Nhưng khi tùng bách cao niên, thì tang du vọng tưởng, từ bỏ cảnh trần, vui với nơi tính tịnh, như vào bảo sơn, ai có thể tay không mà dụng được công mệnh, dựng tháp khắc bia lưu lại để đệ tử vâng thừa bồi đắp lòng hiếu. Vì thế kê ra sau đây. Kê:
- Nguyên bản chùa, do người dân trên dưới xã Vĩnh Khang thấy được ân đức mà tôn bầu Hậu Phật phụng thờ. Trụ trì chính tháp, che chở an dân. Nhân đó Thiền sư tên tự là Như Khánh, nhớ ân đức mà ban cho dân xã 30 quan tiền cổ và mua 1 mẫu ruộng ở xứ Giám Viện giao cho 13 sãi vãi cày cấy để hàng năm vào ngày húy kỵ thì biện 10 mâm xôi, mỗi mâm 10 đấu, cùng hoa quả, cau trầu, áo quần trang nghiêm cúng tế theo nghi thức. Tế xong thì biếu Thủ tòa 1 mâm xôi, còn lại bản xã trên dưới thụ lộc.
Ngày húy nhật về sau cúng giỗ không được vong ân, nay lập giao ước.
Nay có ruộng mua ở các xứ sở cúng làm ruộng đèn nhang, kê ra sau đây:
- Một mảnh xứ Cửa Chùa 7 sào, 1 mảnh xứ Giám Viện,...
Ngày lành tháng cuối Xuân năm Kỷ Mùi, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5 (1739).
Thủ tòa Sa di tự Tính Dược phụng thờ, cùng Thông Tràng trông coi.
Môn đồ tự Hải Thọ vâng viết.
Bên phải đề bài tán. Bài tán rằng:
Đạo mạch lưu truyền, tự cổ chí kim
Đàm hoa thụy hiện, ánh đông lâm
Phiến ngôn dĩ định thành bảo sở
Xích thạch năng tri tăng ngọc tâm
Long ẩn tháp trung, tham thính kệ
Vân tòng trượng để, dị tri âm
Nhất buồm dư tải Tây lai ý
Vĩnh vĩnh đăng ngôn tán ngưỡng khâm.
Dịch:
Mạch đạo lưu truyền từ xưa đến nay
Hoa Đàm thụy hiện, rạng rừng đông
Tấc lòng đã định thành bảo sở
Gang bia hay biết trái tim vàng
Rồng ẩn trong tháp, cùng nghe kệ
Mây theo trượng để biết dư âm.
Một cánh buồm đủ đến cõi Tây
Mãi mãi hết lời nguyện ngưỡng trông.
Bia chùa Hàm Long (Nhẫm Dương) Đông Triều, Quảng Ninh.
7. Bia chùa Hòe Nhai, Hà Nội:
Dịch nghĩa: Bài ký trên bia chùa Sùng tu chùa Hồng Phúc
Chùa Hồng Phúc phố Hòe Nhai ở vùng Kinh đô triều Lê....
Bấy giờ có vị Tổ sư đời thứ hai của phái Tào Động vâng theo chỉ dụ vua ban giúp cho tiền của để tu sửa lại chùa. Một phen ra tay tu tạo, bốn bề liền thấy phong quang. Kế đăng truyền nối đã qua bốn đời tổ rồi. Khi đó, vào tháng Ất Mùi (tháng 6) năm Bính Ngọ (1786) sao Bắc đẩu ở trên trời bị mây mù bao phủ, đất Trung nguyên ở dưới nhân gian loạn lạc. Cảnh chùa Hồng Phúc vì thế mà bị thiêu hủy sạch không. Những muốn khôi phục lại công quả cũ, ắt phải đợi đến người có công đức lớn. Bấy giờ có vị Kế đăng Tôn giả pháp hiệu Khoan Nhân nhớ đến công lao của Tổ sư khai sáng trụ trì, há lại cam tâm chịu ngồi nhìn cảnh chùa hoang phế sao? Do vậy, bèn mở lòng kim cương, khai trí bát nhã, đem tấc thành xây tòa bát biểu; dùng muôn thiện dựng cảnh thiền đường. Tiền tài cung tiến mỗi lúc một nhiều, ngói gỗ mua về ngổn ngang chất chứa. Đem ra xây dựng, cuối năm hoàn hành. Như chim cất cánh như diều bay cao, làm đổi thay thành một khoảng trời mới lạ, so với xưa thì khác xa nhiều lắm. Nay muốn truyền lại lâu dài, liền sai viết bài minh, giao cho đệ tử Giác Lâm.
Ngày tốt tháng 11 năm Gia Long thứ 10 (1811) Đặc tứ Đạo nguyên Tăng thống Thanh Lãng Tì khưu tự là Khoan Dực soạn.
Trên đây là tóm tắt nội dung một số văn bia ở các ngôi chùa Tào Động, qua đó phần nào thấy được quy mô, bài trí Phật điện ở từng ngôi chùa cụ thể, các vị sư trụ trì, cũng như thực trạng của Thiền phái này trong bối cảnh xã hội nhiễu nhương thời Lê Trịnh thế kỷ XVII-XVIII.
Tin tức khác
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 31 – THÁNG 1 NĂM 2020
- NHÂN VẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 30 – THÁNG 10 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 29 – THÁNG 7 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 28 – THÁNG 4 NĂM 2019 (PL. 2563)
- KÍNH MỜI QUÝ VỊ XEM TỪ QUANG TẬP 27 – THÁNG 1 NĂM 2019 (PL. 2562)
Bình luận bài viết