Thông tin

VÌ SAO TÔN GIẢ MỤC KIỀN LIÊN KHÔNG THỂ DÙNG THẦN THÔNG CỨU MẸ?

VÌ SAO TÔN GIẢ MỤC KIỀN LIÊN

KHÔNG THỂ DÙNG THẦN THÔNG CỨU MẸ?

 

TUỆ QUÁN

 


 

Mỗi năm vào dịp Rằm tháng Bảy âm lịch, không riêng gì Phật tử, mà đa số người dân Việt đều nhớ đến truyền thống tốt đẹp Mùa Vu lan, tưởng nhớ công ơn và báo hiếu đối với đấng sanh thành, cùng là tổ tiên nói chung. Tích Vu lan Bồn được cho là ra đời từ thời Đức Phật. Chuyện kể rằng Tôn giả Mục Kiền Liên là một trong Thập đại đệ tử của Đức Phật, được xưng tán là thần thông đệ nhất. Sau khi đắc đạo, Tôn giả nhớ mẹ, Ngài dùng huệ nhãn tìm thì thấy mẹ mình là bà Thanh Đề đang ở trong địa ngục, chịu đói rét khổ sở. Ngài dùng thần thông đi xin được bát cơm đem đến dâng mẹ, nhưng khi bà Thanh Đề bốc ăn thì cơm hóa lửa, không dùng được, khổ sở vô cùng. Ngài thương mẹ, về thưa thỉnh Đức Phật và được chỉ dạy, do mẹ ông gây nhiều ác nghiệp từ trước nên sanh vào ác đạo, ông dù tu chứng, có thần thông cũng không thể tự mình cứu mẹ được, phải lập hội Vu lan, sắm sanh lễ vật cúng dường chư tăng, sau ba tháng an cư kiết hạ, thỉnh chư tăng chú nguyện để cứu mẹ. Mục Kiền Liên làm theo lời Phật dạy, và mẹ của Ngài đã thoát khỏi cảnh giới ngạ quỷ, sanh về cõi lành. Từ đó về sau, không những chư tăng ni, mà Phật tử tại gia muốn báo hiếu với cha mẹ thì nên làm theo như vậy. Truyền thống mùa Vu lan báo hiếu ra đời từ đó.

Chúng tôi rất ấn tượng lần đầu tiên dự lễ Vu lan tại thiền viện Trúc Lâm Đà lạt, nghi thức lễ Vu lan tại thiền viện đơn giản mà trang trọng. Buổi sáng rằm tháng Bảy âm lịch, gần như toàn bộ chư tăng ni (trừ một số ít đang làm Phật sự) sau ba tháng an cư kiết hạ, mặc y vàng trang nghiêm, thứ tự theo thứ lớp, từ nội viện đi ra; Phật tử sắp thành hàng dài hai bên, chắp tay cung kính chào đón, tập trung về tại chánh điện dự lễ, trong ba hồi chuông trống Bát nhã trầm hùng. Sau nghi thức tán Phật, lễ Phật, tán Pháp, tụng Bát Nhã Tâm Kinh, rồi đến bài tụng Vu lan do Hòa thượng Thích Thanh Từ soạn đầy đủ ý nghĩa, xin chép lại nơi đây:

Tụng Lễ Vu lan

Hôm nay chúng tăng Tự tứ,

Ngày hội Vu lan.

Toàn thể chúng con:

Tăng, Ni, Phật tử,

Hồi tâm tưởng nhớ,

Tôn giả Mục Liên.

Tu hành đã chứng,

Lục thông La-hán,

Vẫn còn thương mẹ,

Chẳng biết nơi nao?

Sáu đạo luân hồi,

Quyết tâm tìm kiếm,

Thiên nhãn soi cùng,

Đến nơi ngạ quỷ,

Mẹ ta đây rồi!

Lang thang đói khổ,

Ruột đau như cắt,

Không thể ngồi yên.

Liền đi khất thực,

Được bát cơm đầy,

Dùng thần túc thông,

Đem cơm dâng mẹ,

Nhìn thấy bát cơm,

Mẹ mừng khôn xiết,

Tay vừa bốc ăn,

Cơm liền hóa lửa!

Đớn đau khó tả,

Rơi lệ dầm dề,

Vội lui trở về,

Cầu Thế Tôn cứu,

Thế Tôn chỉ dạy,

Lập hội Vu lan,

Thỉnh mười phươngTăng,

Đồng tâm cầu nguyện.

Lễ hội vừa xong,

Cõi trời mẹ đến,

Mục Liên hớn hở,

Vui vẻ khôn cùng,

Lại hỏi Phật thêm,

Con hiếu sau này,

Mẹ cha quá cố,

Lập hội được chăng?

Phật liền dạy rằng,

Thiết lễ Vu lan,

Cứu độ lục thân

Bảy đời cha mẹ

Nhớ gương Mục Liên,

Người con hiếu thảo,

Tu chứng giải thoát,

Vẫn quý mẹ cha.

Huống nữa chúng con,

Còn là phàm tục,

Công ơn cha mẹ,

Trời bể khôn bì.

Bổn phận làm con,

Làm sao quên được,

Dâng hiến trọn đời,

Chưa tròn chữ hiếu.

Thân con có ra,

Từ nơi cha mẹ,

Dù nát thân này,

Chẳng đủ đền ân,

Con nào dám nghĩ,

Bỏ mẹ quên cha,

Có ai ruột rà,

Bằng cha với mẹ.

Sanh thành khổ nhọc,

Nuôi dưỡng tâng tiu,

Miễn con khỏe vui,

Là cha mẹ thích,

Con vừa chớm bệnh,

Cha mẹ buồn rầu,

Chạy ngược chạy xuôi,

Rước thầy tìm thuốc.

Chỉ nghĩ đến con,

Mà quên khổ nhọc.

Con là hòn ngọc,

Của quý mẹ cha,

Vắng mặt con thơ

Mẹ cha sầu thảm,

Dù con khôn lớn,

Cha mẹ nào quên,

Thương mãi thương hoài,

Đến ngày nhắm mắt.

Hy sinh cả đời,

Cũng vì con trẻ,

Muốn được con vui,

Quên mình tạo tội,

Đời này đã khổ,

Kiếp khác nào an,

Càng nghĩ đến Người,

Lòng con se thắt!

Nguyện tu tinh tấn,

Làm những điều lành,

Dâng công đức này,

Đền ân cha mẹ,

Xin trên Tam Bảo,

Chứng giám lòng con,

Bao nhiêu phước lành,

Nguyền xin hồi hướng,

Cho đấng hai thân,

Còn sống an khang,

Phát tâm Bồ-đề,

Tu hành chánh giác;

Nếu đã quá cố,

Siêu thoát trầm luân,

Sanh trong đường lành,

Tu theo chánh pháp,

Hạnh duyên đầy đủ,

Phật đạo chóng thành.

Nam-mô Đại Hiếu Tôn Giả Mục Kiền Liên. (3 lần)

Khi cùng quý thầy, ni và đại chúng tụng chưa hết một phần ba, bỗng nhiên nhớ về người mẹ mất sớm thuở tuổi còn thơ, tự dưng xúc cảm, nước mắt trào dâng không ngăn được, cho đến hết buổi lễ.

Về tích chuyện Vu lan Bồn, có nhiều ý kiến cho rằng xuất hiện sau này bên Trung Quốc, không phải từ thời Đức Phật, vì trong kinh Nguyên Thủy không có ghi kinh này. Phật giáo Nam truyền cũng chỉ có lễ Tự tứ, chứ không có lễ Vu lan. Đã có vấn đề tranh cãi khi một số ý kiến cho rằng đây là câu chuyện ngụy tạo sau thời Đức Phật. Chúng tôi không có ý đi sâu vào việc tranh luận này, chỉ thấy ở đây những ý nghĩa rất hay, rất lợi ích cho mọi người trong cuộc sống, cũng như trên con đường tu học. Lễ Vu lan từ xưa đã là truyền thống tốt đẹp, là nét đẹp văn hóa trong đời sống người dân Việt.

Có chuyện ghi lại rằng: Ngày xưa, tại một ngôi chùa nhỏ tại làng quê nghèo, có một vị sư đức hạnh trụ trì, cùng một vài chú điệu ở chùa được sư dạy dỗ. Trong làng có hai vợ chồng ông bà lão không có con cái, cuộc sống nghèo khổ khó khăn. Một hôm, hai ông bà nói với nhau, số phận vợ chồng mình nghèo khổ lại không có con cái nương tựa tuổi già, có lẽ do không biết tu thân tích đức. Vậy nên, trong làng có ngôi chùa, lại có vị sư trụ trì đáng kính, hai ta nên sắm sanh chút lễ vật đến chùa, cúng dường lễ Phật, để gieo duyên lành tích phước. Khổ nỗi, hai ông bà nghèo quá, không tìm ra được gì để cúng Phật, nên hai ông bà quyết tâm mỗi ngày dậy sớm ra đồng mót lúa. Qua thời gian, hai ông bà cũng dành dụm được ít lúa chắc, cố gắng thức suốt đêm đến sáng, dùng tay bóc vỏ trấu, hai ông bà được gần một lon gạo, vui mừng nấu được nồi cơm thơm, chuẩn bị tươm tất, trong lòng hoan hỉ, dắt nhau đi đến ngôi chùa.

Vị sư trụ trì đêm qua ngồi thiền tĩnh tọa, lòng rỗng rang cảm nhận được sáng mai có khách quý đến chùa. Nhưng do có việc Phật sự phải đi sớm. Thầy gọi hai chú điệu dặn dò là hôm nay có khách quý đến viếng chùa cúng Phật, nên phải quét tưới, lau chùi, cắm hoa, sửa soạn đón khách quý. Dặn dò xong, thầy yên tâm rời chùa đi Phật sự.

Hai chú điệu nghe lời thầy dặn dò đón khách quý, lòng rất vui mừng, siêng năng, hăng hái làm theo lời thầy, quét sân, tưới cây, lau chùi sạch sẽ, trang trí khá tươm tất, rồi ngồi mong ngóng khách quý đến lễ Phật cúng dường. Hai chú điệu chờ hoài sốt ruột, vẫn chưa thấy thí chủ sang trọng nào đến, mãi đến nửa buổi sáng mới có hai ông bà lão nghèo, quần áo không được lành lặn, đến cổng chùa xin vào lễ Phật cúng dường gói cơm trắng. Hai chú có ý chờ vị thí chủ giàu sang đến (hiểu không đúng lời thầy), nên không muốn mở cổng cho hai ông bà lão vào, nói rằng ông bà hãy đợi, mà không nói lý do. Trời càng gần trưa càng nắng nóng, hai ông bà năn nỉ xin vào mấy lần không được. Việc phát tâm về chùa lễ Phật, cúng dường, tấm lòng tốt của hai ông bà đã không được chào đón. Phần vì tuổi già đi đường mệt mỏi, phần vì đói, lại phải gặp việc đối xử như vậy, lòng kiên nhẫn đã hết và tâm sân hận sanh khởi lên nơi bà vợ. Mặc dù được ông lão khuyên can, nhẫn nhịn, bà lão vẫn không kềm được lửa sân hận, bà chửi rủa chùa chiền, từ tăng cho đến Phật, lời nguyền rủa nặng nề, thề độc phá hoại Phật pháp. Chưa hả giận, bà hất gói cơm văng tung tóe, chửi thêm một hồi rồi căm tức bỏ về. Hai chú điệu không ngờ xảy ra sự việc như vậy, sợ hãi trốn sau chùa. Đến chiều tối, vị sư trụ trì về đến, hỏi thăm và nghe hai đệ tử nhỏ tuổi kể lại toàn bộ sự việc. Ngài giật mình và hối hận vì bản thân đã không nói rõ hơn, làm hai chú điệu tuổi còn nhỏ hiểu lầm, để xảy ra sự việc đáng tiếc, và nhân quả hệ lụy nguy hiểm vô cùng. Lo sợ bà lão trong cơn sân hận đã tạo nghiệp dữ sẽ sanh vào ác đạo nhiều đời sau. Xem lại cũng do lỗi của mình thiếu suy xét, không cẩn thận, vị sư đến quỳ trước Tam Bảo sám hối, phát nguyện nhiều đời đi theo, sanh vào làm con bà lão để hướng thiện bà, chuộc lại lỗi của mình. Do nhân duyên ấy, vị sư nhiều đời sanh vào làm con của bà lão, cho đến đời hiện tại được biết Mục Kiền Liên là vị sư ấy, còn bà lão ngày đó là bà Thanh Đề, mẫu thân của ngài trong thời Đức Phật.

Như trên đã nói, chúng ta hãy khoan tranh luận, xác nhận tính xác thực của câu chuyện, để rút ra vài ý nghĩa rất thực tế từ chuyện trên. Chúng tôi đã từng gặp một số trường hợp sự việc tuy khác, nhưng nội dung lại giống nhau. Ban đầu, cũng có một số người phát tâm tốt về chùa gieo duyên lành, lễ Phật, gặp sư cúng dường, nhưng khi xảy ra việc bất như ý, thì mất kiên nhẫn, nổi sân, đổ lỗi cho người, việc nọ, quay ngoắt 180 độ, đánh mất duyên lành phát tâm ban đầu. Thậm chí, do thiếu kềm chế, tâm nổi sân, từ ý nghĩ cho đến lời nói, hành vi, tạo nên nghiệp không tốt phải lãnh quả khổ sau này, giống như bà Thanh Đề vậy. Xét cho kỹ, cũng bởi chấp trước, làm việc tốt nên chấp rằng phải được đối xử tốt, đến khi gặp cảnh trái duyên, đụng chạm đến bản ngã, đã nổi tâm sân hận, không chịu xét mình duyên với Tam Bảo mỏng manh, nhiều đời học theo tà kiến ngoại đạo, nên việc tốt ban đầu đã chuyển thành xấu. Uổng thay!

Đó là đối với người gieo duyên với Phật pháp, còn đối với chư tăng ni, được gọi là sứ giả của Như Lai, nếu không sáng tỏ, quán xét kỹ lưỡng, xử sự thiếu thận trọng, cũng dễ để xảy ra phá kiến chúng sanh, trượt đi duyên lành gieo duyên cho người tìm đến cửa Phật, cũng phải chịu trách nhiệm. Vì tạo nhân quả không tốt, sẽ vất vả trên đường đạo hạnh, nên câu chuyện mẹ con Thanh Đề - Mục Kiền Liên, là bài học quý giá cho mọi người.

Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi; Mục Kiền Liên đã tu chứng, lại đắc thần thông, lại không cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục? Hoặc tại sao đức Phật, khi được đại đệ tử của mình cầu cứu, lại không giúp ngay, mà lại chỉ đến thỉnh các chư tăng? Ngày trước, chúng tôi cũng có nghi vấn, vì cho rằng: Có thần thông phép tắc thì muốn cứu ai cũng dễ dàng, hơn nữa Mục Kiền Liên đã tu chứng, đạt đạo, lại làm việc chính đáng là thể hiện tấm lòng người con muốn cứu mẹ mình? Rồi Đức Phật là Giáo chủ đầy quyền năng sao không tự mình giúp đệ tử mà lại giới thiệu qua chư tăng? Sau này nghĩ lại mới thấy suy luận lúc trước đây thật là ấu trĩ, buồn cười.

Trung Hoa cổ có câu chuyện, có người học trò tên Tăng Sâm vốn là người con hiền, hiếu thảo, bà mẹ cũng là người nhân hậu. Một hôm, có người hớt hải chạy đến báo mẹ ông Tăng Sâm rằng: “Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ nói: “Chẳng khi nào con ta lại giết người”. Rồi bà điềm nhiên ngồi dệt cửi. Một lúc, lại có người đến bảo: “Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ không nói gì, cứ điềm nhiên dệt cửi. Một lúc nữa lại có người đến bảo: “Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ sợ cuống, quăng thoi, trèo qua tường chạy trốn. Thực sự có kẻ trùng tên với ông giết chết người, chứ chẳng phải là ông. Nhiều người cùng nói sẽ có tác dụng mạnh, giống như sự cộng hưởng.

Thời điểm qua ba tháng an cư kiết hạ, việc tập trung tinh tấn tu học nên giới đức và trí tuệ của chư tăng ni tăng trưởng rất nhiều. Sự thỉnh nguyện số đông chư tăng đầy đủ giới đức cùng chú nguyện, khuyên bảo sẽ có tác dụng lớn lao đến đối tượng hướng đến. Đôi khi người trong nhà dù rất giỏi, nhưng khó khuyên bảo người nhà, người ngoài lại nói được, nên người Việt Nam có câu: Bụt chùa nhà không thiêng.

Việc một người tâm chấp rồi mắc kẹt bởi niệm tà kiến của mình, rất khó gỡ bỏ. Trước hết, họ phải nhận thức được nỗi khổ trên bản thân họ, và mong muốn thoát khỏi nỗi khổ đó. Sau đó, được những người có uy tín, hiền đức mà họ kính trọng, đến với họ cùng tâm từ bao dung, khuyên bảo họ sẽ chịu nghe, càng nhiều người càng có tác dụng. Khi thấy ra, tâm họ sáng tỏ, bỏ đi kiến chấp trước đây, không còn mắc kẹt cố chấp trong tâm nữa, tức thời họ tự giải thoát. Là như vậy, chứ thần thông nào cứu họ được nếu họ bảo thủ, chết chìm trong kiến chấp của mình?

Ý nghĩa qua câu chuyện bà Thanh Đề rất thực tiễn cho mỗi người trong cuộc sống đang hiện hữu này. Bản thân mỗi người, trong gia đình hay những người xung quanh, chịu khó quan sát, dễ nhận thấy ra tích chuyện bà Thanh Đề cũng là câu chuyện có bóng dáng của chính mình trong ấy, từ đó có cách nhìn thực tế, tích cực trong việc chuyển hóa thân tâm, thay đổi cách nhìn và điều chỉnh hành vi theo hướng thiện, vừa tốt đẹp cho mình, vừa đem lại lợi ích cho những người xung quanh.

Báo hiếu cho cha mẹ quan trọng, thiết thực và có ý nghĩa nhất vẫn là hướng đạo cho cha mẹ biết đến Tam Bảo, biết tu học theo Chánh pháp khi còn tại thế, gieo nhân địa tốt đẹp cho vị lai. Một khi đã mất thân người, còn chút vớt vát với song thân bằng cách sắm sanh lễ vật thỉnh chư tăng chú nguyện, việc này lợi ích cho người sống hơn là người đã quá vãng, buồn thay! Thử quán xét xem, lúc còn đang sống với đầy đủ diệu dụng của sáu căn thanh tịnh, với phước báu đang có ở cõi Người,… mà đã khó học Đạo, khó tin Chánh pháp, thì làm sao đang nơi tối tăm khổ sở, lo sợ, bối rối trăm bề, tâm thần mê muội, dễ đâu nghe nổi lời chú nguyện, khuyên bảo?! Có phải là ảo tưởng quá chăng? Có phải là vẫn mù mờ ảo vọng? Trường hợp mẹ Thanh Đề là rất hy hữu: Do có được người con là Mục Kiền Liên tu chứng, hết lòng thương mẹ, thỉnh được rất đông chư tăng, đầy đủ oai đức thời Đức Phật, đồng tâm chú nguyện, khuyên bảo. Còn đa số bây giờ, lễ cầu siêu cũng rất nhiều, rất đông, cũng hoành tráng đó; người có trí thử suy nghĩ thực tế xem, có dễ siêu thoát được chăng?

Ở Phan Thiết vài năm trước đây, đã từng xảy ra chuyện bi hài, khi có một người bỗng nhiên tìm đến chùa, bỏ ra một số tiền, nhờ một ngôi chùa tập trung nhiều chư tăng, cầu siêu cho mẹ. Lễ xong, cúng dường phong bì cho quý thầy đầy đủ đâu ra đó, rồi vị ấy hỏi quý thầy rằng, mẹ ông có siêu thoát không? Quý thầy trả lời rằng, với tấm lòng hiếu thảo của ông, cùng với việc đông chư tăng tụng kinh cầu siêu chú nguyện như vậy, mẹ ông chắc chắn sẽ siêu thoát. Năm sau đến ngày giỗ mẹ, có người thân cũng khuyên ông nên tổ chức mời chư tăng về cúng cầu siêu. Ông ngạc nhiên, nhưng cũng đến gặp thầy trụ trì năm trước, hỏi năm nay có nên cúng cầu siêu cho mẹ ông nữa không, thầy nói nên cúng chứ, và thầy vui vẻ sẵn sàng tập trung chư tăng giúp ông làm lễ. Lúc này, ông ấy mới gay gắt lập luận rằng năm ngoái, ông bỏ tiền nhờ chùa tổ chức lễ cầu siêu, cúng dường quý thầy hậu hỉ, và đã được nghe đảm bảo rằng mẹ ông đã siêu thoát. Đã siêu thoát rồi, tại sao bây giờ lại cúng cầu siêu nữa làm chi, vậy là mấy thầy cúng ăn tiền rồi nói xạo, mẹ ông vẫn chưa siêu thoát được, ông muốn bắt đền (vì cho rằng nhà chùa đã vi phạm hợp đồng) và đòi lấy tiền lại. Mặc cho mấy thầy lý giải này nọ, ông vẫn không chịu, và đòi làm lớn chuyện. Chuyện buồn cười này sau đó rồi cũng thôi, không kiện tụng và bồi thường gì, nhưng thời gian ấy đã thành trò cười, những lời đàm tiếu trong thiên hạ, chẳng biết là hướng về bên nào!

Tôn giả Mục Kiền Liên là tấm gương sáng cho gương hiếu hạnh, cho tấm lòng hiếu thảo của người con đối với cha mẹ. Bà Thanh Đề là kinh nghiệm quý báu cho mọi người học hỏi, để biết cách thoát khỏi địa ngục trói buộc, chuyển tâm mà tự siêu thoát.

Cách báo hiếu của Tôn giả Xá Lợi Phất có phần may mắn hơn khi Ngài tìm về thăm và độ được mẹ trước khi bà mất. Lúc này, Ngài sắp tịch, và mẹ của Ngài, bà Xá Lợi đã gần một trăm tuổi. Đủ duyên, Ngài thuyết pháp cho mẹ mình, bà nhận ra, quy kính Thế Tôn, lìa bỏ kiến chấp ngoại đạo trước đây, thoát khỏi lưới mê, chứng quả Tu đà hoàn bước vào dòng Thánh, phúc lạc lâu dài.

Đạo Phật đề cao hiếu hạnh. Các chư Tổ cũng để lại nhiều tấm gương về lòng hiếu thảo với song thân. Ngay Đức Phật là tấm gương sáng về hiếu hạnh. Ngày Thái tử xuất gia, thời đó người ta đã lên án Ngài bất hiếu, bất trung, bất nghĩa,… Nghe họ luận ra rất đúng luôn: Bất hiếu vì Ngài cãi lời phụ vương vượt thành xuất gia, không ở lại chăm sóc phụ vương và di mẫu. Ngài ra đi khiến cho mọi người trong hoàng cung buồn khổ. Bất trung vì không chịu kế tục ngai vàng, lãnh đạo đất nước, bỏ đi khi thành Ca-tì- la- vệ đang rất cần sự tài trí của Ngài. Bất nghĩa vì bỏ vợ con ra đi khi La- hầu- la còn thơ dại, vợ con cần có Ngài kế bên để giúp đỡ, nương tựa,… Theo chuyện đời, và Nho giáo có vẻ đúng lắm. Nhưng con đường Thái tử đã chọn, họ không thể nào hiểu được. Và cho đến bây giờ, thực tế chứng minh, thì không ai không thấy Ngài đã báo đáp đầy đủ, làm tròn Nhân Nghĩa Trung Hiếu xuất sắc như thế nào. Đức Phật khi thành Đạo đã về thuyết pháp cho vua Tịnh Phạn chứng quả Thánh khi đang còn tại thế. Độ bà di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Công chúa Da-du-đà-la, cùng con trai La-hầu-la xuất gia và sau đề chứng quả Thánh vị… Đó là luận bàn chuyện nhân thế, còn ánh sáng trí tuệ mà Bậc Toàn Giác soi phá tan màn đêm vô minh cho nhân loại, thì siêu vượt mọi triết thuyết xưa nay, chẳng thể nghĩ bàn.         

Mùa lễ Vu lan sắp đến, nhớ ơn Tôn giả Mục Kiền Liên đã để lại tấm gương hiếu thảo cho mọi người noi theo và đều được lợi lạc. Một vài ý vụng, lời thô, chân thành đến người học đạo, kính mong các bậc Tôn túc, Quý Thầy, cùng các chư huynh đệ không tiếc lời chỉ giáo thêm.

Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 10)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 9)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 8)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 75
    • Số lượt truy cập : 6797379