Thông tin

VÔ TÌNH THUYẾT PHÁP – PHÁP NGỘ CỦA SƠ TỔ TÀO ĐỘNG

 

HT. THÍCH BẢO NGHIÊM*

 

Hiện nay, con người đang sống trong thời đại tân tiến nhất của lịch sử nhân loại, với một nền văn minh hậu công nghiệp. Tuy nhiên, trong làn sóng phát triển không ngừng của xã hội văn minh, con người phải gánh chịu những mặt trái còn tồn tại của nó như: những tệ nạn xã hội, bệnh tật, tội ác, khủng hoảng kinh tế, chính trị, nạn thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, tranh chấp quốc tế…, bản thân mỗi con người chênh vênh giữa những mối lo, những mầm mống của sự khủng hoảng trong cơn đau khổ. Vậy đâu là nơi nương tựa cho những tâm hồn hiện đại? Con người chỉ có thể thoát nỗi lo đó khi con người có sự an lạc trong tâm hồn, có cái nhìn tỉnh thức và có một nhân sinh quan đúng đắn về thế giới xung quanh chúng ta. Đó chính là con đường đi đến với Thiền; với mục đích là giải thoát, giải thoát khỏi sự vô minh, giải thoát khỏi sự đau khổ. Đó là những giá trị mà thiền mang lại. Trong bài viết này, người viết bàn luận đôi nét về chỗ tỏ ngộ“Vô tình thuyết pháp” của sơ tổ Thiền phái Tào Động.

1. Sơ tổ của Tông Tào Động.

Thiền sư Động Sơn Lương Giới (807-869) là vị tổ khai sáng tông Tào Động.[1]Theo“Động Sơn Lương Giới Ngữ Lục”thì Thiền Sư húy Lương Giới, họ Du quê ở Hội Kê. Thuở nhỏ theo thầy tụng Kinh Bát Nhã đến câu: “Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý”.Sư chợt lấy tay sờ lên mặt hỏi thầy:Con có mắt, tay, mũi, lưỡi…. Cớ sao kinh nói không? Vị thầy kinh lạ nói: Ta không phải thầy ông.Vị thầy giới thiệu Sư đến núi Ngũ Tiết, lễ bái Thiền Sư Linh Mặc xin xuất gia. Năm 21 tuổi, Sư đến Tung Sơn thụ giới[2]. Sau khi được thụ giới, Ngài du phương tầm sư học đạo với rất nhiều Thiền Sư nổi tiếng đương thời như: Thiền sư Nam Tuyền, Thiền sư Quy Sơn, Thiền sư Vân Nham... Trong quá trình du phương học đạo, chúng ta thấy Thiền Sưcó sự ngộ nhập đạo rất đặc biệt. Trong “Động Sơn Lương Giới Ngữ Lục” có nói đến giai thoại của Thiền sư tham vấn với Ngài Quy Sơn:

Được nghe Quốc sư Huệ Trung nói “Vô tình thuyết pháp”, con chưa hiểu thấu chỗ vi diệu ấy.

Ngài Quy Sơn nói: Ta trong ấy cũng có, chỉ là ít gặp được người kia.

Sư thưa: Con chưa hiểu, xin Thầy chỉ bày.

Ngài Quy Sơn dựng cây phất tử lên, hỏi: Hội chăng?

Sư thưa: Chẳng hội, thỉnh Hòa thượng nói.

Ngài Quy Sơn nói: Miệng do cha mẹ sinh, trọn không thể vì ngươi nói.[3]

Sau đó Thiền Sư lại hỏi;

Lại có người cùng Thầy đồng thời mộ đạo chăng?

Ngài Quy Sơn bảo: Ở Lễ Lăng, tại huyện Du, trong các thất đá nối nhau có một đạo nhân Vân Nham, nếu hay vạch cỏ xem gió ắt vị ấy là người ngươi kính trọng . Tức là ngươi có duyên với vị đó, nên đến rồi vị đó sẽ khéo chỉ cho ngươi.[4]

Ngài Động Sơn từ giã Ngài Quy Sơn và thẳng đến chỗ Ngài Vân Nham. Khi đến Vân Nham Thiền Sư Ngài liền hỏi:

 Sư hỏi:Vô tình thuyết pháp, người nào được nghe?

Ngài Vân Nham bảo: Vô tình thuyết pháp, vô tình được nghe.

Sư hỏi: Hòa thượng lại nghe chăng?

Ngài Vân Nham nói: Nếu ta nghe thì ngươi đâu thể được nghe ta thuyết pháp.

Sư thưa: Con vì sao chẳng nghe?

Ngài Vân Nham dựng cây phất tử lên, hỏi: Lại nghe chăng?

Sư thưa: Chẳng nghe.

Ngài Vân Nham bảo:  Ta thuyết pháp mà ngươi còn chẳng nghe, huống nữa là vô tình thuyết pháp.

Sư hỏi tiếp: Vô tình thuyết pháp gồm những kinh điển gì?

Ngài Vân Nham nói: Đâu không thấy trong Kinh Di Đà nói: “Nước, chim, cây rừng, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp”.[5]

Ngay câu nói đó, Sư liền tỉnh ngộ và nói bài kệ:

Cũng rất kỳ, cũng rất kỳ

Vô tình thuyết pháp chẳng nghĩ nghì

Nếu lấy tai nghe trọn khó hội

Phải đem mắt thấy mới liễu tri.[6]

Qua hai cuộc giai thoại, chúng ta thấy Ngài Động Sơn đã lãnh hội được điều gì? Hai vịthầy khác nhau, hai dòng phái khác nhau nhưng cùng một mục đích, cùng một giáo lý. Đưa phất trần lên có nghĩa là gì? Phất trần là thanh cây nhỏ gắn lông ngựa ở đầu dùng để đuổi ruồi mà không làm chết chúng. Nó trở thành một biểu tượng cho việc dạy pháp, một trong những thứ được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhưng việc đó không quan trong, vấn đề là việc đưa phất trần lên để hiển lộ sự thuyết pháp của loài vô tình. Đưa phất trần, nháy mắt, đưa một cành hoa, gọi và đáp. Hay nói rõ hơn là khi chúng ta đang ở trong cái đang thấy nghe đây mà không cần duyên theo tiếng, ngay đó mình nghe suốt một cách lặng lẽ, rõ ràng. Ngay đó, hoa lá, cỏ cây, chim chóc cũng đang tuyên thuyết một bài pháp vi diệu cho chúng ta nghe. Pháp này dùng tai hay dùng mắt gì cũng nghe được hết chỉ cần chúng takhông rời bản vị của chính mình. Có nghĩa là, tất cả những điều đó liên quan đến sự tương dung“thấy sắc với toàn thể thân và tâm, nghe tiếng với toàn thểthân và tâm”. Khi làm được điều đó, chúng ta có thể hiểu được sự vật một cách sâu xa. Đó là điều mà Động Sơn kinh nghiệm, giáo pháp được trao truyền từ vạn pháp.

Theo tinh thần của kinh Hoa Nghiêmthì nhìn sông núi hùng vĩ, ngắm dòng suối chảy, nụ hoa mơn mởn, cá bơi chim liệng hay thấy tượng Phật trang nghiêm, cảnh chùa thanh tịnh, khiến ta phát tâm, đó là vô tình thuyết pháp. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Cõi nước thuyết, chúng sinh thuyết, ba đời tất cả thuyết. Chúng sinh là hữu tình, cõi nước há là hữu tình”?[7]Phương pháp này, ý ở chỗ phá trừ vọng tâm phân biệt, chỉ ra Phật tính ở khắp mọi nơi. Cho nên, nếu chúng ta hiểu Phật đạo hay chủng trí ở nơi cái Tính thể thì mới thấy tất cả các loài hữu tình hay vô tình đều có chung một Tính thể. Vạn vật đồng nhất thể dụ như muôn ngàn lượn sóng to nhỏ có khác nhau, nhưng tất cả đều từ nước mà có. Sóng tuy có khác mà nước thì chỉ có một. Nước là thể mà sóng là tướng và dụng của nước vậy.

Tính thể này chính là tính thanh tịnh bản nhiên của muôn vật. Ở nơi loài hữu tình, thì gọi nó là Phật tính; ở nơi loài vô tình, thì gọi nó là Pháp tính. Như vậy, giữa Phật tính và Pháp tính, danh từ tuy khác nhau nhưng Thể không hai. Người nào nhận ra và sống trọn vẹn với cái tính thể đó thì gọi người đó là Phật hay bậc Đại giác. Như vậy,là hai mà không hai (trong kinh thường gọi là Pháp môn bất nhị) vì giác ngộ việc đó nên thành Phật thì Phật cũng không ngoài Pháp tính. Nói chung, hữu tình và vô tình đều có chung một bản thể sáng suốt thanh tịnh, nên nói là “đồng thành Phật đạo” hay “đồng viên chủng trí” cũng thế.

Sau khi Thiền Sư đắc pháp, Ngài đến Động sơn thiết lập ra Ngũ vị (tứcThiên Trung Chính; Chính Trung Thiên; Chính Trung Lai; Thiên Trung Chí; Kiêm Trung Đáo) xoay quanh ý niệm Chính (thẳng) và Thiên (nghiêng).Thuyết Chính Thiên ngũ vị chính là thiết lập Bản giác, Bất giác nhị nguyên. Bản giác hướng về tinh thần tùy duyên, lấy sự vật hiện tượng hiển hiện vạn hữu sai biệt, hay chính là trong tĩnh có động là Chính Trung Thiên; Bất giác là hướng đến hòan diệt, lấy tinh thần tùy thuận chân như bình đẳng làm lý tính, tức trong động có tĩnh đó chính là Thiên Trung Chính. Khi ý niệm Chính Thiên hợp nhất, tức là động tĩnh bất phân đó chính là Kiêm Trung Đáo.

2. Phát huy tinh thần của Thiền sư Động Sơn.

Đến thế hệ sau, Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch đã kế thừa thuyết ngũ vị này mà diễn giải thông qua mối quan hệ giữa vua và quần thần (ngũ vị quần thần). Theo đó vua là vua, quần thần là quần thần nhưng vua chỉ là vua khi vua có quần thần, quần thần chỉ là quần thần khi có vua và cả vua lẫn quần thần cùng tồn tại bên nhau.

Từ nguyên tắc năm vị trên, các thiền sư phái Tào Động đã hình thành một số chủ trương sau:

- Chỉ cần ngồi thiền mà không cần chủ đề thiền tọa (chỉ quán đả tọa)

- Ngồi thiền và đạt đạo là một việc chứ không phải là hai (tu Chứng nhất như)

- Không trông chờ sự chứng đắc (Vô sở đắc)

- Không có đối tượng giác ngộ (Vô sở ngộ)

- Tâm và thân nhất như (Thân tâm nhất như)

Cũng từ đó tông Tào Động có cơ duyên phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc. Căn cứ theo cuốn “Kế Đăng Lục” của tổ Như Sơn thì đến đời thứ 73 thì dòng Thiền Tào Động được truyền sang miền Bắc Việt Nam do Thủy Nguyệt thiền sư truyền vào thế kỷ thứ 17.[8] Như vậy, dòng Thiền Tào Động ở miền Bắc Việt Nam Ngài Thủy Nguyệt là sơ tổ dòng Tào Động Việt Nam. Cũng từ đó, tiếp nối dòng thiền Tào Động phát triển ngày càng lớn mạnh, từ cung đình đến ngoài dân dã, nhiều chùa chiền của dòng phái này được xây dựng và đã trở thành những trung tâm hoằng pháp, độ sinh; nhiều bậc cao tăng thạc đức cũng từ đây xuất hiện, làm cho Phật giáo nước nhà ngày càng xương minh, thịnh vượng đến tận ngày nay. Đặc biệt, phát huy tinh thần tư tưởng “Vô tình thuyết pháp” của dòng thiền, chư vị tổ sư đã hoằng pháp lợi sinh mang lại lợi ích lớn lao cho đạo pháp dân tộc. Căn cứ theo bia đá chùa Hòe Nhai (ở Hà Nội) là chốn tổ của Thiền phái Tào Động thì các đời tiếp nối trụ trì đã có đến 6 vị tổ sư được nhà vua ban sắc phong. Điển hình như đệ nhị Tổ Tông Diễn đã thuyết pháp chonhà Vua và triều đinh nhà Lê nghe để Phật giáo vượt qua được Pháp nạn do vua Lê Hy Tông chỉ đạo; lời đề nghị của Hòa thượng Thích Đức Nhuận lên lãnh đạo Đảng nhà Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tiếng chuông vang vọng muôn thuở trong tiến trình lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Lời kết:

Như vậy, thiền phái Tào Động với những chủ trương mang nét đặc sắc riêng của mình, những tư tưởng nhập thế cứu giúp mê tình, ngay từ những buổi đầu hình thành đã cho chúng ta thấy rõ được tư tưởng nhập thế cứu độ chúng sinh làm cốt lõi trong hành trình tu tập của mình. Đời đời kế tiếp, rồi truyền sang Việt Nam, nhưng tư tưởng “Hoằng pháp vi gia vụ” được chư vị tổ sư vẫn duy trì và phát triển một cách mạnh mẽ, đã có những ảnh hưởng nhất định đối với các thiền phái Việt Nam; đối với sự gắn kết giữa đạo và đời, có vai trò tích cực đối với đời sống xã hội hiện nay.



* Phó chủ tịch HĐTS, GHPGVN; Trưởng ban Hoằng pháp TWGHPGVN.

[1]  Tham khảo, Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 2, Trang 497, nxb Phương Đông.

[2] Tham khảo, Thích Thanh Từ, Thiền sư Trung Hoa tập 2, trang 11, nxb Thành hội Phật giáo TP. HCM.

[3]NguyênvănchữHán:

「良價禪師舉說完畢,溈山禪師道:我這裡亦有,只是罕遇其人。良價禪師道:某甲未明,乞師指示。 溈山禪師于是豎起拂子,問道:會麼?良價禪師道:不會,請和尚說。溈山禪師道:父母所生口,終不為子說。」«洞山良价禪師語錄»,卍續藏經一一九冊。

[4] Nguyên văn chữ hán:

「師曰還有與師同時慕道者否。溈曰。此去澧陵有雲巖道人。若能撥艸瞻風。必為子之所重。」, 卍續藏經一一九冊。

[5] Nguyên văn chữ hán:  良价後參雲岩禪師,依然問:「無情說法,什麼人能聽得懂?」雲岩回答:「無情能聽得懂。」良价又問:「和尚你能聽得懂嗎?」雲岩回答:「我若能聽懂無情說法,你就不會聽懂我說法了。」良价問:「你為什麼聽不懂呢?」雲岩豎起拂塵,問道:「你聽懂了嗎?」良价回答:「什麼懂不懂的,我什麼都沒聽到。」雲岩於是說:「我說法你都聽不到,何況是無情說法呢?」良价問:「無情說法,有什麼經典的依據呢?」雲岩回答:「你難道沒讀過《阿彌陀經》嗎?此經不是說水鳥樹林皆演法音嗎?」。«洞山良价禪師語錄»,卍續藏經一一九冊。

[6] Nguyên văn chữ hán:

良价由是有悟,遂說渴曰:「也大奇!也大奇!無情說法不思議!若將耳聽終難會,眼處聞聲始得知。」。«洞山良价禪師語錄»,卍續藏經一一九冊。

[7]  Nguyên văn chữ Hán:

《華嚴經》云:剎說、眾生說、三世一切說、眾生是有情、剎豈是有情乎?

東吳僧道原撰,《景德傳燈錄》(卷28) T51, p0438a, No. 2076.

[8]  Sa môn Như Sơn, Thích Thiện Phước dịch, Thiền Uyển Kế Đăng Lục, Trang 295, nxb Hồng Đức, 2015.

Bình luận bài viết

    Tin sinh hoạt phật sự

    Video bài giảng

    Pháp âm

    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 18)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 17)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    • Tịnh Độ Đại Kinh (Tập 16)/ Giải, diễn nghĩa: Pháp sư Tịnh Không/ Trưởng ban biên dịch: Tỳ kheo Thích Đồng Bổn/ Đọc: Tú Trinh
    Pháp âm khác >>

    Thống kê truy cập

    • Online: 141
    • Số lượt truy cập : 7268950